Top 50 Bài Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Tải xuống 42 1.2 K 4

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 Bài Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 12 làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Dàn ý Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…)

- Giới thiệu về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái quát nội dung và nghệ thuật)

2. Thân bài

2.1. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương

a) Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn

- Sông Hương như “một bản trường ca của rừng già”: “rầm rộ … màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “rừng già đã hun đúc … tự do và trong sáng”

→ Từ ngữ tạo hình, gợi tả vẻ đẹp của sông Hương ở vùng thượng nguồn vừa hùng vĩ, man dại vừa trữ tình, say đắm lòng người

- Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, nhân hóa sông Hương thành một thực thể sống động, có hồn

- Hình ảnh so sánh độc đáo “Sông Hương như người mẹ phú sa của một vùng văn hóa xứ sở”

b) Sông Hương ở ngoại vi thành phố

- Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì “nằm giữa cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”

- Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả rất rõ nét, có những đường cong mềm mại, quanh co uốn khúc quanh cố đô Huế

- Tác giả dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy khiến ông mơ màng nhận ra bóng dáng của dòng sông giống như tấm lụa trên có thể người thiếu nữ

c) Vẻ đẹp của sông Hương ở trung tâm thành phố

- Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác biệt so với khu chảy ở ngoại ô

- Dòng sông trở nên vui tươi nhưng cũng rất êm dịu, như một điệu slow tình cảm của xứ Huế

- Dòng sông như người con gái tinh tế đánh đàn trong đêm khuya

2.2. Vẻ đẹp lịch sử và thơ ca của sông Hương

a) Dòng sông lịch sử

- Tên của dòng sông được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi

- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của xứ Huế, của đất nước:

+ Là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời Đại Việt

+ Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ

+ Nó đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”

+ Nó đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển

+ Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1968

b) Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa

- Tác giả cho rằng đó là một dòng thi ca về sông hương, đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình

- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế

2.3. Hình tượng cái tôi tác giả

- Quan sát dòng sông trên nhiều góc đọ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.

- Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.

- Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật

+ Nội dung: với những trang viết mê đắm, tài hoa, bài kí cho chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đpẹ của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình, cái nôi của nền văn hóa Huế

+ Nghệ thuật: văn phong hướng nội, súc tích, hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ,…

- Cảm nhận về văn bản: Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào và tình yêu tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế nói riêng và đất nước nói chung.

Video Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 1

Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau.

Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”…Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.

Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường? Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.

Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.

Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ. Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.

Sông Hương – dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Ðanuýp của Buđapet…” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng. Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm, dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang”, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…

Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…

Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế – chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.

Tình yêu của sông Hương và Huế – một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê va để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.

Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp, câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời…

Top 50 Bài Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh 1)

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 2

Sông Hương có lẽ là một đặc ân trời ban cho Việt Nam nói chung và cho mảnh đất xứ Huế nói riêng. Nó là sự hội tụ của văn hóa, lịch sử, truyền thống,… Bởi vậy, từ bao đời nay sông Hương đã làm say đắm biết bao thế hệ nghệ sĩ. Hoàng Phủ Ngọc tường – cây bút kí tài hoa của văn học Việt Nam cũng không thể cưỡng nổi vẻ đẹp của dòng sông này. Dưới con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dường như mỗi chúng ta lại khám phá, phát hiện ra một vẻ đẹp thật khác, thật lạ của dòng sông này.

Ở mỗi khúc đoạn khác nhau của sông Hương bằng sự am hiểu tường tận, bằng tình cảm chân thành ông nhìn nhận sông Hương với vẻ đẹp vô cùng đa dạng, phong phú.

Trước khi về đến kinh thành Huế, sông Hương tựa như một bản trường ca dữ dội của rừng già. Sông Hương ở thượng lưu mang trong mình sự hoang dại, sức sống mãnh liệt nhưng cũng có những nét hết sức dịu dàng, đằm thắm. Bờ sông Hương, bãi sông Hương được tác giả quan sát vô cùng tinh tế, những câu văn đầy chất tạo hình, gây ấn tượng về khung cảnh dữ dội của rừng núi kết hơp sự mãnh liệt của sông Hương qua những gềnh thác “cuộn xoáy như cơn lốc”. nào ai có thể ngờ được, một dòng chảy cuộn trào như vậy lại còn có thể mang vẻ đẹp hết sức đằm thằm , đầy nhiệt huyết của một cô gái di-gan phóng khoáng. Trường liên tưởng đó của ông được gợi lên từ chính “màu đỏ của hoa đỗ quyên”. Cách liên tưởng đó vừa tinh tế, vừa chính xác, mang đến cho sông Hương một vẻ đẹp khác hẳn, rừng già đã mang đến cho sông Hương sự “bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”.

Cách miêu tả của ông vô cùng say đắm, ngọt ngào, mang một nét rất riêng, khắc hẳn với sự sắc sảo, tinh tế trong bút kí của Nguyễn Tuân. Ông cũng miêu tả cái dữ dội của sông nhưng nếu như sông Đà – Nguyễn Tuân đầy oán trách, đầy dữ dội, nguy hiểm, thì sông Hương lại là bản trường ca của rừng già. Cách miêu tả dòng sông luôn được đặt trong tương quan với con người, lúc hoang dại như một cô gái Di-gan, lúc lại êm đềm, sâu sắc như bà mẹ phù sà bồi đắp, nuôi dưỡng mảnh đất xứ Huế mộng mơ. Chính cái tương quan đó đã tạo nên vẻ đẹp khác biệt cho dòng sông Hương.

Trải qua biết bao thăng trầm, từ thượng nguồn về đến kinh thành Huế, rồi đổ ra biển lớn sông Hương đã phải vượt qua biết bao khúc đoạn khác nhau. Ra khỏi rừng già Trường Sơn, về đến cánh đồng Châu Hóa, sông Hương được ví như một người con gái đẹp đang nằm ngủ mơ mà, chờ đợi người tình trăm năm đến đánh thức mình dậy. Sông Hương khôn còn mang vẻ hoang dại cua người con gái Di gan mà thay vào đó là sự nên thơ, với những đường cong mềm mại hết sức nữ tính, nó như một dải lụa mềm maik “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Có được những quan sát tinh tế và chính xác như vậy, cho thấy ông là người hết sức am hiểu văn hóa, địa lí nơi đây và còn có một tình cảm đặc biệt dành cho khung cảnh và con người xứ Huế.

