Top 50 bài Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 Phân tích tác phẩm Phong cách Hồ Chí Minh hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 9 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương

I. Dàn ý phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương

Dàn ý phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài mẫu 1

1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương”.                                                           
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng
những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng
mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh
tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào
cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và
thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào
người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàn
dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng
không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là
cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được
minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân
hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp
người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.


Dàn ý phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài mẫu 2


I. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Dữ: quê ở Ninh Thanh (Hải Dương), là người học rộng tài cao, có nhân cách
sáng ngời. Ông sống trong xã hội loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát, ông viết sách
và để lại một số thơ và cuốn văn xuôi cổ Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán.
Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thương tâm về cái chết oan khuất
của nhân vật Vũ Nương, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với thân phận
người phụ nữ, đồng thời ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong xã hội phong kiến.
II. Thân bài
1. Phân tích nhân vật Vũ Nương
* Những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương là người con gái tính tình đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp
Vũ Nương lấy người chồng là Trương Sinh tính tình đa nghi, hay ghen nhưng chưa
bao giờ nàng để vợ chồng bất hòa
Khi chồng ra trận, nàng ở nhà hết mực thủy chung với chồng, phụng dưỡng, hiếu thảo
với mẹ chồng và chăm sóc con cái
→ Nàng làm trọn bổn phận người phụ nữ tam tòng tứ đức một cách hoàn hảo
* Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương
Khi chồng trở về nghe lời đứa con nhỏ dại liền nghi oan và trách mắng Vũ Nương
Nàng đau đớn, thất vọng trước sự đối xử bất công và tàn nhẫn của chồng
Vũ Nương lựa chọn cái chết để rửa nỗi nhục → đây là hành động quyết liệt nhất chất
chứa nỗi tuyệt vọng cay đắng, sự bất lực của thân phận
Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn khôn nguôi nhớ về cuộc sống trần thế
Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:
+ Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản
+ Gián tiếp: người chồng tính tình đa nghi, hay ghen đã cư xử hồ đồ, phũ phàng. Do
ngay từ đầu cuộc hôn nhân không có sự bình đẳng. Do chiến tranh và lễ giáo phong
kiến hà khắc
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
* Giá trị nội dung
Giá trị hiện thực: phê phán tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp lên số phận
người phụ nữ, người phụ nữ chịu nhiều oan khuất, bế tắc nhưng không tự bảo vệ
được mình
Giá trị nhân đạo: ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và thương cảm cho người phụ nữ thông
qua hình tượng nhân vật Vũ Nương
* Giá trị nghệ thuật
Xây dựng tình huống truyện độc đáo đặc biệt chi tiết chiếc bóng, nhằm hoàn thiện
thêm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật Vũ Nương nhưng cũng thể hiện rõ nét bi kịch số
phận nhân vật
Nghệ thuật dựng truyện: tình huống truyện éo le, dẫn tới nhiều bất ngờ thú vị, tăng
tính bi kịch của truyện
Xây dựng thành công nhân vật qua lời nói và hành động, kết hợp với các hình ảnh
ước lệ tượng trưng.
III. Kết bài
Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm xuất sắc góp phần vào tiếng nói chung
đòi sự bình đẳng cho người phụ nữ.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, thể hiện niềm xót thương
thân phận người phụ nữ xưa và thông qua đó ca ngợi phẩm chất son sắt, thủy chung
của họ.

Video bài Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương


II. Văn mẫu Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 1


Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của
Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng
chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền
trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu
chuyện thần kỳ. "Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực
xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong "Truyền kì mạn lục" ghi lại cuộc đời
thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh "có tư dung tốt đẹp" tính tình
"thuỳ mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất.
Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà
lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng,
tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng
lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người
đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất
bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng "đeo ấn phong hầu", chỉ mong
ngày đoàn tụ, chồng trở về "được hai chữ bình yên".
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang
buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa
học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện
"cãi bóng" từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, "đinh ninh là vợ
hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được". Vốn tính hay ghen, lại gia
trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn.
Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã "mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vợ phân
trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và
con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm.
Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng
trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng... Vũ Nương chỉ có một con đường
để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời "ngọc
Mị Nương ", toả hương "cỏ Ngu Mĩ".

