Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 1
Trong ngày du xuân để dự lễ tảo mộ thì vui hội đạp thanh cùng hai em đó là Thúy Vân cũng như Vương Quan. Khi đó thì nàng Thúy Kiều cũng đã gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên cho dù họ mới gặp nhau lần đầu thế nhưng cả hai bên cũng đã có những cảm nhận ấn tượng về nhau.
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Về nhà, Thúy Kiều cứ suy nghĩ vẩn vơ, nằm mộng thấy họa thơ cùng Đạm Tiên và được nàng báo tin chẳng lành. Còn Kim Trọng thì cứ ra ngẩn vào ngơ. Chàng tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Thúy Kiều, và ngày đêm mong được nhìn thấy nàng. Vào một ngày đẹp trời, Kim Trọng nhặt được cành hoa của Kiều vô ý đánh rơi. Hai người gặp gỡ và hứa hẹn. Khi một hôm, khi cả gia đình sang chơi bên ngoài, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng. Khi đó thì cả hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc. Đoạn trích sau đây (từ câu 431 đến câu 452) miêu tả về cảnh ấy, một cảnh tình yêu lãng mạn, đẹp nhất mà nhà thơ đã dụng tài để giới thiệu tính cách của nhân vật Thúy Kiều vô cùng đặc sắc.
Nguyễn Du thật tài tình biết bao nhiêu trong bốn câu thơ đầu nhà thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều qua nhà Kim Trọng lần thứ hai. Chỉ mới đây thôi, nhân
Nhà lan thanh vắng một mình
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Thúy Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Hai người đã cùng xướng họa thơ văn, cùng đối đáp, tâm sự. Kiều thì lo phận minh “bạc mệnh”. Nhân vật Kim Trọng thì lạc quan, tin vào lẽ “nhân định thắng thiên”, và hứa “thì đem vàng đá mà liều với thân”. Được nghe những lời ấy từ Kim Trọng, Kiều dường như cũng đã lại cảm thấy “lòng xuân phơi phới”. Có lẽ chính đang trong tâm trạng ấy, khi về nhà và không thấy ai thì Kiều đã vội vàng.
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Trong đêm trăng luôn đẹp thế nhưng chủ ý của Kiều đâu phải ngắm trăng. Thế rồi tượng hình ảnh “xăm xăm băng lối” là có thể cảm nhận tâm trạng náo nức, không muốn bỏ phí thời gian thực hiện mong muốn của mình. Trong lúc đó thì:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Thế rồi chính với cái mỏi mệt vì bao ngày mong mỏi, đợi chờ hay lâng lâng sung sướng vì không hẹn mà gặp? Khi được nhìn tận mắt, nghe tận tai con người và giọng nói của Kiều khiến tâm hồn Kim Trọng như lên chín tầng mây? Có lẽ có cả hai tâm trạng ấy trong hai câu thơ trên. Có thể thấy được hình ảnh một Nho sinh vừa tiễn người mà chàng thầm yêu trộm nhớ ẩn trong cụm từ “tựa án thiu thiu” có vẻ mặt vừa “như tỉnh” vừa “như mê” quả thật khó có họa sĩ nào vẽ được. Đang trong tâm trạng đó thì Kim Trọng lúc này đây cũng đã lại nghe “tiếng sen”, rồi lại thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ thì là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang bước tới. Lúc ấy, nhà thơ miêu tả Kim Trọng mang tâm trạng như vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc.
Sử dụng từ những câu thơ miêu tả như đã phân tích, nhà thơ chuyển qua hình thức đối thoại khi Kiều và Kim đối diện nhau. Kiều mở lời:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Thêm một lời trần tình về quan niệm sống của Kiều: Dường như đang chủ động trong tình yêu và trân trọng nó trong hiện thực. Quan niệm của Kiều về tình yêu khác hẳn quan niệm truyền thống đối với phụ nữ thời xưa: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Xưa kia thì đạo lí Nho gia đã dạy họ, trong đó có Kiều là tại gia tòng phụ cơ mà! Sở dĩ Kiều phá vỡ sự áp đặt của luân lí Nho giáo dành cho nữ giới có lẽ do Kiều đã cảm nhận được tình yêu chân thực của Kim Trọng, và đặt niềm tin vào con người hào hoa phong nhã này mới chủ động để “rõ mặt đôi ta”.
