Bạn cần đăng nhập để báo cáo vi phạm tài liệu

TOP 10 mẫu Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (2024) HAY NHẤT

98

Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 10 mẫu Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (2024) HAY NHẤT Kết nối tri thức gồm dàn ý, các bài văn mẫu và video hướng dẫn chi tiết giúp học sinh lớp 4 viết các bài tập làm văn hay hơn. Mời các bạn đón xem

TOP 10 mẫu Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (2024) HAY NHẤT

Đề bài: Dựa vào dàn ý đã lập trang 46, em hãy viết bài văn kể lại một câu chuyện em đã đọc hoặc đã nghe.

Dàn ý viết bài văn kể lại một câu chuyện em đã đọc hoặc đã nghe

1. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện:

  • Tên truyện
  • Tên nhân vật

2. Thân bài: Ghi vắn tắt diễn biến của câu chuyện theo một trong hai cách sau:

  • Cách 1: Ghi từng sự việc theo trình tự thời gian.
  • Cách 2: Ghi từng sự việc gắn với mỗi địa điểm hoặc tình huống.

Lưu ý:

  • Mỗi sự việc cần nêu cụ thể:
  • Sự việc diễn ra khi nào?Ở đâu?
  • Chuyện gì xảy ra với nhân vật?
  • Nhân vật đã giải quyết ra sao?
  • Ghi chép cụ thể hơn đối với sự việc chính

3. Kết bài: Nêu kết thúc câu chuyện. Có thể bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc về nội dung câu chuyện.

Cây tre trăm đốt - Truyện cổ tích Việt Nam - Cùng đọc sách

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 1)

Trong kho tàng cổ tích Việt Nam, em rất thích câu chuyện Cây tre trăm đốt.

Truyện kể về một anh nông dân thật thà, chăm chỉ lại khỏe mạnh vô cùng. Để bóc lột anh, phú ông hứa rằng nếu anh làm cho nhà ông ta ba năm không lấy tiền công thì sẽ gả con gái cho. Vốn thầm thương con gái phú ông, anh đồng ý liền.

Ngờ đâu qua ba năm, phú ông trở mặt, lừa anh đi tìm cây tre trăm đốt về làm sính lễ. Khổ nỗi, anh đi tìm khắp các ngọn đồi đều chẳng thể tìm ra. Mà trong lúc ấy, ở nhà phú ông đã linh đình làm đám cưới gả con gái cho người khác. May mắn, anh nông dân được bụt hiện lên và chỉ cho câu thần chú gắn một trăm đốt tre rời tạo thành cây tre trăm đốt. Với thần chú đó, anh đã dạy được cho phú ông một bài học nhớ đời khi gắn ông ta liền vào thân cây tre.

Cuối cùng, anh nông dân cũng toại nguyện lấy đươc con gái phú ông. Kết cục có hậu ấy chính là mong ước của ông cha ta từ ngày xưa về việc ở hiền gặp lành.

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 2)

Chuyện kể về một cậu bé ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, chẳng nghĩ đến mẹ ở nhà mỏi mắt chờ mong. Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ, liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kì lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh, rồi chín. Một quả rơi vào lòng cậu. Môi cậu vừa chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ. Cậu nhìn lên tán lá. Lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé oà khóc. Cây xoà cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.

Câu chuyện trên đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Là một người con, chúng ta nên thấu hiểu sự yêu thương, hy sinh của cha mẹ. Vì thế hãy cố gắng trở thành một người con ngoan các bạn nhé!

Sự tích cây khế

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 3)

Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.

Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.

Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”

Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.

Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.

Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”

Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 4)

Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần có sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.

 

Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ cung.

Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:

- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?

Lạc Long Quân nói:

- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.

Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:

- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.

Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:

- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.

Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:

- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.

Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:

- Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.

Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.

Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.

Bảo đảm các điều kiện dạy và học trực tuyến cho học sinh nghèo

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 5)

Hôm nay, em xin kể cho cô và các bạn một câu em đã đã đọc trên báo Người lao động nói về một tấm gương đã góp sức mình chống lại đói nghèo lạc hậu. Đó là cô Nguyễn Thị Hoa – một cô giáo vùng cao công tác tại Sơn La đã hơn 20 năm.