Top 50 bài Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (ảnh 1)


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 2


Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng
khoảng, các tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm
quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân
gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền
kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm
vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Tác phẩm xoay quanh số phận và cuộc đời nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người
con gái xinh đẹp: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp
toàn diện cả về hình thức và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ
đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và
phẩm hạnh của nàng.
Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là
một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng.
Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác công
việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng hết sức chăm sóc, “thuốc
thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” mong cho mẹ mau
mau khỏi bệnh. Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu
thường chỉ mang tính chất ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt
lá đài bi/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “Thật thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau
cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,… Nhưng những lời bà mẹ trăng trối cuối cùng trước
khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành, sâu nặng của Vũ Nương
với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương hết mực
của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy ai
trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu mến đến như vậy. Khi bà mất, nàng lo
tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình. Qua những hành động đó ta thấy Vũ
Nương là nàng dâu hết sức nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi
muôn đời.
Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới,
Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức,
bởi vậy nàng luôn giữ gìn khuôn phép, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa.
Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh
ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc. Ngày Trương
Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh phú quý mà là “chỉ
xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa chồng, một
mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, dành tất cả thời
gian chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi
Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng
những lời lẽ tha thiết, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình.
Khi bị chồng nghi oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, không cho cơ hội giãi bày, giải thích
nàng chỉ đau khổ, cố gắng thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi,
ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào
cũng hướng về quê hương, về gia đình bé nhỏ của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang
dưới thủy cung và gửi chiếc thoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng tha
thứ cho chồng. Khoảng khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương
không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian
được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ đức hạnh,
người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với
người chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người
phụ nữ Việt Nam thảo hiền, đức hạnh.
Mặc dù mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống
êm đềm, hạnh phúc nhưng cuộc đời Vũ Nương lại đầy oan nghiệt, trái ngang. Bắt đầu
ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, không có sự đăng đối giữa hai gia đình, về phẩm
chất giữa hai con người: nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất: công-dung-ngôn-hạnh,
nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen. Lấy chồng không bao lâu,
Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi cô đơn, vất vả: gánh vác việc gia đình,
nuôi dạy con thơ và chăm sóc mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên ải
tha thiết đêm ngày. Đến khi chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không
có cơ hội tìm hiểu nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm
lòng thủy chung, trong sạch của mình. Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ
Nương để bảo vệ nhân phẩm cũng như cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng. Dù
sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực sự
của con người là ở trần thế, được chung sống, được hưởng không khí đầm ấm của
gia đình. Nhưng điều ấy đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa. Thân ở thủy
cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi bất
hạnh của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của
biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo phong kiến.
Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy
người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học,
tính tình cục cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi chiến tranh xảy ra anh ta là
người đầu tiên trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho
Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần
của vợ. Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm đến cái chết.
Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ân hận, nỗi
đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những
người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến hà khắc đã đẩy người phụ nữ rơi
vào bi kịch.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút,
đẩy câu chuyện lên cao trào, đình điểm: cái bóng là mấu chốt của câu chuyện, là chi
tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc:
dẫn dắt tình huống hợp lí. Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật xây
dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được miêu tả nội tâm khá phong phú.
Những yếu tố đó góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm
là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt
hạnh phúc và đẩy con người đến bước đường cùng.