Dường như cởi tấm lòng, Kim Trọng rước Kiều vào thư phòng, nhanh chóng thêm đèn cho sáng, đốt thêm trầm để tăng hương thơm. Bấy giờ mới lấy tờ giấy hoa viết lời thề, lấy dao quý cắt tóc chia làm hai phần đặt lên án thư. Tưởng tượng ra hình ảnh ấy từ mấy câu thơ, người đọc đã thấy khung cảnh trang nghiêm mà ấm cúng. Cả hai cùng quỳ xuống, cùng hướng nhìn trời cao…
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thêm với đó cách tạo niềm tin về tình yêu của đôi trai tài gái sắc đã tạo nên cảnh thật nên thơ và lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Thế rồi cả hai đều để tâm trí của minh (đinh ninh) vào lời thề. Họ như đôi song ca mà bài hát là lời thề chung thủy và người chứng giám là trời đất, “Vừng trăng”. Bốn câu thơ với những từ láy vằng vặc, đinh ninh, từ lặp song song tạo thành đôi như đôi trai tài gái sắc Kiều – Kim đang nguyện thề đó là “tạc một chữ đồng đến xương”.
Có lẽ chính vì nặng với lời thề ấy mà sau này, khi quyết định bán mình để chuộc cha và em trai, nhất là trong đêm nhờ cậy Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà gắn bó với Kim Trọng thì Kiều luôn nghĩ đến cái chết nghĩ đến “thịt nát xương mòn…, người thác oan, rồi chết ngất sau khi thốt lên lời đau thương tạ lỗi cùng Kim Trọng. Thế rồi chính với nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều là như thế, là không quên lời thề, nhận phần lỗi về mình và tạo hạnh phúc cho người còn sống.
Thông qua đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Thế rồi chính với cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tính cách của Kiều, nhân vật chính thì chủ động dứt khoát và chân thật đã phá vỡ tính thụ động của thanh nữ thời xưa về tình yêu đôi lứa do lể giáo Nho gia áp đặt. Cho dù trong tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn trong sáng, đậm đà. Điều ấy đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn của Truyện Kiều.
Video Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du
Video Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 2
Chỉ với 3254 câu thơ lục bát đậm đà màu sắc của Việt Nam, Nguyễn Du đã vẽ nên cuộc đời của nàng Kiều với “ hồng nhan bạch mệnh” với những thăng trầm, sóng gió dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Truyện Kiều được xem như một công trình nghệ thuật thấm nhuần nhân đạo và có giá trị tố cáo rất sâu sắc.
“Thề nguyền “ là một đoạn trích mà tác giả đã giành để nói về đêm thề nguyền của Kim Trọng và Thúy Kiều ở trong một khung cảnh lãng mạn, đây chính là một chuyện tình đẹp nhưng gặp nhiều sự trắc trở . Kim Trọng và Thúy Kiều gặp gỡ nhau như một định mệnh se duyên của ông trời ở trong buổi du xuân tảo mộ đầu xuân. Hai người đã kết thành một mối tình tuyệt đẹp với những lời hứa hẹn , thề nguyền ở dưới đêm trăng.
Đoạn trích “Thề nguyền” đã kể về lần thứ hai khi Kiều quay trở lại gặp Kim Trọng nhân lúc gia đình không có một ai ở nhà và chính thời điểm này hai người đã làm lễ thề nguyền cùng với nhau.
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa, gương rọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt hướng huỳnh hắt hiu
Với 4 câu thơ này, người đọc đã mường tượng ra được một khung cảnh lãng mạn, huyền ảo của đem thề nguyền có ánh trăng sáng vằng vặc cùng với ngọn đèn hiu hắt.
Hình ảnh một nàng Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đã cho ta thấy nàng đã lấy hết mọi can đảm để vượt qua mọi rào cản tới gặp người mà mình đang thầm thương trộm nhớ. Còn với chàng Kim thì khoảng khắc này thực sự đáng quý hơn bao giờ hết bởi sau những tháng ngày mong chờ thì giờ đây đã được gặp trực tiếp để giãi bày nỗi lòng của mình.