Từ hàng nghìn năm nay, sông Hương đã chứng kiến biết bao biến chuyển của lịch sử, có thể coi nó chính là chứng nhân lịch sử của mảnh đất này. Đây đồng thời cũng là yếu tố làm nên cốt cảnh, phẩm chất của dòng sông Hương. Dòng sông Hương uốn mình quanh những địa danh nổi tiếng, lăng tẩm của vị vua triều Nguyễn nó mang vẻ đẹp trầm mặc, như “triết lí, như cổ thi”. Trong phần này, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đặc biệt chú ý miêu tả màu sắc đặc biệt của sông hương. Nó không thay đổi theo mùa như sông Đà mà thay đổi theo từng thời điểm trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Có bất giác chúng ta nhớ đến tâm tư của một người con gái trẻ, tâm tư cũng thay đổi tựa như màu sắc của dòng sông này vậy. “Quả thực sông Hương có được vẻ đẹp bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).

Đẹp nhất là sông Hương khi đã vào đến kinh thành Huế. Lúc này con sông “như đã tìm đúng hướng về” nên “vui tươi hẳn”. “Giáp mặt với thành phố ở cồn Giã Viên sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến, đường con ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Con sông vào đến kinh thành Huế được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận thật nhẹ nhàng, thanh thoát, có nét gì đó bẽn lẽn, yêu kiều của người con gái mới lớn. Cách so sánh cũng rất đăc biệt và tài tình. Sông Hương vừa mang trong mình cái kín đáo lại cũng rất đỗi thâm tình, nhẹ nhàng. Khiến ta cũng bất giác nhớ đến câu thơ của Thu Bồn:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Con sông chảy vào long Huế rất thơ.

Dòng sông chậm chạp trôi như đang ngóng mong, đợi chờ, như đang mơ màng, suy ngẫm điều gì đó. Cảm tình quyến luyến không muốn rời đi “ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng”. Sự dung dằng ấy cho thấy sông hương không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở cả tâm hồn, một tâm hồn sâu nặng như chính con người nơi đây.

Trước sự chùng chình của dòng sông Hương, tác giả đã có liên tưởng hết sức độc đáo, chùng chình như “người tài nữa đánh đàn lúc đêm khuya”. Đồng thời ông thấy sự tương đồng giữa cảnh cảnh thiên nhiên Huế và cảnh sắc thiên nhiên trong truyện Kiều – Nguyễn du, đó là tiếng đàn định mệnh, day dứt và đầy chua xót.

Rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến chẳng muốn rời xa, “và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ hướng sáng hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa”. Đó chính là sự lưu luyến, dịu dàng mãi chẳng muốn dời xa của những đôi tình nhân, mà như chính tác giả cũng đã khẳng định: “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương và kinh thành Huế chẳng phải là một cặp tình nhân đó sao?

Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên vô cùng đẹp đẽ, hòa quyện nhiều nét đẹp khác nhau, khi mạnh mẽ , dự dỗi khi lại rất đỗi thâm trầm kín đáo. Vẻ đẹp của sông Hương cũng chính là vẻ đpẹ của con người nơi đây. Đồng thời qua bài kí này, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 3

Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này xuất sắc đến vậy. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 4-1-1981, tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.

Mở đầu, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng. Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.

Sông Hương trong không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông. Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.

Nhưng chưa dừng lại ở đó, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người. Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp. Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọ người nghe những ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.

Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm. Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ. Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng. Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.

Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.

Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nhị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời ra vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.

Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sử am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tá phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầy Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.

Top 50 Bài Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh 2)

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 4

"Ai đã đặt tên cho dòng sông này" là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trung của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca "dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế", dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.

Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ "sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng". Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như "Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng". Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.

Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguôn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như "người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô". Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như "cô gái đẹp ngủ mơ màng" – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng "chuyển dòng liên tục" "ôm lấy chân đồi Thiên Mụ", "trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách". Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng "mềm như tấm lụa", có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím". Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.

Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹo cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình… Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là "người" chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí "dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng nguyễn huệ…"

Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.

Ai đã đặt tên cho dòng sông này" thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 5

Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.

Mở đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố. Trước về vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ như một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thẳm, thế nhưng cũng có nhiều lúc dòng sông Hương trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm sài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Màu xanh của nước sông và sắc đỏ chói lọi của hoa đỗ quên như hòa vào nhau, những bông hoa đỏ rực như đang nghiêng mình soi bóng dưới dòng nước trong xanh ấy của dòng sông, cảnh đẹp và nên thơ. Sông Hương không đơn thuần là dòng sông nữa khi được tác giả liên tưởng nó như một cô gái Di-gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn, có lẽ rừng đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một sự liên tưởng độc đáo và táo bạo với cách so sánh mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Ở đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xem con sông như một nhân vật trữ tình khiến cho chúng ta cảm nhận được rằng sông Hương có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng dịu dàng và say đắm. Thoát khỏi rừng già, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở. Dòng chảy của sông Hương ở đầu là cuộc hành trình gian truân không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đóng kín cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng.

Dường như có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, cả hai khi miêu tả con sông đều xem nó như một chủ thể trữ tình. Khi miêu tả con sông Đà. Nguyễn Tuân đã viết như oán trách... như van xin... như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, có lúc như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rùng vầu rừng tre nứa đổ lửa... Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, thật tài hoa khi miêu tả sông Hương đã không ngần ngại khi sử bút pháp nghệ thuật so sánh, liên tưởng, ẩn dụ và nhân hóa về vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người nếu chỉ mãi ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc chiến tranh gian truân mà nó đã vượt qua... suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thìa.

Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, sông Hương như người con gái đang ngủ mơ màng được đánh thức bởi người tình mong đợi. Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của nó. Nó đã vòng những khúc đột ngột. Nó đã uốn mình theo những đường cong thật mềm... Con sông như được nhân hóa như đang làm duyên, đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng nam bắc theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc thì chuyển sang hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Rồi nó đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Dòng chảy của dòng sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biểu, Lương Quán, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo... được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác thế kiến thức về địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc nhiều lúc cứ ngỡ là ông là người nhiều năm tháng đi du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam ai, Nam bình trên dòng sông Hương thơ mộng.

