Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 10 mẫu Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (2024) Chân trời sáng tạo hay nhất gồm dàn ý, các bài văn mẫu và video hướng dẫn chi tiết giúp học sinh lớp 4 viết các bài tập làm văn hay hơn. Mời các bạn đón xem:
TOP 10 mẫu Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (2024) HAY NHẤT
Đề bài: Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 1)
Lê Văn Tám con nhà nghèo ở gần chợ Đa Kao, Sài Gòn. Hàng ngày phải đi bán lạc rang, đánh giày để kiếm sống. Với những cảnh chết chóc của đồng bào ta dưới sự dã man của giặc Pháp, Tám nảy ra ý định phá kho xăng đạn của giặc tại Thị Nghè.
Sau nhiều lần bán lạc rang để dò la Tám đã quen mặt với bọn lính gác; Lợi dụng lúc bọn lính lơ là, Tám giấu xăng trong người chạy như bay vào chỗ để xăng quẹt diêm bốc cháy, cả kho xăng và đạn cháy nổ rầm trời thành phố.
Lê Văn Tám đã anh dũng hy sinh để lại hình ảnh thành đồng của tổ quốc: “Em bé đuốc sống”, chúng em rất cảm phục anh và luôn nhớ đến anh. Là học sinh chúng em được sống trong hòa bình sẽ cố gắng học tập thật giỏi để không phụ công những anh hùng như anh.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 2)
Anh Kơ - pa Kơ - Lơng sinh ngày 19 - 8 - 1948 người dân tộc Gia Rai, Tây Nguyên. Căm thù Mỹ - Diệm giết cha trong cuộc nổi dậy của dân làng Kơ - lơng quyết chí trả thù.
Mới 13 tuổi, Kơ - lơng đã xin vào du kích, nhưng không được xã đội nhân vì còn bé không có súng để đành giặc, anh đã tự làm lấy nỏ, vót tên, phục kích bắn bị thương một tên địch. Nó không chết vì không tẩm thuốc. Kơ - lơng xin người già mũi tên có thuốc và bắn chết liên tiếp ba tên liền. Thế là sau đó, Kơ - lơng được gia nhajao du kích và được phát súng. Nhận ba viên đạn với điều kiện phải hạ ba tên giặc. Anh đã bắn phát thứ nhất bắn xâu táo xiên một lúc năm tên địch. Phát thứ hai xâu táo ba tên, hai thằng chết tại chỗ. Hạ quá ba tên rồi, anh nộp lại viên thứ ba. Đến trận khác anh bắn ba viên hạ bảy tên địch. Trận khác anh lại bắn bảy viên đạn hạ mười chín tên giặc. Trong đơn xin gia nhập quân đội, anh viết "Em đã giết ba mươi bốn tên Mỹ Ngụy, phá tám xe cơ giới. Nay em đã lớn, xin cấp tên cho em được làm giải phóng quân."
Năm 15 tuổi, anh đánh 30 trận, giặt 12 quả mìn, lật nhào 8 xe cơ giới, diệt 88 tên địch, trong đó có 4 tên xâm lược mỹ. Anh đã được tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vu trang nhân dân.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 3)
Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà), Hà Quảng, Cao Bằng
Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời (1941).
Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng. Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.
Từ năm 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền được anh trai và anh cán bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các anh làm các công việc: canh gác, chuyển thư từ, nghe nói chuyện về tội ác của quân giặc… nhờ đó Dền đã sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền đã mau chóng làm quen với cách thức làm công tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyển thư từ, đưa đường cho cán bộ lọt qua sự bao vây, canh gác của địch.
Năm 1941, Bác Hồ về Pắc Pó, Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn cứ cách mạng.
Bước sang năm 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pắc Pó. Trong một lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có cán bộ của ta, Kim Đồng đã nhanh trí nhử cho bọn địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thoát lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin.
Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng Âm lịch năm 1943, Anh vừa tròn 14 tuổi.
Ngày nay, mộ của Kim Đồng đã được đội viên cả nước góp phần xây dựng tại nơi anh ngã xuống. Ngày 15-5-1986, nhân kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đội, mộ của Anh và tượng người đội viên liệt sĩ anh hùng Kim Đồng đang tung con chim sáo bay lên đã được khánh thành. Từ đó đến nay nơi đây đã trở thành khu di tích Kim Đồng chào đón các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến nơi thành lập Đội TNTP, với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, có núi Các Mác và hang Pắc Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 4)
Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh Sông Bé trong một gia đình nghèo. Lên 6 tuổi, mồ côi mẹ. Năm 10 tuổi, cha bị bọn Mỹ Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ Văn Mên liền vào đội thiếu nhi tham gia giết giặc từ đấy
Đến năm 13 tuổi, Mên đã 3 năm làm cách mạng, tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch bao gồm các thứ lính, sĩ quan Mỹ, ngụy, lính Pắc-chung-hy (lính ngụy Triều Tiên) cùng nhiều xe cơ giới của địch.Anh hùng Hồ Văn Mên (đánh chữ X) được gặp và nói chuyện với Bác Hồ khi còn trẻ
Sống với bà nội, Mên tỏ ra là đứa cháu ngoan, đỡ bà việc nhà, cùng bà đi chợ bán trầu cau lấy tiền sinh sống.