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Ở trong đoạn này, Nguyễn Du đã khéo léo trong việc sử dụng hình ảnh ước lệ, lấy“tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Kiều khi chàng đang nửa tình nửa mê , luyến tiếc thấy Kiều trở về nhà sau lần gặp gỡ đầu tiên.
Nguyễn Du còn khéo lép trong việc mượn điển tích điển cố “đỉnh Giáp non thần” vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc. Ở lần gặp thứ hai này, Kiều đã mở lời trước:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
“Khoảng vắng đêm trường” đó là khoảng thời gian dài mà nàng phải vượt qua để tới gặp chàng Kim. Câu thơ “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” đã nói lên quan niệm hoàn toàn khác biệt của Kiều về quan niệm tình yêu không hề giống như những cô gái khác, nàng muốn làm chủ tình yêu của bản thân và từ đó vượt lên mọi rào cản về quan niệm xã hội cũ để có thể vươn tới một tình yêu đích thực do bản thân tạo nên.
Trước sự chủ động mở lời của Thúy Kiều, Kim Trọng đáp trả bằng hành động “rước vào”:
Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp song đào thêm hương
Hành động này của Kim Trọng đã thể hiện được sự trân trọng nàng Kiều rồi tiếp đến là thắp sáng đèn , làm tăng hương thơm cho cả căn phòng. Hình ảnh nến sáp tạo một không gian ấm áp, hạnh phúc. Những lời thề nguyện, hẹn ước đã được chuẩn bị sẵn, kỉ vật cũng đã sẵn sàng cho khoảnh khắc thề nguyền của hai người:
“Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi”
Hai người cùng nhau làm lễ thề nguyền ở dưới ánh trăng, như một minh chứng cho tình yêu của cả hai từ đây:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Bằng những câu thơ này mà người đọc có thể tưởng tượng ra được không khí tang nghiêm và thiêng liêng biết bao nhiêu. Từ láy “đinh ninh” cùng lời thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” là minh chứng rõ nhất về tình yêu mãnh liệt của họ dưới vũ trụ bao la.
Chỉ với một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được tình yêu thực sự lãng mạn,tuyệt đẹp của chàng Kim Trọng và Thúy Kiều Không chỉ có vậy, thông qua tình yêu của hai người, Nguyễn Du còn muốn thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình , yêu thương và trân trọng hạnh phúc của con người, đặc biệt là đối với người phụ nữ ở dưới chế độ phong kiến xưa.
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 3
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
…………………………………….
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng[ đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ .Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Không gian thơ mộng và thiêng liêng của cuộc thề nguyền:
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền gắn kết trăm năm
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵện và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 4
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn đề mang tính cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” mà rất hiếm đề cập đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du không những viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực thông qua đoạn trích Thề nguyền.
Thề nguyền là hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, nó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng bởi nó thể hiện được tình yêu, những cảm xúc tột độ của tình yêu. Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gỡ hôm đi chảy hội mùa xuân thì hai người thì tình yêu đã chớm nở, để khẳng định tình yêu ấy hai người đã cùng nhau thề nguyền dưới trăng. Có thể thấy hành động thề nguyền này đã phá vỡ được mọi định kiến của xã hội để chạm tới tình yêu, là tình yêu vượt trên những định kiến của thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của nàng Kiều thật táo bạo. Theo luân lí xã hội phong kiến thì hành động này không được phép có ở một người con gái, hành động giữa đêm trốn đến nhà người yêu là không thể chấp nhận. Tuy nhiên, hành động của Kiều cũng thể hiện được tình yêu cũng như sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, kể cả việc đi ngược lại với những định kiến đương thời.
Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều không đi qua xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
“Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp mặt, dãi bày.
Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm đềm chướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên người mình yêu. Trước sự xuất hiện đường đột của Thúy Kiều, Kim Trọng đã hết sức bất ngờ:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hoè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân của nàng Kiều đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim, sự xuất hiện của nàng với vẻ đẹp thanh khiết, rực rõ khiến cho chàng Kim tưởng chừng vừa gặp tiên nữ ở núi Vu Giáp. Chính khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của Thúy Kiều mà Kim Trọng không biết đây là cơn mộng mị hay thực tế đang diễn ra.
Khi yêu người ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt mơ mộng, hình ảnh của người trong lòng xuất hiện xinh đẹp,lộng lẫy ngay trước mặt khiến cho chàng Kim ngỡ ngàng như trong cơn mộng mị cũng là điều có thể hiểu được. Khi xác định được Thúy Kiều đứng trước mặt mình là thật, chàng Kim đã vô cùng vui mừng, hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được tác giả Nguyễn Du khắc họa lên bằng những chi tiết vô cùng sinh động, ấn tượng với đầy đủ cả ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Chính nét đặc sắc của không gian đêm thề nguyền đó đã trở thành một kỉ niệm thiêng liêng trong trái tim của hai người Kim, Kiều. Buổi thề nguyền được diễn ra với đầy đủ nghi thức: tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc mây, đây không chỉ là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều trao cho Kim Trọng.
Trong đêm thề nguyền này, trăng chính là chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, mặt khác nếu theo dõi toàn bộ Truyện Kiều ta có thể thấy được trăng còn là một người cố tri, chứng kiến toàn bộ những bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là hình ảnh ánh trăng nhợt nhạt, le lói trong đêmmà Thúy Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.
Vầng trăng cũng như mất mát, đau thương khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều chia tay Thúc Sinh:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Như vậy, có thể thấy ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều, từ những giây phút hạnh phúc, nồng nàn khi thề nguyền cùng chàng Kim, cũng là những phút giây đau khổ, chia li sau này. Đoạn trích đã thể hiện đầy cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy được đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời bạc mệnh của nàng Kiều.
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 5
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một “đại kiệt tác” của nền văn học trung đại Việt Nam, Truyện Kiều xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn “sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Tuy nhiên, cuộc đời của người con gái tài hoa ấy lại phải trải qua muôn vàn khó khăn, bất hạnh, sóng gió của cuộc đời. Cuộc đời Thúy Kiều toàn những khổ đau, bất trắc. Nhưng, nếu ta theo dõi từ đầu cuộc đời của Kiều, ta có thể thấy Kiều đã từng được hạnh phúc. Đó là khi gặp gỡ Kim Trọng, yêu và được yêu, tình yêu đầu đời của nàng Kiều với chàng Kim cũng đẹp như bao chuyện tình khác. Trong trích đoạn “Thề nguyền”, nhà thơ Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét tình yêu trong sáng mà da diết ấy của hai người.
Sau khi có duyên gặp mặt tại lễ tảo mộ, Kim Trọng đã khắc sâu hình bóng của nàng Kiều trong tim của mình. Vì vậy, Kim Trọng đã thuê một nhà trọ gần nhà của Vương ông, mục đích là có thể tiếp tục gặp gỡ Thúy Kiều. Cuộc gặp mặt vô tình tại lễ tảo mộ không chỉ có Kim Trọng mà Thúy Kiều cũng có sự rung động với chàng Kim thư sinh, anh tuấn. Nhân khi cả nhà về ngoại, Thúy Kiều và Kim Trọng đã lén lút gặp nhau. Khi trở về, biết bố mẹ vẫn chưa trở về, nàng Kiều đã có một quyết định rất táo bạo, đó là vượt tường để sang gặp Kim Trọng lần nữa:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Khi biết bố mẹ và hai em chưa có ai về nhà, Thúy Kiều đã “tranh thủ”quãng thời gian quý giá ấy để đi gặp tình lang. Hành động của nàng Kiều khá chu đáo, nàng buông rèm che để không ai phát hiện ra hành động của mình “vội rủ rèm che”. Hành động sau càng táo bạo hơn nữa, nàng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Ta có thể thấy, trong quan niệm phong kiến xưa, người con gái không được phép tự do yêu đương mà phải theo quy định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Ở đây Thúy Kiều không những phá vỡ quy định ấy mà còn rất chủ động đến với tình yêu một mình. Hành động “xăm xăm” thể hiện những bước chân rất dứt khoát, nhanh nhẹn. Như vậy, Thúy Kiều đã phá vỡ mọi rào cản phong kiến đối với tình yêu nam nữ, thể hiện được khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc chính đáng của mình.