Ông yêu dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như Tố Hữu đã cảm mến thốt lên Hương Giang ơi, qua tim ta vần ngày đêm tự tình. Ông nói về sắc nước của Hương Giang là xanh thẳm dáng hình của nó mềm như tấm lụa, sự tấp nập rộn ràng của nó là những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng những con thoi. Ông say mê thưởng thức gương sông lấp lánh sớm xanh trưa vàng, chiều tím dưới ánh phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành Huế.

Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa nhà Nguyễn giừa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi... tác giả nhắc lại một vần thơ cổ, thật đắc địa gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của những rừng thông, của dòng sông, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần đến thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:

"Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên"

Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước con sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bát ngát tiếng gà của những xóm làng.

Một lần nữa ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng, bồi hồi. Những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa về thi ca được tác giả vận dụng tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ Đến vùng ngoại ô Kim Long, giữa những bãi biển xanh biếc, sông Hươu vui tươi hẳn lên khi nó nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phổ in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Cồn Giã Viên và cồn Hến ở đầu và cuối thành phố như hai cù lao xanh đã làm cho dòng Hương uốn co mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Tác giả liên tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-núp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ độc đáo sông Hương là nó nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, nó đà cho Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai sông. Những nhánh sông đào mang nước Hương Giang tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây dừa cố thụ, những ánh lứa chài lập lòe nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương... đã làm cho cố đô Huế tựa như một linh hồn mô tê xưa mà không một thành phô hiện đại nào còn nhìn thấy được.

Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng so sánh về lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Lê-nin-grat nước Nga với sông Hương. Hình ảnh chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua cung điện Pê-téc-bua như một khám phá nhiều ngộ nghĩnh. Tác giả mơ ước được hóa một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Con sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và cồn Hến đã làm nó trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

Nhìn những dòng sông, những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nêu lên suy nghĩ dòng chảy của cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về điệu chảy lặng lờ của sông Hương, quý trọng coi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Hình ảnh hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội răm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về và sự ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng đã nói lên thật thơ vẻ mộng mơ của sông Hương - bài thơ trữ tình của cố đô Huế. Sự ngập ngừng vấn vương ấy là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đớ Thu Bồn đã có lần rung cảm.

Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ lên những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ trong đó mỗi so sánh, nhân hóa và liên tưởng về dòng sông Hương đi qua Huế tựa như hoa thơm trái ngọt đã thể hiện một bút lực và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông dã dành cho sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt. Đoạn nói về sông Hương rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật rất đỗi hào hoa phong tình. Ông đã nhân hóa sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước Hương Giang. Ông cho hay, thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh. Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sanh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi còn non, còn nước, còn dài - Còn về, còn nhớ... lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa, lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.

Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với lời ca điệu hò gian dịu ngọt

Tác giả bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc tốt đẹp ấy.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 6

Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực văn hóa, lịch sử địa lý. Các tác phẩm của ông thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài kí xuất sắc nhất của ông, thể hiện đặc trưng phong cách của nhà văn tài hoa, uyên bác này.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã đem đến cho người đọc sự tò mò, hứng thú. Đồng thời đó như một gợi mở về vẻ đẹp của dòng sông Hương, và huyền thoại về sông Hương.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi ngắm nó trên nhiều góc độ. Đầu tiên ông nhìn sông Hương trên phương diện địa lí, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đa dạng, quyến rũ. Sông Hương khi ở trong rừng núi Trường Sơn là bản trường ca của rừng gia thâm u, huyền bí. Đây là nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, mang một sức sống mãnh liệt. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông Hương như một cô gái Di-gan vô cùng quyến rũ : “sông hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và gan dạ”. Bằng biện pháp nhân hóa đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của dòng sông. Nhưng khi ra khỏi rừng già, dòng sông nhanh chóng mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, góp phần hình thành, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tỏ ra vô cùng tinh tế, uyên bác và kì công để khám phá, thấu hiểu từng vẻ đẹp của dòng sông: “dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

Bằng con mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả còn nhận thấy, sông Hương như một người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được “người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây, thủy trình về xuôi của sông Hương giống như một cuộc tìm kiếm người tình nhân đích thực của một người gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn. Hành trình về xuôi của dòng sông Hương quả thực là một bức tranh đa dạng màu sắc, ở mỗi địa danh khác nhau, sông Hương lại khoác trên mình một vẻ đẹp mới lạ: khi thì như tấm lụa mềm, khi thì sắc nước xanh thăm thẳm, … “Phải chăng người con gái khi đến với người yêu không chỉ để dâng tặng tình yêu mà còn để hoàn thiện và phơi bày vẻ đẹp của mình?”.

Trong không gian kinh thành Huế cổ kính, u tịch, sông Hương tiếp tục phô diễn những vẻ đẹp khác nhau. Bắt đầu đi vào thành phố, sông Hương được ví như một người tình vui tươi và vô cùng duyên dáng. Dòng sông vui hẳn lên khi bắt gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ thân thuộc, đây đồng thời cũng là dấu hiệu con sông sắp đi vào thành phố. Người con gái xinh đẹp – sông Hương làm duyên, làm dáng lần cuối cùng trước khi chảy vào thành phố, về với người tình nhân đích thực của mình: uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Vào đến thành phố sông Hương không còn mang cái man dại, mãnh liệt như khi ở Trường Sơn mà nó như điệu slow tình cảm, chạy chậm chạp, có chăng “chỉ còn là một một hồ yên tĩnh”. Bằng vốn hiểu biết phong phú của mình, ông đã lí giải từ nhiều góc độ khác nhau, đầu tiền là do đặc điểm tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, nhưng đặc biệt hơn là khi ông lí giải từ lí lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”“ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế, do quá yêu thành phố của mình, do muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Khi rời thành phố sông Hương còn là một người tình chung thủy, đã đi rồi còn lưu luyến vòng quay trở lại một lần nữa.