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 3


Nguyễn Dữ là một gương mặt tiêu biểu điển hình cho nền văn học trung đại Việt Nam
ở thế kỉ thứ XVI. Mặc dù, sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Dữ chỉ vẻn vẹn
có tập truyện "Truyền kì mạn lục" nhưng tập truyện lại có một vị trí đặc biệt, được đánh
giá là "thiên cổ kì bút" (bút lạ nghìn đời), "là áng văn hay của bậc đại gia". Đây là tập
truyện viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch
sử, dã sử Việt Nam. "Chuyện người con gái Nam Xương" là thiên thứ 16, trong tổng
số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". Thông qua bi kịch Vũ Nương, truyện thể hiện
niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ
phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng
văn độc đáo, đánh dấu sự thành công về nghệ thuật dựng truyện; khắc họa miêu tả
nhân vật và sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình, giữa yếu tố hiện thực và kì ảo.
Trước hết, "Chuyện người con gái Nam Xương" đã khắc họa thành công vẻ đẹp truyền
thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ đương thời. Điều này được thể hiện
qua nghệ thuật dựng truyện và xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương
là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời
kì phong kiến: "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Trương Sinh vì cảm
mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà
văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất
nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ
chồng và với đứa con trai tên là Đản, từ đó góp phần bộc lộ trọn vẹn tính cách, phẩm
hạnh của nàng.
Đầu tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện
lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong cuộc
sống vợ chồng bình thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi,
thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường
nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì
thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh.
Khi người chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh
bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần
chồng mang về hai chữ "bình yên". Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi
lần thấy "bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi" nàng lại cảm thấy "thổn thức tâm
tình", nhớ thương chồng nơi biên ải xã xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định
khi nàng bị chồng nghi oan: "cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn
từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Khi Trương Sinh đi lính
trở về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần
để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng
định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng còn cầu xin
chồng "đừng nghi oan cho thiếp". Có nghĩa là Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn
hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân
trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát
hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Tiếp đến, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản. Nàng hiện lên là một
người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính,
ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một người mẹ, lại
vừa đóng vai trò là một người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người
cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng
thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo: chăm
sóc, thuốc thang, lễ bái thần Phật, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng
mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, bà
mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu:
"Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Điều đó đã cho thấy
nhân cách tuyệt vời và công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy
chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải
được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ
chia những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay, nàng lại phải chịu
một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt.
Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe
lời nói của con "Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ
Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, những chẳng bao giờ bế Đản cả", Trương
Sinh nhất nhất cho rằng "vợ hư". Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để giải thích lại thêm
họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của
Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng "cái thú vui nghi gia
nghi thất" đã không còn " bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu
tàn trước gió", cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa
"đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa". Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước
Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm
trong một nỗi đau tuyệt vọng cùng cực, đau đớn.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là
do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu
xa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã
giới thiệu Trương Sinh là " con nhà hào phú nhưng không có học", lại có tính đa nghi,
đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay
ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính
ba năm xa nhà, xa vợ, thói ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và giết chết
người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã
dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối
xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên
tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có "họ hàng, làng xóm bênh vực và biện
bạch cho"… Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đẹp đương thời vào con đường
bi kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con
đường cùng không lối thoát.
Cũng cần nói thêm, sự thành công của "Chuyện người con gái Nam Xương" còn được
thể hiện ở chỗ, Nguyễn Dữ đã khéo léo dẫn dắt câu chuyện trên cơ sở cốt truyện có
sẵn, ông đã xắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt làm cho câu chuyện trở nên sinh động,
mang tính kịch và tăng cường tính bi kịch. Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,
"Chuyện người con gái Nam Xương" đã có sự thành công vượt bậc so với bản kể dân
gian "Vợ chàng Trường". Điều này được thể hiện qua chi tiết chiếc bóng và lời nói của
bé Đản. Từ đó, tạo nên sự thắt nút và mở nút của câu chuyện, làm câu chuyện trở
nên hấp dẫn, tình tiết lôi cuốn, chặt chẽ. Đầu tiên là "thắt nút" câu chuyện: chỉ một câu
nói ngây thơ của một đứa trẻ lên ba nói với cha mà như một cơn bão dây chuyền, đã
tạo nên biết bao nhiêu là giống lốc cuộc đời, lật nhào hết tất cả mọi sự bình yên thủa
trước. Để rồi, trong một chốc nóng giận, thói nghi kị trong lòng người đàn ông độc
đoán, chuyên quyền đã phá tan đi hạnh phúc yên ấm mà mình đang có; đẩy cuộc đời
của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết vào cái chết thương tâm, thấm đẫm nước mắt.
Và cũng thật bất ngờ thay, câu chuyện lại được "gỡ nút" bằng một câu nói trẻ thơ non
dại. Khi thấy cái bóng của Trương Sinh in trên vách, bé Đản liền nói: "Cha Đản lại đến
kia kìa!" thì bao nhiêu oan khuất lại được lật nhào sáng tỏ. Vũ Nương vô tội!.
Bên cạnh đó, truyện còn thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối thoại, lời tự
bạch của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động,
góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật: lời nói của bà mẹ Trương
Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng,
mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản
hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng,
cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất.
Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ về mặt kết cấu
truyện bằng việc sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường, góp phần tăng thêm giá trị hiện
thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì. Nếu
như trong truyện kể dân gian, sau khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tỉnh ngộ, nhận ra
sai lầm của mình thì cũng là lúc truyện cổ tích khép lại, điều đó đã để lại niềm xót xa
đau đớn cho người đọc về thân phận bất hạnh oan khiên của người phụ nữ tiết hạnh,
thì trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, ông đã sáng tạo thêm
phần đuôi của truyện, góp phần làm lên những giá trị thẩm mĩ và tư tưởng mới của
truyện. Đó là làm hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách, phẩm chất của nhân vật và chứng
tỏ được Vũ Nương trong sạch. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với
phẩm giá của mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về
sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc
trong một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc
biệt là người phụ nữ đương thời.
Tóm lại, "Truyền kì mạn lục" nói chung và "Chuyện người con gái Nam Xương" nói
riêng của Nguyễn Dữ là một tác phẩm độc đáo, đánh dấu một bước phát triển đột khởi
của nền văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đã
đạt được thành tựu nghệ thuật nổi bật trên ba phương diện: xây dựng tình tiết, kết
cấu; xây dựng nhân vật; sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo. Thông qua
cuộc đời và số phận bất hạnh của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh số phận bi thương
của người phụ nữ phong kiến, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời,
thể hiện thái độ phê phán đối với một xã hội phi nhân đã gây ra biết bao khổ đau cho
con người. Mặc dù truyện cũng cách xa chúng ta vài thế kỉ rồi nhưng tính thời sự của
truyện vẫn còn vang vọng tới ngày hôm nay!