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
Trong đêm tối, nàng Kiều một mình vượt quãng đường ngăn cách để đến với chàng Kim. Có thể thấy “khoảng vắng đêm trường”,thời khắc đêm khuya là giây phút những đôi lứa nhớ nhung về nhau nhất. Với Thúy Kiều cũng vậy, nỗi nhớ chàng Kim đã thôi thúc nàng hành động. “Vì hoa” ở đây ta có thể hiểu là Thúy Kiều đang ám chỉ chàng Kim, một con người tài hoa, nho nhã. “Trổ đường tìm hoa” là hành trình Thúy Kiều “băng lối vườn khuya” để đến gặp tình lang của mình, nàng tranh thủ từng phút giây có thể để ở bên nhau,vì “biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Có lẽ, cuộc gặp gỡ mộ Đạm Tiên đã luôn ám ảnh Thúy Kiều, nàng luôn mơ hồ dự cảm về một tương lai đầy biến cố sẽ đến với con người đầy tài hoa như nàng. Vì vậy, nàng không muốn lãng phí một phút giây nào để sống với cảm xúc, với tình yêu của mình.
Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động “tiếng sen khẽ động giấc hòe”. Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh “tiếng sen” để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ “khẽ động giấc hòe”. Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh “trăng xế”, “hoa lê”. Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng đầy bâng khuâng. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích “đỉnh giáp non thần”, kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng “giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
“Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen sáp song đào thêm hương”
Trước sự xuất hiện đầy bất ngờ của Thúy Kiều, chàng Kim “vội mừng làm lễ rước vào. Niềm hân hoan, vui mừng không giấu mà thể hiện ra ngay trong nét mặt, hành động đầy trân trọng, chàng Kim cho thêm sáp vào đèn để thắp sáng, làm cho cuộc gặp mặt thêm ý nghĩa, thiêng liêng hơn.
“Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi”
Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đều nghi thức thề nguyền “Tiên thề, cùng thảo một chương”. “Tóc mây” và “dao vàng” là những vật đính ước cho buổi thề nguyền. Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng.
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Trong buổi thề nguyền, “vầng trăng” chính là nhân chứng cho cuộc tình hai người. “Vằng vặc giữa trời” như soi tỏ tấm lòng chân thành, trong sáng mà Thúy Kiều và Kim Trọng giành cho nhau. Không khí lúc thề nguyền cũng hết sức nghiêm túc, chân tình “đinh ninh hai mặt một lời song song” thể hiện sự đồng lòng của cả hai bên, vật đính ước như vật trói buộc tấm chân tình, tình cảm “trăm năm” mãi không đổi thay. “Chữ đồng” ở đây có thể hiểu là sự đồng lòng, đồng tâm mãi không phai nhạt của đôi lứa.
Như vậy, trích đoạn “Thề nguyền” đã vẽ ra một khung cảnh đầy thi vị, mơ mộng. Trong không gian tuyệt mĩ ấy của thiên nhiên, nàng Kiều và chàng Kim đã thể khẳng định tình cảm giành cho đối phương bằng cách thổ lộ, thiêng liêng, chân thành hơn nữa hai người đã thề nguyền hẹn ước, khẳng định tình yêu mãi dành cho nhau. Có thể thấy,cảnh thề nguyền đêm trăng là khoảnh khắc hạnh phúc nhất cuộc đời của Thúy Kiểu, bởi lúc ấy nàng yêu và được yêu, sống trong tình yêu cháy bỏng của cuộc đời mình.
Cảm nhận đoạn trích “Thề nguyền” trong truyện Kiều Nguyễn Du – Mẫu 6
Thề nguyền là một trong những đoạn trích tiêu biểu chtình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều- một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết trở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngắn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thê nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng danh giới tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng:
Nhặt thưa sương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu!