Không chỉ nhìn sông Hương từ góc nhìn địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đi sâu vào lịch sử để khám phá một vẻ đẹp khác của sông Hương. Ở mỗi thời kì lịch sử, sông Hương đều có những đóng góp quang vinh với Tổ quốc. Sông Hương đã chứng kiến biết bao trận chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Là dòng sông “Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào TK XVIII. Ở thế kỉ XX, sông Hương đi vào chiến công rung chuyển thời đại với cách mạng tháng Tám lịch sử. Bằng cách đặt sông Hương vào những thời điểm lịch sử trọng đại khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngầm khẳng định sự thiêng liêng, vĩ đại của dòng sông này.

Dòng sông Hương thơ, mộng, trữ tình còn là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ. Sông Hương trước hết khơi nguồn cảm hứng âm nhạc, như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hình ảnh so sánh này xuất phát từ thực tế, sông Hương là sông âm nhạc, với những khúc ca Huế dịu dàng, thiết tha. Đây là nơi gặp gỡ của âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương, nên nó chỉ vang lên hay nhất “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.

Không chỉ vậy, sông Hương còn khơi dậy cảm hứng thi ca. Ở điểm này sông Hương thực sự đã trở thành nàng thơ của tâm hồn thi sĩ. Với diện mạo phong phú, khi dữ dội, man dại, khi e ấp, thướt tha, sông Hương là nguồn cảm hứng thi ca muôn đời. Mỗi người bằng khám phá riêng, bằng cảm nhận riêng lại khám phá ra những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương: “Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng- lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”“từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”

Đặc biệt, sông Hương còn được cảm nhận trong trí tưởng tượng đầy sáng tạo, tài hoa của tác giả. Qua dòng chảy của dòng sông, Hoảng Phủ Ngọc Tường còn nhận được tính cách của con người xứ Huế. Ông nhìn sông Hương như một thiếu nữ xinh đẹp và tài hoa, dịu dàng và sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. Ở người thiếu nữ ấy nổi bật lên vẻ đẹp của sự nữ tính, khi là cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, lúc lại là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya… Không chỉ vậy, sông Hương còn mang vẻ đẹp đa tình, nó được ông phản ánh trong mối quan hệ với thành phố, đó là quan hệ của cặp tình nhần lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.

Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: địa lí, lịch sử, văn hóa … Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm… Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 7

“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ

Gió chiều vương áo nàng thôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”

Ai đã từng đến với xứ Huế mộng mơ chắc hẳn không thể nào quên đi hình ảnh núi Ngự sông Hương với dư âm ngọt ngào, lắng đọng. Tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây những nét đẹp thật nên thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã trân trọng vẻ đẹp nên họa nên thơ của sông Hương qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những dòng sông, bởi vậy cách mà ông viết về mỗi dòng sông cũng thật độc đáo và tài hoa. Đến với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhà văn không ví sông Hương “như một mạch máu lớn nuôi sống thủ đô” như cái cách mà ông đã đứng lặng hàng giờ trước bờ đê sông Hồng mà ngẫm ra. Thay vào đó là một phát hiện độc đáo vô cùng “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” . Nhắc đến sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Ông đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá  sâu sắc về cội nguồn.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Trước hết nó là “một bản trường ca của rừng già” . Cái tên ấy gắn liền với nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ mang theo tất cả vẻ đẹp hùng tráng lẫn trữ tình. “Trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông chẳng thế mà lối viết “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn. Sông Hương hiện lên với muôn vàn những sắc thái đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”… Hàng loạt những động từ mạnh “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” cùng xuất hiện trong một câu văn đã đem đến cho sông Hương một sức sống mãnh liệt. Song hành cùng những động từ mạnh là hình ảnh nhân hóa kết hợp so sánh kì thú “là một bản ca của rừng già”, “ cuộn xoáy như cơn lốc”…đã góp phần tạo nên nhịp thở dồn dập của sông Hương ở thượng nguồn.

Cũng có lúc  sông Hương rất đỗi dịu dàng, đằm thắm khi trôi qua những dặm dài đỏ thắm của hoa đỗ quyên rừng, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn. Câu văn dài được chia thành nhiều vế liên tục làm hiện lên dư vang của một bản trường ca của rừng già, biện pháp điệp cấu trúc kết hợp cùng các động từ mạnh tự nó tạo nên âm hưởng mạnh mẽ của sông Hương.

Tác giả ví sông Hương “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những thác ghềnh bão táp. Từ những hình ảnh so sánh, liên tưởng, nhân hóa, những câu văn mang tính chất giải thích “rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp sức sống mãnh liệt hoang dại đầy cá tính của sông Hương vùng thượng lưu. Và rồi khi ra khỏi rừng, tính cách của con sông bỗng nhiên thay đổi. Dường như nó đã thoát ra khỏi sự chế ngự của rừng già Trường Sơn để mang cho mình một vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” rồi vô tình “trở thành người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở, vùng văn hóa của 4000 năm văn hiến. Sông Hương như một đấng sinh thành đã góp phần tạo nên bản sắc của một vùng xứ sở. Chẳng những thế mà sông Hương cũng như một người mẹ mẹ với vùng văn hóa xứ Huế, từng ngày từng giờ dòng sông vươn mình chảy ra thì cũng là từng ngày từng giờ sông Hương duy trì và bồi đắp phù sa trong một vùng văn hóa đã hình thành từ hai bên sông. Ấy thế nhưng dòng sông không muốn bộc lộ công lao to lớn ấy, nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến cho dải đất nơi đây qua nhiều thế kỉ. Đây chính là chiều sâu của vẻ đẹp mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn nhắc đến.

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách nhưng cũng không kém phần kì lạ và bí ẩn. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu. Đây là cuộc kiếm tìm bền bỉ, đầy hào hoa, rất lãng mạn, đắm say. Trong hành trình này, SH đã hiện lên mang theo tất cả vẻ đẹp cuốn hút của mình và dành tặng cho Huế những gì đẹp nhất.

Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến sông Hương như một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Dòng sông đi giữa cánh đồng hương hoa bát ngát thật êm đềm và lãng mạn để rồi sau một giấc ngủ dài nó trỗi dậy một sức sống mới đầy khao khát. Giờ đây sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”. Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa ; thấm vào lòng mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Van Niên đồ sộ.

Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cuối cùng sông Hương cũng đến được với thành phố thân yêu của mình. Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng với những màu sắc hài hòa và bình dị.

Sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc” khi vào đến thành Huế. Dòng sông “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông xuân sắc vui tươi. Cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.

Khi nhìn thấy chiếc cầu nhỏ nhắn của thành phố in trên nền trời “nhỏ nhắn như những vành trăng non” thì dường như dòng sông thêm dạt dào xúc động. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến qua hình ảnh “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.

Dòng sông được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới: Sông Xen chảy vào thành phố Pari, Sông Đa – nuýp chảy vào thành phố Bu – đa –pét…

Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm”, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.

Chất  nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ – một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian.Tác giả tiếp tục viết “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”

Cuối cùng sông Hương vẫn phải tạm biệt thành phố Huế. Hương giang tỏ vẻ lưu luyến với thành phố Huế nên vừa ra khỏi kinh thành, dòng sông đột ngột chếch lên hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến, ra đi “giữa màu xanh biếc của tre trúc” nơi ngoại ô Vĩ Dạ để gặp lại thành phố lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường khúc ngoặt ấy như là “một chút lẳng lơ kín đáo” trong tình yêu đôi lứa như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói lại một lời thề trước khi đi xa.

Thời gian có thể trôi đi nhưng vẻ đẹp của sông Hương thì vẫn còn mãi. Đọc bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ta càng biết yêu thêm những dáng núi hình sông trên dải đất quê mình.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 8

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút kí, tùy bút. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa, lịch sử rất phong phú. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của ông. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một nhan đề thật gợi, đậm chất thơ. Không còn là nỗi buồn của cảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” như trong thơ Hàn Mặc Tử, dòng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã vươn mình dậy để mang một màu sắc, hình hài mới.

Bài bút kí được viết tại Huế vào tháng 1-1981, rút từ tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975, nên vẫn còn bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm và cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc với thiên nhiên trên đất nước và với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công tìm tòi, tích lũy một cách say mê, trân trọng, đồng thời cố gắng truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa với những lời văn thật đẹp, thật sang. Bài kí thực chất thuộc thể tùy bút vì hành văn phóng túng, nhân vật chính là cái tôi của tác giả, chất trữ tình rất đậm.

Sông Hương là dòng sông nổi tiếng của xứ Huế mộng mơ và thơ. Nhắc đến Huế là nhắc đến sông Hương núi Ngự gắn với hình ảnh những chiếc nón bài thơ, những tà áo dài tím thướt tha trong gió. Sông Hương đã đi vào thơ ca, nhạc họa như một miền nhớ, miền thương của những tâm hồn nghệ sĩ. Đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn cũng góp phần xây dựng lên một hình ảnh thật đẹp, thật thơ mà không kém phần mới lạ về sông Hương. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa, sông Hương từ thượng nguồn đến khi hòa mình vào đất đai, nhà cửa của xứ Huế đã mang những vẻ đẹp khác nhau.

Lúc ở rừng già, sông Hương phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Sông Hương với người nghệ sĩ lúc ấy giống như một cô gái Di gan đẹp man dại đầy hấp dẫn và phóng túng. Nhưng vừa khi ra khỏi rừng nó lại chợt mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ của một người “mẹ phù sa”. Dưới con mắt tác giả, sông Hương rất giống với con người, nhất là phái nữ, càng về với đồng bằng, “nàng” càng trở nên chín chắn, trưởng thành hơn. Lúc qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Qua vùng ngoại ô Kim Long nó chợt vui tươi hẳn lên. Rồi khi đến thành phố, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi chậm như một mặt hồ yên tĩnh. Dòng sông như muốn làm duyên với con người ở xứ sở mơ mộng, hiền hòa này. Vẻ đẹp của dòng sông Hương đã được tác giả miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn ngữ giàu có và đậm chất thơ của tác giả. Trong đoạn trích nói trên, vẻ đẹp của dòng sông được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng. Dòng sông trữ tình, êm ả, hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng.

Ngoài vẻ đẹp của một dòng sông thiên nhiên, sông Hương còn gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và tâm hồn của con người vùng đất cổ kính này. Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy, sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá của đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hóa của nó. Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước.

Không chỉ vậy, cũng bắt nguồn từ sông Hương mà bao áng thơ ca, nhạc họa đã ra đời góp phần vào sự đa dạng, phong phú và độc đáo của văn hóa xứ Huế. “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Trên mặt nước sông Hương, đã có bao bài ca Huế được cất lên: lí con sáo, hò giã gạo, hát ru em…Cả những khúc Nam ai Nam bình nao nức lòng người lãng khách. Và theo trí tưởng tượng kì diệu của tác giả, sông Hương chính là nơi gợi cảm hứng cho những dòng thơ trác tuyệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều….”

Trong tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa đối với Huế và dòng sông Hương. Người đọc có thể gặp trong trang văn của ông những câu văn hết sức hữu tình, duyên dáng, tựa hồ như cái mỉm cười e lệ của người thiếu nữ chốn cố đô này: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” hay “phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.

Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, tác giả còn sử dụng nhiều hình ảnh ví von, so sánh đặc sắc: “phía đó, nơi cuối đường, nó (sông Hương) đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Cách viết ấy làm cho dòng văn trở nên gợi cảm, giàu màu sắc và rất tình tứ, kín đáo, dịu dàng.

Qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện một tình yêu tha thiết đến say đắm cảnh và người xứ Huế. Đến đây, người đọc có thể hiểu được câu trả lời cho câu hỏi tác giả đã chọn làm tiêu đề cho tác phẩm. Ai đã đặt tên cho dòng sông? nếu không phải là nền văn hóa, lịch sử lâu đời đất cố đô? Lớp lớp những con người xứ Huế rất đỗi dịu dàng, kín đáo nhưng tình cảm luôn dạt dào, bằng tình yêu vô bờ đối với quê hương đất nước, họ chẳng những đề thơ lên sông núi mà còn tạo nên cho đất đai, sông suối một chiều dài lịch sử, văn hóa giàu sức gợi. Cuối đoạn trích, tác giả đã kể về những người dân hai bên bờ, vì quá đỗi yêu sông mà đổ xuống dòng thứ nước thơm phức. Con người nơi đây vì yêu chốn quê cha đất Tổ đã biết làm nên những điều hay tốt đẹp để hậu thế mãi lưu danh thơm của những tên núi tên sông quê hương họ.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là một bài ca ngợi ca cảnh trí non sông đất nước. Bút kí còn là lời tri ân đến những thế hệ con người đất cố đô tài hoa nghệ sĩ đã vì hậu thế mà tạo nên những giá trị văn hóa tinh thần đầy chất nhân văn. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc nhìn quê hương đất nước mình với ánh nhìn thêm thơ thêm nhạc.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 9

Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến là người có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ cũng như chính tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với nhiều suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,…Và có thể nói minh chứng rõ nhất cho phong cách này chính là bài Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

Có thể nhận ra được đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Dường như nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của chính tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vì vậy,nếu như muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó chính là một cái tôi thật tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người đất Huế.

Bài kí đã miêu tả được thật hay và sinh động vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng, dường như lại ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó, tác giả như đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào về non sông gấm vóc quê hương mình, và về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.

Bằng tài năng cũng như sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ rất lạ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Có thể thấy được hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế. Và chính điều này đã được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha như lại vừa bình thản, trí tuệ.

Phần thứ nhất dường như rất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp, và đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả thật tài tình khi so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng có lúc thật dữ dội. Và có khi lại rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác. Có khi lại như đang cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ sắc thắm của hoa đỗ quyên rừng.

Tác giả dường như cũng đã phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa như là một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” hiện lên với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Còn khi mà con sông Hương về đồng bằng, chính rừng già dường như đã chế ngự được những sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương đã rất nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa, triệt để và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người vậy.

Và theo tác giả, nếu như chúng ta chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó lòng mà có thể hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó dường như đã không muốn bộc lộ. Tác giả thật đã kín đáo ngụ ý rằng nếu như muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước hay cả của một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ. Nếu không được thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.

Có thể nói chính đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện một nét rất lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn thật ấn tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc, dường như cũng đã cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Chính điều này như đã gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi và như một người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại miên man kia. Nhưng ngay từ đầu, như vừa ra khỏi vùng núi, con sông Hương lúc này dường như đã chuyển dòng một cách liên tục. Nó như đã vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm mại và uyển chuyển biết bao. Con sông Hương như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, lúc này con sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, nó như đã vượt qua hẳn một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và cũng chính vì thế mà từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…

Có thể cảm nhận được như vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Và đó là có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều lại tím,thật như êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…

Phải là người con của đất Huế, và phải gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và như chứa đựng sự rưng rưng cảm xúc như vậy. Trong đoạn văn này, dường như hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn. Có thể thấy được một sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả dường như đã sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… đã như khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.

Lúc này con sông Hương như đã trở lên vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, đã như kéo một nét thẳng thực yên tâm theo một là hướng tây nam – đông bắc. Và chính ở phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nó trông nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt, đối diện thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương như đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến. Và có thể nói chính những đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.

Sông Hương thật như giống con sông Xen của Pa-ri, hay là sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là nó đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả thật tài tình khi quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, thì dường như tác giả cũng đã miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Chính bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô. Và ta như nhận thấy đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương và như đã tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ sừng sững kia tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương. Đó là những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được như vậy nữa.

Và nếu như xét từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình biết bao. “Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố,”… Đấy là chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác mà thôi, cảm nhận qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua xứ Huế bỗng như lại trở nên ngập ngừng như muốn đi muốn ở. Và như đã hao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Có thể nói dường như các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn được viết thật dài và với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Và dường như với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều:

Hình như trong những khoảnh khắc chùng lại của cảnh sông nước ấy, thì con sông Hương như bỗng đã trở thành một người tài nữ như đang đánh đàn lúc đêm khuya. Có thể nói rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó khi giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du cũng như đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó,dường như những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Và tác giả như đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…”. Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Có thể nói chính với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và dường như chung thủy biết bao nhiêu. Chính vì điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Khi mà con sông rời khỏi kinh thành, sông Hương như đã chếch về hướng chính bắc, nó như ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói. Và như đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và bỗng nhiên sông Hương như lại sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…

Cũng theo tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường thì những khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và lại như rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu vậy… Còn khi ra biển, lúc này con sông Hương rất nhớ thành phố. Dường như cái nỗi nhớ không nguôi ấy như đã lắng đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Và chính lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian. Và ấy chính là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Và vẫn là biện pháp so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.

Trong mối quan hệ qua lại với lịch sử dân tộc, thì con sông Hương lại như mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi hẻo lánh của đất nước các vua Hùng. Và ở thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) như trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi còn ghi. Có thể nói sông Hương chính là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt ta. Nó như thật vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám. Dường như nó cũng đã sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa. Con sông Hương lại như đã chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám vào năm 1945 và có không biết bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Con sông Hương còn được biết đến là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968)-đó chính là thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương dường như cũng đã chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế cổ xưa cho đến nay.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả hiện lên như đã gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang. Và còn là của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu và ngân vang lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, phải nói rằng điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ là “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước’.

Và phải chăng chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương như đã gắnvới cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Dường như vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:

Có một dòng thi ca bất tận về con sông Hương, vf con sông Hương không bao giờ lặp lại chính mình. Có thể nói chính những nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn ở đây chính là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu thật quá đỗi cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế.

Con sông Hương dường như đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí nổi tiếng ‘Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như đã khẳng định chân lí là “Vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế”. Thật vậy, trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, ta như thấy toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Có thể nói những hiá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già.

Chuyện kể đã có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng là “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Để rồi khi đến với phần thứ ba của bài kí, tác giả lại như đã lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ:

Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?

Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng: Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.

Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” dường như đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế tươi đẹp. Và đặc biệt là sông Hương, qua bài ký ta như thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và chính với những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế cũng như trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả mới có thể huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả cho tường tận đượcvẻ đẹp và chất thơ của Huế. Đặc biệt hơn là đã thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến từ bao đời nay.

Phân tích tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường - mẫu 10

Đất nước Việt Nam tươi đẹp đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao của các nhà thơ, nhà văn. Nếu từng rung động trước một miền quê Việt Nam yên bình trong trang thơ của Nguyễn Đình Thi, bùi ngùi trước dòng xúc cảm về đất nước muôn màu muôn vẻ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm thì lại càng không thể không yêu một Việt Nam với dòng sông ấy đẹp như mơ. Sông Hương xứ Huế trong trang viết của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đẹp, rất ý vị trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?.

Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Ông có lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm,tài hoa, kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa tư duy đa chiều với nghị luận sắc bén, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho bạn đọc nhiều tác phẩm đặc sắc. Các tác phẩm bút kí chính của ông phải kể đến: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh lửa” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong số những tập bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bút kí ban đầu vốn có nhan đề “Hương ơi e phải mày chăng?” được tác giả hoàn thành ngày 4/1/1981 khi nhà văn sống bên bờ sông Hương, trong thành phố Huế hơn bốn mươi năm. Tình yêu sông Hương, xứ Huế thơ mộng đã vun đắp trong ông tình cảm để viết những trang kí đẹp về sông Hương, xứ Huế.

Sông Hương được gắn với điểm nhìn đầu tiên là từ góc nhìn địa lí. Đây cũng là điểm nhìn mà tác giả tập trung khai thác hơn cả trong toàn bài bút kí đi tìm cội nguồn của cái tên: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Sông Hương được minh chứng cho vẻ đẹp của mình ngay khi nó còn nằm trong không gian núi rừng Trường Sơn. Sông Hương được so sánh “như một bản trường ca của rừng già”. Dòng sông đẹp một cách hùng vĩ qua cách miêu tả của tác giả “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác và cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu thẳm”. Nhưng nó cũng rất đỗi trữ tình “dịu dàng và say đắm khi đi qua những rặng dài chói loại màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đến một điểm nhìn khác là giữa lòng Trường Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân hóa sông Hương “cô gái di gan phóng khoáng và man dại”. Hình ảnh cô gái Di- gan đã cho thấy cái nhìn mới mẻ, độc đáo của tác giả. Sông Hương trong mắt nhà văn là một sinh thể sống tự do, mạnh mẽ, có cá tính, tâm hồn riêng như cô gái Di- gan. Phải rất kỳ công trong khám phá, tinh tế trong cảm nhận thì ông mới phát hiện được cái riêng biệt của người con gái ấy. Nhưng như vậy thôi chưa đủ, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tìm tòi và hướng ngòi hút của mình tới cả những chỗ khuất lấp nhất của dòng sông ấy để viết lên câu chữ đặc sắc. Sông Hương- người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở. Lúc này, con sông mang theo vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ bởi lẽ “quãng sông này đã hết ghềnh thác”. Nó mang vẻ dịu hiền của người mẹ và ngày ngày góp phần bồi đắp văn hóa cho người dân sống hai bên bờ sông và xứ Huế. Sông Hương đã góp công to lớn để hình thành, bảo tồn và giữ gìn văn hóa xứ Huế. Dòng sông là người mẹ ngày đêm lặng lẽ, âm thầm cống hiến tạo nên cái đẹp riêng mộng mơ của Huế.

Sông Hương tiếp tục được khám phá ở nhiều nét đẹp trong không gian cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Trước hết, nhà văn so sánh “Nó là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Người gái đẹp ấy mang vẻ đẹp gợi cảm và đang phô khoe nét đẹp của mình khi chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Và những chướng ngại vật cản trở như núi Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo đã tạo cơ hội giúp Hương Giang phô khoe những đường cong mềm mại. Bên cạnh đó, người đọc còn được biết đến nét đẹp đa dạng của con sông với những biến chuyển màu sắc lạ mắt. Có khi các nước trở nên xanh thẳm khi đi qua dư vang của Trường Sơn, sự in bóng của những hàng cây đại ngàn tạo màu xanh cho mặt nước. Còn lại những quãng sông êm đềm, nó trở nên mềm như tấm lụa. Vẻ đẹp đa dạng ấy còn được minh chứng qua sự biến màu của mặt nước: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Một loạt hình ảnh  liệt kê mang đến bao khám phá về vẻ đẹp của dòng sông. Không chỉ rực rỡ, nổi bật, Hương giang còn quyện mình vào cái lặng tờ  và trầm mặc của không gian. Nó mang vẻ đẹp trầm mặc đi qua những lăng tẩm ở rừng thông u tịch, nhưng rồi lại bừng sáng và tươi tắn khi nghe thấy âm thanh của thành phố, của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà. Cuộc hành trình sông Hương thực sự trở thành hành trình đi tìm người yêu của người gái đẹp, phô khoe và hoàn thiện vẻ đẹp của mình để đến với người yêu: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, Thúy Kiều và Kim Trọng.

Trải qua bao chặng đường, Hương Giang đã đến được với người yêu: không gian kinh thành Huế. Khi mới bắt đầu vào thành phố thân yêu, sông Hương được so sánh với “người tình vui tươi và duyên dáng”. Nó rạo rực khi thấy dấu hiệu của thành phố với những bờ bãi xanh biếc và chiếc cầu trắng như vầng trăng non. Những hình ảnh hiện ra tức khắc ấy cũng có cái e ấp của mối tình chớm hé nơi người con gái đẹp. Và người con gái ấy cũng làm duyên, làm dáng lần cuối trước khi gặp mặt người yêu: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến. Và khi được ở trong vòng tay người yêu,  con sông như luyến tiếc nên dành tặng một điệu slow dành riêng cho Huế. Nó chảy với lưu tốc chậm đến mức mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Để nhấn mạnh độ chảy chậm rãi của Hương giang, nhà văn đã đặt nó trong thế đối sánh với sông Nêva “chảy nhanh đến mức làm lũ hải âu muốn nói một câu với người bạn của mình cũng không kịp”. Vì vật mà ông càng thêm yêu quý điệu chảy ngập ngừng. lặng tờ muốn đi muốn ở của dòng sông quê mình. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp nét riêng lặng tờ ấy của Hương giang trong những vần thơ của Tố Hữu.