Cô giáo Nguyễn Thị Hoa sinh ra và lớn lên ở tỉnh Hải Dương. Năm 2002, cô về công tác tại trường THCS Mường Trai, huyện Mường La. Đến tháng 9.2006, cô Hoa chính thức trở thành giáo viên trường TH&THCS Chiềng San (khi đó là trường THCS Chiềng San). Kể từ đó, không chỉ hoàn thành nhiệm vụ “cõng” chữ lên non, cô Hoa này còn “cõng” cả tình yêu thương đến những bản nghèo.

Xã Chiềng San, huyện Mường La vẫn còn nhiều bản làng của đồng bào người Thái có điều kiện kinh tế chưa phát triển, cuộc sống thiếu thốn. Trải qua quá trình công tác, tận mắt chứng kiến cảnh học trò thiếu ăn, thiếu mặc, tình thương trong cô trỗi dậy. Từ đó, cô bắt đầu tìm tòi vận động các nguồn lực để giúp đỡ các em được ăn thêm một bữa ăn no, mặc thêm một chiếc áo đủ ấm.

Trong quá trình dạy học, giúp đỡ và hỗ trợ các em, có một kỉ niệm cô Hoa nhớ mãi, đó là tiết học thể dục của năm học 2018-2019, em học sinh tên Máy bị ngất xỉu và được đưa vào phòng chờ giáo viên nằm nghỉ ngơi. Sau tìm hiểu cô được biết, Máy bị bệnh tim bẩm sinh, hở 4 van, gia đình vô cùng khó khăn, hai mẹ con sống trong căn chòi dột nát thiếu trước hụt sau.

Trước tình thế cấp bách, tính mạng của Máy “ngàn cân treo sợi tóc”, cô Hoa đã viết bài kêu gọi các mạnh thường quân giúp đỡ, quyên góp hỗ trợ đưa cô học trò nhỏ đi viện. May mắn thay, ca mổ thành công. Nay cô bé gầy gò ốm yếu ngày ấy đã trở thành một thiếu nữ 18 tuổi, khỏe mạnh, xinh xắn và có công ăn việc làm ổn định.

Hơn 20 năm gắn bó với nghề, ngoài nhiệm vụ giảng dạy, cô luôn quan tâm đến hoàn cảnh của các em học sinh trong và ngoài nhà trường để có những giúp đỡ kịp thời về mọi mặt. Với những nỗ lực của mình, cô Hoa đã được các cấp chính quyền địa phương khen thưởng, tặng nhiều bằng khen, giấy khen như Tổng phụ trách Đội giỏi cấp tỉnh, Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp huyện và được học sinh, đồng nghiệp quý mến.

Hình ảnh của cô giáo vùng cao Nguyễn Thị Hoa đã để lại trong em ấn tượng sâu sắc về một nhà giáo nhân dân hết lòng vì học sinh thân yêu.

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 6)

Em đã đọc rất nhiều chuyện viết về người tài giỏi. Trong số đó, em thích nhất câu chuyện Bốn anh tài của sách Tiếng Việt 4 tập 2. Sau đây, em xin kể lại cho các bạn cùng nghe.

Chuyện kể về bốn người anh hùng nhỏ tuổi người Tây nhưng tài giỏi. Đó là Cẩu Khây, Nắm Tay Đóng Cọc, Lấy Tai Tát Nước và Móng Tay Đục Máng. Bốn người họ đã tập họp nhau lại để cùng diệt trừ yêu tinh, đem lại hạnh phúc cho buôn làng.

Cẩu Khây là mới chỉ 10 tuổi nhưng sức khỏe phi thường, tinh thông vỏ nghệ. Thấy yêu quái hoành hành trong bản thì không chịu được, cậu quyết chí ra đi diệt trừ yêu tinh. Trên đường đi, Cẩu Khây đã khơi gợi tinh thần nghĩa hiệp của ba người tài giỏi khác cùng đi với mình. Mỗi người họ đều có tài riêng rất độc đáo. Nắm Tay Đóng Cọc thân hình vạm vỡ, có thể dùng tay đóng cọc, đắp đập dẫn nước vào ruộng. Mỗi quả đấm của cậu giáng xuống, cọc tre thụt sâu hàng gang tay.