Top 50 bài Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (ảnh 2)


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 4


Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một
tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “Chuyện người con
gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam.
Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ
chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì
nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng
đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang.
Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở
lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng.
Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời
như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng
nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt
đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để
vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ
Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu
thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước
những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn
tụ… làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba
năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm
lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn
được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng
còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ
Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó… mong
chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa
vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch,
Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa
vào chàng… đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm
khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ
chồng giờ đây hoá đá….
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi bày, cứu chữa
nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện
với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhược bằng lòng
chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho
diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ…” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc
xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà
phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ
đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước
cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng,
truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một
người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính
với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc
gia đình,… lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng,
đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt
ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận
của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng
của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn
con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng "nam quyền",
hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những
chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời,
con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động
tính hay ghen của Trương Sinh: "trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào
cũng đến..."
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ
bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những
lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng,
Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương
Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực
trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn
khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.
Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người
thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa
phải gánh chịu: Nàng Kiều trong "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du, người cung nữ trong
"cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ
Hồ Xuân Hương, ...
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có
những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối
thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy
kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
"Thắt nút" truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ
mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền
độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm
ấm. Bão tố oan khiến phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết
thúc bi thảm trên một dòng sông.
"Gỡ nút" cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng
Trương trên vách: "cha Đản lại đến kia kìa") thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong
phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp
đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí
và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của
Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của
người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn "gỡ nút" truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ,
thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về
dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương",
Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và
thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách
nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là "ở hiền gặp lành", người tốt
sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập
trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương
được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết
kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì
không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương
muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà
không thể trở về được.
Truyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo
sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội
phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá
trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ
đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được
đề cao nhân phẩm trong xã hội của thời đại mới.