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Từ thực tại bước vào ảo mộng, từ nơi cỏ cây vườn tược, nàng bước đi để lại sau lưng vườn khuya để đến với tình nhân cũng là lúc bước vào cõi mộng. Chỉ có nàng mới hiểu thấu được rằng trái tim nàng đang nằm ở đó, bên cạnh Kim Trọng- người nàng yêu. Cả hai tầng ánh sáng cũng soi rọi bước chân nàng, ánh đèn hòa cùng ánh trăng, dường như ánh trăng tạo nên chất thơ dẫn dắt tình cảm của Kiều đến đúng nơi cần đến. Còn đối với Kim Trọng sự xuất hiện của Kiều như một giấc mộng, với trạng thái chập chờn giấc ngủ, đường ranh giới mơ thực mỏng manh, không còn được phân định rõ ràng. Nhưng khi nhận ra , chàng lại thấy hạnh phúc, bâng khuâng trước sự xuất hiện đột ngột của tình nhân, xáo trộn không gian nơi căn nhà. Nhìn Thúy Kiều đẹp mờ ảo:
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bóng Kiều hiện ra thật đẹp, vẫn trạng thái mộng thực đan xen lẫn lộn, Bóng người và bóng trăng như hòa làm một. Vừa gần mà lại xa, tưởng chừng trong tầm tay mà lại khó nắm băt. Cả hình ảnh và âm thanh đều rất mơ hồ bởi những bước chân của nàng Kiều quá đỗi khẽ khàng, chỉ như một cơn gió thoảng qua. “giấc hòe” trong câu thơ thực chất là giấc mơ của Kim Trọng, Sự xuất hiện của Thúy Kiều “sẽ động” giấc mơ kia. Khi chàng đã nhận ra Kiều nhưng vẫn không khỏi những ngỡ ngàng, phân vân:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn nhờ giấc mộng đêm xuân mơ
Giấc mộng đêm xuân hay còn là giấc mơ của tình yêu có thật. Nguyễn Du không tự nhiên đưa ra hai giấc mơ, cũng là sự vận dụng điển tích quen thuộc trong văn học trung đại.
Trước những ngỡ ngàng, hanh phúc của Kim Trọng, Kiều giãi bày lí do nàng chủ động sang nhà Kim Trọng :
Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao
“Khoảng vắng đêm trường” là không gian thời gian tâm lí bởi vì Kim Trọng trọ học ở ngay gần nhà Kiều mà Kiều sang gặp Kim Trọng đúng sau ngàu thanh minh vậy mà cảm giác như đã xa nhau một khoảng thời gian lâu lắm rồi. Kiều thể hiện nỗi nhớ niềm thương qua chứ “hoa” , tình yêu sâu sắc của nàng dành cho Kim Trọng. Nhưng Kiều luôn chiu sự ảm ảnh về tình yêu và số phận sau cuộc gặp gỡ hữu duyên ở mộ Đạm Tiên, nàng có dự cảm về một tương lai bất hạnh chia lìa. Nàng Kiều là một người con gái nhạy cảm lại đang ở mối tình trong sáng, quấn quýt thì nỗi lo lắng về sự xa cách luôn luôn thường trực.Qua đó thể hiện quan niệm của nàng, phá vỡ những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến, tim sự chủ động trong tình yêu và trân trọng nó.
Sau những lời rãi bầy của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng dám của vầng trăng:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm rác một chữ đồng đến xương.
Đây là một cuộc thề nguyền vụng trộm nhưng lại được Nguyễn Du miêu tả một cách trang trọng, thiêng liêng trong không gian ấm cúng. Trong hoàn cảnh ấy, lời thề trở thành một sợi dây vô hình gắn kết hai trái tim, hai tâm hồn “tạc một chữ đồng đến xương”
Qua đoạn trích Thề nguyền, Nguyễn Du đã xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp đó là đêm trăng lãng mạn soi chiếu đôi nhân tình, đề cao tình yêu thủy chung của Kiều và gợi những ám ảnh định mệnh cứ mãi trong tâm trí nàng, khiến nàng mãi lo sợ vụt mất tình yêu của mình, một tình yêu trong sáng mà không kém phần sâu sắc.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.