Lấy Tai Tát Nước thì có khả năng dùng vành tai của mình tát nước từ dưới suối lên ruộng nhanh thoăn thoắt. Còn Móng Tay Đục Máng thì có thể dùng móng tay của mình đục gốc thành lòng máng vừa to vừa rộng, đưa nước vào ruộng rất nhanh. Bốn người họ kết nghĩa anh em và quyết chí đến chỗ yêu tinh để diệt trừ nó.

Yêu tinh thân hình cao lớn, lưỡi dài như quả núc náo, mắt xanh lè, trợn trừng. Đặc biệt nó rất thích ăn thịt trẻ con. Ngửi thấy mùi của bốn anh em, nó xông tới định ăn thịt. Nhưng ngay lập tức, Nắm Tay Đóng Cọc đấm một cái làm nó gãy hết răng. Chưa hoàn hồn, nó lại bị quật túi bụi bởi một cây cổ thụ lớn trong tay Cẩu Khây. Yêu tinh đau quá, kêu rú lên khiến gió bão nổi ầm ầm, trời đát tối sầm lại. Yêu tinh chạy đến chân thung lũng thì dừng lại, phun nước mưa làm ngập cả cánh đồng nơi bốn anh em đang đứng. Không hề nao núng, Nắm Tay Đóng Cọc trổ tài be bờ ngăn nước lũ, Lấy Tai Tát Nước tát nước qua núi cao, Móng Tay Đục Máng thì ngã cây khoét máng, khơi dòng cho nước chảy đi. Chỉ một lúc, mặt đất lại khô cạn, Yêu tinh túng thế phải chịu thua. Từ đó, bản làng của họ lại đông vui, yên ổn.

Đam mê vẽ tranh bằng chân của cô gái giàu nghị lực

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 7)

Sáng chủ nhật vừa qua, em được ba chở đi chơi từ cảng Sài Gòn, qua lưu niệm Nhà Rồng sang đến vườn hoa trước cửa uỷ ban Nhân dân thanh phố. Xung quanh tượng đài Bác Hồ, rất đông các bạn thiếu nhi trạc tuổi em đang tung tăng dạo chơi cùng cha mẹ. Hàng trăm trái bóng đủ màu sắc bay lượn trong nắng sớm lung linh trông thật vui mắt. Lát sau, ba đưa em đến nhà sách Xuân Thu trên đường Đồng Khởi để mua bộ truyện tranh Harry Potter. Từ xa, em đã nhìn thấy một nhóm người đang sôi nổi bàn tán về một điều gì đó. Đến gần, em không thể tin vào điều đang xảy ra trước mắt một hoạ sĩ đang vẽ tranh bằng bàn chân phải.

Đó là một người đàn ông tật nguyền. Nhìn anh, người ta rất khó đoán tuổi gương mặt sạm nắng đầy những vết nhăn khắc khổ, trái ngược hẳn với đôi mắt đen sáng và nụ cười hồn nhiên như nụ cười trẻ thơ. Em đoán anh ấy khoảng hơn ba mươi tuổi, nhưng thân hình còm cõi của anh không bằng đứa trẻ lên mười.

Anh mặc bộ quần áo màu tím than đã cũ. Hai ống tay áo rủ xuống lòng thòng, che kín đôi cánh tay bị liệt. Tất cả “xưởng vẽ” của người hoạ sĩ ấy nằm gọn trong một miếng nilông trải trên mặt đất. Hàng chục bức tranh bày la liệt trước mặt: hoa và chim, hồ cá cảnh với những chú cá vàng lộng lẫy đang tung tăng bơi lượn, bầu trời xanh thẳm và cánh diều trắng chấp chới bay, đồng lúa xanh trải rộng tới chân trời làm nền cho chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo… Mọi người xúm quanh xem tranh và đặc biệt là xem anh vẽ.