Nhiều tên đất, tên làng mang dấu tích và chiến công của Hồ Văn Mên dự trận đánh như: Cua Cát, Phú Văn, Chợ Mới… đã đi vào lịch sử đánh giặc của tỉnh Sông Bé.
Một lần bị giặc bắt, Mên đã tìm cách trốn thoát và lại tiếp tục đánh giặc.
Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn năm mươi chín tên sĩ quan và binh lính ngụy ở sòng bạc Phú Văn.
Hồ Văn Mên đã được tặng ba danh hiệu vẻ vang: dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe cơ giới, dũng sĩ diệt xe cơ giới cấp ưu tú.
Năm 1967, Hồ Văn Mên được ra miền Bắc thăm Bác Hồ và là đại biểu nhỏ tuổi nhất trong đoàn thiếu nhi dũng sĩ miền Nam ngày đó.
Anh mất ngày 5-3-1984 do vết thương ở sọ não trong một trận đánh giặc trước đây tái phát
Chị tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở làng Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu
Mới 12 tuổi, chị đã theo anh trai tham gia hoạt động cách mạng trốn lên ở trên chiến khu. Năm 14 tuổi (1949) chi đã dùng lựu đạn giết một tên quan ba Pháp và làm bị thương 20 tên lính ngay tại vùng Đất Đỏ. Từ chiến khu trở về Bà Rịa, chị làm nhiệm vụ điều tra tình hình địch và tiếp tế cho chiến khu.
Năm 1950, chị mang lựu đạn phục kích giết tên cai tổng Tòng – một tên Việt gian bán nước, ác ôn ngay tại xã nhà. Lần đó, chị bị địch bắt. Sau gần ba năm tra tấn, giam cầm, giặc Pháp đưa chị ra giam ở Côn Đảo.
Trong ngục giam những người bị án tử hình, chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào ngày chiến thắng của Tổ quốc.
Giặc Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với chị Sáu. Chúng sợ các chiến sĩ cách mạng ở trong tù sẽ nổi dậy phản đối. Chúng lén lút đem chị đi thủ tiêu. Lúc một tên giết người bảo chị quỳ xuống, chị đã quát vỗ vào mặt lũ đao phủ: “Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ!”.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 6)
Lý Tự Trọng – người thiếu niên anh hùng bất khuất, kiên gan của dân tộc –anh ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Lí Tự Trọng - người sống có lý tưởng cao đẹp, lòng trung thành, tinh thần tận tụy và đức hy sinh,quên mình xả thân vì cách mạng, anh đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc cho nhân dân.
Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh ngày 20/10/1994, tại làng Bản Mạy, tỉnh NaKhon - Thái Lan. Được sự chỉ bảo tận tuỵ của sỹ phu yêu nước Đặng Thúc Hứa, cùng tư chất thiên phú, thông minh, đĩnh đạc, Lý Tự Trọng đã sớm thông thạo cả 3 ngoại ngữ: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Thái cùng niềm say mê sâu sắc với văn thơ yêu nước,văn thơ cách mạng.
Đầu mùa hè năm 1926, Lê Hữu Trọng là một trong số các thiếu niên được đồng chí Hồ Tùng Mậu lựa chọn sang Quảng Châu đào tạo lâu dài để chuẩn bị xây dựng tổ chức thanh niên Cộng sản ở Việt Nam theo ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này Người mang tên là Lý Thụy). Từ đây, Lê Hữu Trọng và các thiếu niên khác đều mạng họ Lý để đảm bảo bí mật. Lê Hữu Trọng được đổi tên là Lý Tự Trọng từ đó.
Năm 1931,nhân kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định tổ chức đợt tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp và kêu gọi quần chúng đấu tranh. Ngày 08/02/1931, các chiến sỹ cách mạng đã tổ chức một cuộc mít tinh chớp nhoáng, với cờ đỏ búa liềm giương cao, đồng chí Phan Bôi đã là người đứng lên diễn thuyết kêu gọi quần chúng đánh đổ thực dân Pháp.