Hương giang ơi dòng sông êm

Con tim ta ngày đêm vẫn tự tình.

Đến cách mà nhà văn lí giải về sự chậm ấy của dòng sông cũng không hoàn toàn theo cái nhìn chủ quan. Hoàng Phủ Ngọc Tường lí giải vận tốc chậm ấy trước hết là do địa lí tự nhiên: ở Huế có nhiều chi lưu làm giảm vận tốc nước cùng với hai hòn đảo nhỏ ở giữa sông ngăn cản dòng chảy. Nhưng theo lí lẽ của trái tim nhà văn thì sông Hương dành quá nhiều tình cảm cho Huế nên không muốn rời xa, muốn nằm mãi trong lòng người yêu. Dù có luyến tiếc thì Hương giang vẫn phải nói lời từ biệt người yêu, rời xa thành phố song con tim vẫn mãi là “ người tình dịu dàng và chung thủy”. Tưởng như sẽ mãi rời xa song sự am hiểu của tác giả đã giúp người đọc biết đến quãng đường đẩy đưa qua lại của dòng sông, rùng rằng nửa đi nửa ở. Sông Hương rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc rồi lại uốn mình theo hướng tây đông và gặp Huế lần cuối ở thị trấn Bao Vinh cổ xưa. Người con gái lưu luyến người yêu và bịn rịn giờ phút chia tay.

Còn dưới góc nhìn lịch sử, dòng sông thơ mộng, người con gái đẹp ấy đã có những chuyển mình lớn lao với vẻ đẹp kiên trì, kiên cường và anh hùng bất khuất. Vẻ đẹp của sự kiên trì, kiên cường ấy đã được minh chứng rõ nét qua chặng đường lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ thời các vua Hùng, sông Hương đã là dòng sông có vị trí quan trọng. Nó là dòng sông nơi biên thùy xa xôi có nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Nam. Đến những thế kỉ trung đại, dòng sông tiếp tục minh chứng ý nghĩa to lớn của mình khi là dòng sông Viễn Châu chiến đấu anh hùng bảo vệ biên giới phía Nam. Bước sang thế kỉ 18, nó không còn oằn mình với những nỗi đau nhưng vẫn thầm lặng cống hiến. Sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Đến thế kỉ 19 của máu và nước mắt, dòng sông ấy cũng đã sống hết cùng lịch sử với máu của bao cuộc khởi nghĩa. Và sang đến thế kỉ 20, nó lặng lẽ đi vào cuộc cách mạng tháng Tám vẻ vang. Sông Hương cùng những người chiến sĩ đồng hành trong mọi khởi nghĩa chống Pháp, chống Mĩ. Và vì vậy, mà sông Hương đã gây ấn tượng mạnh trong tác giả “hiến đời mình lập chiến công rồi lại trở về làm người con gái dịu dàng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường không ngoa khi so sánh “sử thi viết giữa màu của cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương quả thật là bản hùng ca và bản tình ca dịu dàng, tươi mát.

Sông Hương càng thêm thi vị khi được nhà văn đặt dưới góc nhìn văn hóa. Con sông tình yêu càng thêm lung linh bởi âm nhạc, thi ca và huyền thoại. Sông Hương được so sánh “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” bởi điệu chảy của nó rất phù hợp với những đêm nhạc và đây cũng là nơi sinh thành nền âm nhạc dân gian và cung đình Huế. Như một nàng Kiều, sông Hương có cả tài và sắc. Đồng thời, dòng sông thân thương ấy còn là dòng sông của thi ca. Nó là “nàng thơ” gợi cảm hứng cho biết bao tâm hồn thi sĩ và chưa bao giờ lặp lại mình trong những trang viết. Với mỗi người, sông Hương lại gợi cảm, lại đẹp theo một cách riêng. Phải chăng vì lẽ đó mà nó được biết là dòng sông của huyền thoại. Tên gọi sông Hương quả xứng tầm với nét đẹp dịu dàng nhưng cũng rất cá tính, độc đáo. Và nhà văn đặt ra câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thể hiện nỗi niềm băn khoăn, suy ngẫm và ham thích khám phá. Từ truyền thuyết người dân hòa mùi hương của hàng nghìn bông hoa rồi đổ xuống dòng sông mà tác giả đã gợi ra cái đẹp vĩnh hằng cùng danh thơm muôn thuở của dòng sông thần tiên. Những dấu ấn riêng biệt của con sông quê hương với thi, nhạc, họa sẽ không bao giờ phai tàn trong lòng độc giả.

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết bằng tất cả yêu thương của nhà văn. Lối hành văn mượt mà ấy đã giúp sông Hương hiện lên đẹp tuyệt dưới góc nhìn địa lí, góc nhìn văn hóa nhưng cũng rất hào hùng trong góc nhìn lịch sử. Tài năng của nhà văn chính là thành công khi dùng ngòi bút liệt kê, so sánh, nhân hóa rất uyển chuyển, tài tình. Sông Hương hiện lên không khó hiểu, không hề mang nét ương bướng của người gái đẹp mà nhẹ nhàng men theo dòng cảm xúc của niềm yêu, nỗi nhớ và khắc sâu vào lòng người.

Đất nước có biết bao dòng sông đẹp nhưng có lẽ chỉ sông Hương xứ Huế mới đủ làm con người xao xuyến đến thế. Dòng sông ấy bạn có thể chưa từng nhìn trực tiếp nhưng lại có thể hiểu, thể cảm hơn bất kì cảnh vật thân thương nào khác. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn bước tâm hồn bạn đọc đến với trí tưởng tượng của niềm yêu, của tình thương về một Huế mộng mơ, Hương tuyệt diệu mãi trong trái tim bạn đọc.

Top 50 Bài Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh 3)

Tài liệu có 42 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.2 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
655 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
732 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
593 1 0
Tải xuống