Anh quặp chặt cây bút lông vào giữa ngón chân cái và ngón thứ hai của bàn chân phải. Khay màu nước để bên cạnh. Bàn chân trái đè chặt tờ giấy. Bàn chân phải làm việc nhanh nhẹn, thành thạo như một bàn tay lành lặn. Sau một nét bút, một cánh hoa hiện lên. Hoa loa kèn trắng, hoa hồng đỏ, hoa cúc vàng… cắm trong chiếc bình màu men ngọc, đặt trên mặt bàn trải tấm khăn màu xanh nhạt. Anh vẽ rất nhanh và pha màu cũng rất khéo. Một bức tranh tĩnh vật đã hoàn thành trước sự trầm trồ thán phục của mọi người.

Ba em gợi chuyện và được anh cho biết là anh từ một tỉnh xa xôi ngoài Bắc vào đây kiếm sống. Anh không muốn nhờ vả, làm phiền người quen mà tự nuôi thân bằng công sức, tài năng của chính mình. Em thật sự xúc động khi nghe anh nói là để vẽ được như ngày hôm nay, anh đã phải trải qua hơn mười năm trời khổ luyện.

Thấy em thích bức tranh, ba đã mua tặng cho em. Ở góc bức tranh, em đọc thấy dòng tên: Nguyễn Quyết Tiến. Có thể đó là tên thật hoặc cái tên anh tự chọn cho mình. Con người ấy, cái tên ấy đã đọng lại trong em một ấn tượng sâu đậm. Em treo bức tranh ngay trước bàn học và mỗi lần nhìn vào đó, em như thấy mình được tiếp thêm nghị lực. Hình ảnh người hoạ sĩ tật nguyền luôn nhắc nhở em rằng hãy biết vượt lên số phận và chiến thắng những gian nan, thử thách trên đường đời.

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 8)

Sau đây, mình xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về một người rất tài năng mà mình vừa tìm hiểu qua báo chí. Đó là anh Đỗ Nhật Nam, người được gọi với cái tên đầy vinh dự là “thần đồng tiếng Anh”.

Anh Nam sinh ra ở tại Hà Nội, bố mẹ là viên chức nhà nước. Từ nhỏ, anh Nam đã bộc lộ mình là người có khả năng nhanh nhạy, biết cách học và nỗ lực, kiên trì rèn luyện. Cùng với sự quan tâm, giúp đỡ của gia đình nên ngày càng phát huy được ưu điểm của bản thân, đặc biệt là khả năng học tiếng anh. Anh Nam có nhiều thành tích nổi bật, đáng khâm phục với khả năng giao tiếp bằng tiếng anh thành thạo, từng làm diễn giả tại Mỹ khi tham gia hội nghị “Khoa học về nụ cười”… Anh Nam cũng là một dịch giả nhỏ tuổi và có khả năng sáng tác tự truyện, ngoài ra anh cũng tham gia nhiều hoạt động xã hội, ngoại khoá đầy bổ ích. Năm lớp hai đã đạt thành tích cao về TOEIC, đến lớp 5 đạt điểm IELTS với mức tuyệt đối. Hiện nay, anh đang du học tại Mỹ với nhiều dự định chinh phục những đỉnh cao mới, nhận vô số bằng khen của trường quốc tế và thư chúc mừng của tổng thống Mỹ Obama. Anh Nhật Nam được rất nhiều người biết đến và ngưỡng mộ. Nhiều video về cách học tiếng anh được anh hướng dẫn và đăng lên mạng thứ hút hàng triệu lượt xem. Các báo chí, truyền thông viết về anh rất nhiều.

Em luôn lấy anh ấy làm tấm gương để nỗ lực học tập và phấn đấu. Em mong rằng sau này mình cũng giỏi như anh, để mang niềm vui về cho gia đình, vinh quang về cho đất nước.