Giữa lúc ấy tên thanh tra mật thám Pháp Le Grand và bọn cảnh sát đi cùng ập tới. Giừa tình hình “ ngàn cân treo sợi tóc” ấy, Lý Tự Trọng đã rút súng bắn chết tên thanh tra mật thám, đồng thời giải cứu thoát đồng chí diễn thuyết một cách an toàn.
Trước sự kiện chấn động đó, Thực dân Pháp đã ra sức truy lùng và bắt sống Anh, chúng hết tra tấn lại dụ dỗ, nhưng Anh vẫn một lòng trung thành với cách mạng, với Đảng. Chúng hứa sẽ cho Anh sang Pháp học, chúng hứa cho anh một cuộc sống tốt đẹp, sung sướng. Trước bao cám dỗ, Anh vẫn một lòng với Đảng, với Nhân dân, với Tổ chức mà cắn rang chị mọi đòn roi, mọi nhục hình đau đớn.
Dù bọn chúng đã dùng mọi thủ đoạn đê hèn để khuất phục, nhưng Anh vẫn một mực từ chối, chúng đã đem anh ra toà án xét xử. Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã mở một phiên tòa đại hình để xử một chiến sĩ cộng sản Việt Nam chưa đầy 18 tuổi. Lý Tự Trọng bị kết án tử hình. Đứng trước cái chết, Lý Tự Trọng không hề run sợ, Anh chủ động biến phiên tòa của đế quốc thành một diễn đàn của người chiến sĩ cộng sản. Khi luật sư bào chữa xin bọn thực dân mở lượng khoan hồng vì Lý Tự Trọng chưa đến tuổi trưởng thành và hành động thiếu suy nghĩ, Anh đã gạt phắt đi và dõng dạc nói: “Tôi hành động có suy nghĩ, tôi hiểu việc tôi làm, tôi làm vì mục đích cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thanh niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác”.
Anh hùng Lực lượng vũ trang Vừ A Dính, dân tộc Mông, sinh ngày 12-9-1934 tại bản Đề Chia, xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên).
Vừ A Dính là con thứ ba của ông Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị Plây (sinh năm 1901).
Gia đình Vừ A Dính là cơ sở cách mạng của huyện Tuần Giáo.
Bố Vừ A Dính là cán bộ Việt Minh của địa phương đã bị thực dân Pháp bắt và giam cầm tại nhà tù Sơn La. Ông đã bị thực dân Pháp thủ tiêu tại nhà tù Sơn La năm 1949. Ông Vừ Chống Lầu được Đảng và Nhà nước truy tặng là liệt sĩ ngày 5-9-1964.
Mẹ A Dính là bà Sùng Thị Plây - một cơ sở kháng chiến của địa phương. Trong một đợt càn của địch vào Pú Nhung, vì nghi ngờ tiếp tế cho Việt Minh nên bà bị bắt cùng với bố chồng và bảy người con (chị gái và các em của Vừ A Dính) mang về giam tại đồn Bản Chăn. Rất may là người anh trai Vừ Gà Lử của Dính hôm ấy vào núi nên không bị bắt. Trong thời gian bà và cả nhà bị giam tại đồn Bản Chăn, Vừ A Dính được đơn vị phái xuống tìm cách liên lạc và nắm tình hình địch để chuẩn bị cho bộ đội đánh đồn. A Dính đã nhiều lần liên lạc được với mẹ. Khi nắm được tin giặc Pháp chuẩn bị đưa quân lên đánh khu du kích ở Pú Nhung, bà đã trốn trại ra bìa rừng gặp Vừ A Dính cấp báo tin này. Bà còn chuyển cho Vừ A Dính hơn 100 viên đạn lấy trộm được của giặc. Trên đường trở về trại giam, một tốp lính đi tuần phát hiện ra bà. Tuy khám người bà không thu được gì nhưng chúng nghi bà liên lạc với Việt Minh nên đã khám nơi giam cầm bà. Địch đã phát hiện ra nhiều đạn mà bà và các con cùng những người bị giam giữ trong trại đã lấy trộm của lính Pháp trong khi đi làm phu dịch. Giặc pháp đã lôi cả 22 người trong trại giam ra bắn chết. Ông nội, mẹ, chị gái và các em - 9 người trong gia đình Vừ A Dính đã bị bắn chết. Bà Sùng Thị Plây được Đảng và Nhà nước truy tặng Liệt sĩ ngày 14-10-1964. Mẹ của Vừ A Dính đã được Chủ tịch Nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu tiên (năm 1994) vì có chồng, con và bản thân là liệt sĩ.
Nói về một anh hùng hoặc một tài năng nhỏ tuổi mà em biết (mẫu 8)
Năm 1997, sau 50 năm anh dũng hy sinh trong cuộc chiến “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” tại mặt trận Thủ đô Hà Nội những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, anh hùng liệt sĩ Dương Văn Nội của mảnh đất quê hương Hà Nam đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cùng với hai liệt sĩ thiếu niên dũng cảm của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Kim Đồng (Cao Bằng), Phạm Ngọc Đa (Hải Phòng).