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 5


Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm
quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già
mà xin từ quan. Trong những ngày sống "cảnh điền viên vui tuế nguyệt", ông viết
"Truyền kỳ mạn lục", một tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học cổ Việt Nam gồm
những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người
phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu "tam tòng, tứ đức" của đạo đức phong
kiến, mà "Chuyện người con gái Nam Xương" là một.
Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học,
đất nước gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương
sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết,
nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà
nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm
mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa giúp đỡ. Sau đó, nàng gặp Phan
Lang, người hàng xóm đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương
Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp
chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai thế giới khác biệt.
Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều đến nhà
Nho đương thời (thế kỉ XVI). "Thiếu phụ Nam Xương" cũng có hai tuyến nhân vật, có
những hoàn cảnh điển hình, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời loạn lạc,
nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay
đổi bản chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo
nhưng "tư dung tốt đẹp", "thuỳ mị, nết na". Thời phong kiến, con gái "tại gia tòng phụ"
để có "công, dung, ngôn, hạnh", Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp
(dung) trời cho nhưng "thuỳ mị, nết na" thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.
Nàng nghèo nhưng không mất nề nếp gia phong. Trái lại "Trương Sinh tuy con nhà
hào phú nhưng không có học". Một loạt các nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh
sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa
Linh Phi... đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có ảnh hưởng đến hình thức sống nhưng khó
thay đổi được bản chất của họ.
"Nam Xương tử nữ truyện" không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn
thông qua họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được
nhân vật này thể hiện trong từng lời nói đến từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy
Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như một làm người con hiếu thảo. Không
chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một mình
đã lo toan đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn cất. Người phụ
nữ có con mọn như nàng mà vẫn chu toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng
mà không tiếng kêu than thì quả thật là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con
chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được? Chồng với vợ
như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để an ủi con, muốn đứa con
nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ,
nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với
chồng: "Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu... Đâu có hư thân như lời
chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xoá tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp
phẩm giá một cách oan khuất, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước
trong để rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của
con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người
hàng xóm tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự
cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều
đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.
Cả đến Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung,
chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỉ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ
không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ đến công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài
mặt trận, chỉ cần sống gần gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ
của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít "Trước đây, thường có một người
đàn ông, đêm nào cũng..." đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm
ấm, thương yêu.
Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán phân minh. Vũ Nương là người
phụ nữ, có lẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ kiên
nhẫn chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý
nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải nhận ra ân tình nàng đã mang đến cho chàng và
nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang
cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên
thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết lòng cứu
chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà ... trước khi tiễn chân chàng trở về làng
quê.
Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang
mang hoàn cảnh điển hình, con người điển hình của đời thường vào tác phẩm; cũng
có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ - nộ - ái - ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền
gặp lành.
Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu
khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương
Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho
việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại
nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó,
quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn
binh đao nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh
giang san nhà chồng. Vì con thơ nói đến cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay
thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ
vợ ... Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy đã dần đến đỉnh điểm là Vũ
Nương quyết định trầm mình. Nếu chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có
hậu. Có lẽ vì thế mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm mơ
thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được
rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào
thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma...
giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những
chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của
đời làm vợ. Và dù ra đời sau ''Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, "Nam
Xương tử nữ truyện" vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ xưa.
Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương không những có
giá trị đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có giá trị
nghệ thuật xây dựng truyện.
Cho tới nay, "Người con gái Nam Xương" vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội
nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn
học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện
là một bài học đạo đức truyền thống tốt.

Top 50 bài Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (ảnh 3)


Phân tích bài chuyện người con gái Nam Xương - Bài tham khảo 6


Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của
Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng
chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền
trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu
chuyện thần kỳ. "Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực
xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong "Truyền kì mạn lục" ghi lại cuộc đời
thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh "có tư dung tốt đẹp" tính tình
"thuỳ mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất.
Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà
lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng,
tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng
lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người
đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất
bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng "đeo ấn phong hầu", chỉ mong
ngày đoàn tụ, chồng trở về "được hai chữ bình yên".
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang
buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa
học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện
"cãi bóng" từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, "đinh ninh là vợ
hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được". Vốn tính hay ghen, lại gia
trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn.
Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã "mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vợ phân
trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và
con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm.
Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng
trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng... Vũ Nương chỉ có một con đường
để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời "ngọc
Mị Nương ", toả hương "cỏ Ngu Mĩ".


III. Khái quát về Tác giả Nguyễn Dữ


1. Tiểu sử tác giả Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người xã Đỗ
Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.
Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn
chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, ông làm quan nhưng mới được vài
năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa.
2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Dữ
Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những
truyện kì lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại
tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả hoặc
của một người có cùng quan điểm của tác giả.
Truyền kỳ mạn lục là một sáng tác văn học với sự gia công hư cấu, sáng tạo, trau
chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải một công trình ghi chép đơn thuần.
Qua tác phẩm, người độc thất được số phận bi thảm của những con người nhỏ bé
trong xã hội, những bi kịch tình yêu mà thiệt thòi thường rơi vào người phụ nữ. Tác
phẩm cũng thể hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về nhân tài, văn hóa nước
Việt, đề cao đạo đức nhân hậu, thủy chung, đồng thời khẳng định quan điểm sống
“lánh đục về trong” của lớp trí thực ẩn dật đương thời.
Truyền kỳ mạn lục vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, vừa là một tuyệt tác của
thể loại truyền kì. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh
giá cao trong số các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng văn.

Tài liệu có 12 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Từ khóa :
Văn mẫu
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
569 1 0
TOP 10 mẫu Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
174 1 0
TOP 10 mẫu Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
221 1 0
TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
132 1 0
Tải xuống