Phát hiện chấn động: Tấm, Cám có thật ở Bắc Ninh? | Báo Pháp luật Việt Nam  điện tử

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 9)

Em rất thích đọc truyện cổ tích. Và trong tất cả những câu chuyện cổ tích em từng đọc thì em ấn tượng nhất với nhân vật cô Tấm. Một nhân vật trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám.

Cô Tấm có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Mẹ mất sớm cha cô đi lấy vợ hai. Nhưng chẳng bao lâu cha cô cũng qua đời. Cô ở với dì ghẻ và con riêng của dì ghẻ là Cám. Hai mẹ con Cám không yêu thương gì Tấm mà luôn tìm cách hãm hại cô. Dù chịu nhiều tủi hờn nhưng Tấm vẫn hết sức xinh đẹp lại nết na thùy mị.

Tấm có thân hình mảnh mai. Khuôn mặt trái xoan với làn da trắng nõn căng mọng. Đôi mắt bồ câu đen láy, trong vắt như hòn bi ve. Cặp lông mày lá liễu càng làm nổi bật hơn vẻ đẹp của đôi mắt ấy. Tấm có chiếc mũi dọc dừa, rất cân đối với khuôn mặt. Bên dưới chiếc mũi nhỏ nhắn đó là một đôi môi đỏ chúm chím. Tấm có một mái tóc dài mượt và đen láy, luôn được cô vấn lên gọn gàng cột lại bằng một chiếc khăn mỏ quạ truyền thống. Nhìn tổng thể Tấm chẳng khác gì một tiên nữ với một vẻ đẹp trong sáng và thành thiện.

Sống với mẹ con Cám Tấm phải làm việc quần quật cả ngày. Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi tối muộn. Có những hôm cô phải đi chăn trâu ở tận bên làng xa. Rồi phải đi mò cua bắt ốc. Tấm còn phải làm cả những phần việc của Cám do Cám lười mà đùn đẩy cho cô. Thế mà Tấm vẫn rất chi là siêng năng chăm chỉ, chẳng khi nào than phiền tới nửa lời. Vận chiếc áo tứ thân màu nâu cũ đã sờn bạc, cô lặng lẽ quét nhà, quét sân, chăm sóc vườn tược, tới cây bắt sâu, nấu cơm giặt giữ, lau chùi sắp xếp nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp từ trong ra ngoài không có lấy một điểm gì chê được.

Tấm còn là một người có sức sống mạnh mẽ, sự sống của Tấm chính là sự sống của cái thiện trong xã hội, mặc dù bị mẹ con Cám hại chết hết lần này đến lần khác những Tấm vẫn hồi sinh, hóa thân thành cây con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và cuối cùng là quả thị. Và đến cuối cùng Tấm cũng có được hạnh phúc của chính mình khi được về sống với nhà vua. Và mẹ con Cám phải trả giá cho những hành động độc ác của chính mình.

Cô Tấm xinh đẹp, dịu hiền lại chịu thương chịu khó. Cô Tấm đẹp người đẹp nết ấy là biểu tượng của nhân dân Việt Nam. Qua truyện cổ tích Tấm Cám em càng hiểu hơn câu nói của dân gian “Ở hiền thì lại gặp hiền – Người ngay thì được Phật, Tiên độ trì”.

Viết bài văn kể lại một câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe (mẫu 10)

Có rất nhiều câu chuyện em được nghe kể. Một trong số các câu chuyện mà em thích nhất đó là Sọ Dừa nhiều bài học trong đó.

Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con. Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang. Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.

– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.

Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.

Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!

Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kỳ, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.

Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.

Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.

Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:

– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.

Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.

Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.

Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, hai quả trứng gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to: “Ò… ó… o…. Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”.

Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.

Xêm thêm các bài Tập làm văn lớp 4 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Viết 2 - 3 câu về sự kiên cường của những người lính đảo

Đặt 1 - 2 câu về con vật, cây cối, đồ vật ... trong đó có sử dụng biện pháp nhân hóa

Đặt 2 - 3 câu nói về một người anh hùng dân tộc

Đọc câu chuyện về những trải nghiệm trong cuộc sống

Điều em thích nhất trong bài thơ Đi hội Chùa Hương

 

Đánh giá

0

0 đánh giá