Sinh ra giữa thời thực dân phong kiến, ngay từ nhỏ Dương Văn Nội đã phải theo gia đình ly hương từ Hà Nam lên Hà Nội mưu sinh. Bố mất sớm, anh phải lăn lộn cùng mẹ kiếm sống nuôi các em. Tháng 9/1945, niềm vui đất nước giành độc lập chưa được bao lâu, cả dân tộc lại đứng trước nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Hoà vào khí thế của cả dân tộc chuẩn bị kháng chiến trường kỳ, Dương Văn Nội đăng ký tham gia lớp huấn luyện liên lạc viên, rồi tham gia Đại đội tự vệ Thăng Long thuộc Đội Thiếu niên cứu quốc Thủ đô. Cuộc chiến bùng nổ, Dương Văn Nội là một trong những chiến sỹ “cảm tử” ở lại chiến đấu giữa thủ đô, kìm chân giặc để hậu phương có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Khi các lực lượng vũ trang cuối cùng rút quân khỏi thủ đô cũng là lúc Đại đội tự vệ Thăng Long rút lui về đóng quân ở vùng Sáu Giá(Yên Sở, Hoài Đức). Tại đây, bằng những vũ khí hết sức thô sơ, Đại đội Tự vệ Thăng Long tiếp tục phối hợp với du kích Sáu Giá chống trả quyết liệt những trận càn của địch. Vừa làm liên lạc, vừa trực tiếp chiến đấu, tuy nhỏ tuổi nhưng Dương Văn Nội luôn tỏ ra là một người nhanh nhẹn, mưu trí, dũng cảm nên anh đã lập được nhiều chiến công, góp phần cho những chiến thắng chung của Đại đội tự vệ Thăng Long. Mặc dù mang súng còn cao hơn người nhưng có lần chỉ một lần bắn anh đã hạ gục 3 tên giặc Pháp cao lớn. Tháng 4-1947, trong một lần giặc vây đánh dữ dội vào làng Sáu Giá, để nhanh chóng đưa tin về ban chỉ huy đại đội đóng ở làng Dương Liễu bên cạnh, Dương Văn Nội đã dũng cảm băng qua cánh đồng, dưới làn đạn thù. Người thiếu niên anh dũng ấy đã ngã xuống giữa cánh đồng lúa đang độ xanh tốt bời bời. Năm ấy anh vừa tròn 15 tuổi. Xúc động trước tấm gương hy sinh quả cảm của người thiếu niên trẻ tuổi, nhạc sỹ Phong Nhã (tác giả của Đội ca Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh sau này), cũng là một người con của Hà Nam, lúc đó là một trong số những anh phụ trách đầu tiên góp công rèn luyện nên người thiếu niên anh hùng đã viết nên ca khúc từ tấm gương thiếu niên dũng cảm hy sinh: “Anh Dương Văn Nội/Mười lăm xuân xanh/Mà từng chiến đấu/Xông pha tung hoành…”. Bài hát đã làm xao xuyến bao trái tim tuổi thơ thời đó. Chuyện kể rằng chỉ ít lâu sau khi Dương Văn Nội hy sinh, vì cảm phục người bạn thiếu niên anh dũng khi nghe qua bài hát mà một em bé người Hà Nội đã tìm đến xin gia nhập vào Đại đội tự vệ Thăng Long, tình nguyện cầm súng chiến đấu bảo vệ thủ đô. Năm 1997, sau 50 năm anh hy sinh, Dương Văn Nội đã được nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cùng với các thiếu niên quả cảm khác như Kim Đồng, Phạm Ngọc Đa. Gương sáng Anh hùng liệt sĩ Dương Văn Nội cũng có mặt trong tủ sách “Gương thiếu niên anh hùng” của Nhà xuất bản Kim Đồng dưới ngòi bút khắc hoạ sinh động của nhà văn Lê Vân (đã được tái bản lần thứ 6).
Xêm thêm các bài Tập làm văn lớp 4 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Nói về một địa điểm du lịch ở Việt Nam thu hút nhiều khách nước ngoài
Nói về một tấm gương lạc quan, yêu cuộc sống mà em biết
Quan sát, trao đổi về màu sắc trong bức tranh của bài đọc Sắc màu
Sáng tác 4 - 6 dòng thơ hoặc viết 2 - 3 câu văn về một cảnh đẹp mà em thích
Viết 2 – 3 câu ghi lại lời trò chuyện giữa các hiện tượng thiên nhiên
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.