Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài văn Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 8 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả Trần Tuấn Khải và phong cách thơ.
Giới thiệu sơ qua về lịch ra đời của tác phẩm, nội dung và nghệ thuật thể hiện.
2. Thân bài
Bài thơ có thể chia làm 3 phần:
Phần 1: Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ chia ly.
→ Hình ảnh: "hạt máu lòng, hồn nước".
Phần 2: Nỗi đau mất nước và nỗi niềm của người ra đi
→ Hình ảnh ước lệ tượng trưng : "bốn phương máu lửa", "xương rừng máu song", "thành tung quách vỡ", "bỏ vợ lìa con".
Phần 3: Lời trao gửi về sứ mệnh cứu nước của người cha.
→ Hình ảnh "thân tàn", "tuổi già sức yếu", "sa cơ", "bó tay" khích lệ con.
3. Kết bài
- Khái giá trị nội dung, nghệ thuật
- Liên hệ trình bày lòng yêu nước
Video Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà
Video Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà - Mẫu 1
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ “hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là “nghĩ tới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó, ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.
Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: “Mây sâu ảm đạm”, “gió thảm đìu hiu” “hổ thét chim kêu”... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chốn ải Bắc” đến “chốn ải Nam’' và “khắp bốn bể” đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu...”.
Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: “Bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi” đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:
“Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên”
Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”, nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài “hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi “di hận” của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ “hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
“Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”
Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:
“Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
(...)
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu.
Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông", “thành tung quách vỡ", “đất khóc giời than”, “xây khối nát”, “vật cơn sầu”... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về “BìnhNgô đại cáo” đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...”.
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
“Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?”.
Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.
Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: “Tuổi già sức yếu”, “sa cơ đành chịu bó tay”... vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước: “Giang sơn gánh vác sau này cậy con”... Cha thiết tha dặn con lần cuối: “Vì nước” hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “hai chữ nước nhà” đó là những lời huyết lệ:
“Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...”.
“Hai chữ nước nhà” là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam.
Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Hai chữ nước nhà” đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà - Mẫu 2
Trần Tuấn Khải (1895-1983) là một nhà thơ nổi tiếng dưới thời nhà Trần, ông thường mượn những câu chuyện trong lịch sử để nói về tình yêu nước và khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ khát vọng được tự do.
"Hai chữ nước nhà" được viết vào năm 1926, in trong tập thơ "Bút quan hoài", bài thơ viết về cuộc chia tay của hai cha con Nguyễn Trãi khi cha của ông là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt sang Trung Quốc.
Tám câu đầu tiên là cảnh chia ly của hai cha con diễn ra đau thương:
"Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Đoái nom phong cảnh như khuê bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Hạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì"
Câu thơ mở đầu đã tái hiện một khung cảnh chia li ảm đạm và bi thương, "ảm đạm" đây là nỗi đau của sự chia ly cũng là nỗi đau của sự mất nước phải chịu áp bức của giặc ngoại xâm. Các hình ảnh nhân hóa như "mây ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" cảnh vật cũng nhuốm màu nỗi đau của con người. Khung cảnh rộng lớn cũng khiến con người ta cảm thấy lạc lõng và nỗi đau càng khắc sâu hơn, "chốn ải Bắc", "cõi trời Nam" "bốn bề" khung cảnh này gợi ra chiều kích không gian đa chiều, có chiều rộng, chiều cao và chiều sâu. Đứng trong khung cảnh rộng lớn và rợn ngợp ấy, con người trở nên thật nhỏ bé và có xu hướng bị thiên nhiên lấn áp.
Nguyễn Phi Khanh bất bình với thế sự, bất bình với chính bản thân mình. Ông nhắc nhở con mình: Triều đại có lúc thịnh có lúc suy nhưng anh hùng hiệp nữ thì đời nào cũng có, ông nhắc nhở hãy tìm một người có tâm có đức có trí theo giúp để hoàn thành bá nghiệp khôi phục giang sơn xã tắc. Trong giờ phút chia ly này, người cha chắc sẽ không bao giờ gặp lại con mình nữa, cha con ngàn trùng cách biệt, Nguyễn Phi Khanh không muốn cho con mình đi theo phụng dưỡng đây là sự hy sinh cao cả, ông muốn con mình ở lại để trả thù cho Tổ quốc, nhắc nhở người con phải khắc ghi vào tâm can của mình.
Sự hi sinh của người cha thật cao cả thật đáng để người khác khâm phục. Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đã phác họa ra cảnh nước nhà lầm than, dân chúng phải sống trong kiếp nô lệ. Bối cảnh hiện lên đầy đau thương và bi đáp, tất cả hiện lên thật sống động qua ngòi bút miêu tả của tác giả.
"Thân vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!"
Những câu thơ như một lời nhắc nhở, nó khơi dậy lòng yêu nước của mỗi người chúng ta. Tác giả so sánh tàn bạo của giặc Minh thời đó không khác gì sự tàn bạo của thực dân Pháp lúc bấy giờ. Ông muốn khơi gợi lòng yêu nước của toàn thể dân tộc đứng lên kháng chiến.
"Thảm vong quốc kể sao xiết kể
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giới than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này"
Nỗi đau mất nước còn vượt lên trên nỗi đau riêng để rồi nó trở thành nỗi đau cao cả, nỗi đau giống nòi. Nỗi đau ấy nó mang tầm vóc lớn lao: Tham vong, cơ đồ, đất khóc, giời than, giống nòi. Nỗi đau ấy càng ngày càng tang theo cung bậc cảm xúc: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ mỗi câu thơ là tiếng than tiếng khóc và sự oán hận bi phẫn. Bao nhiêu nỗi buồn tủi căm hờn đó người đã dặn dò con mình phải sống tiếp phải báo thù rửa hận cho nước nhà cũng như là báo thù cho ông.
"Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?"
Tác giả lấy núi Nùng, sông Hồng Giang để nói sự căm phẫn xâm lược của giặc, sự dày công xây dựng của ông cha ta biết bao đời nay,cớ sao lại để giặc giày xéo lên mảnh đất linh thiêng này được. Những lời đi vào lòng người con người đọc sự căm phẫn của người cha.
"Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây..."
Những lời lẽ Nguyễn Phi Khanh nói trên là từng nời từ trong ruột gan ông lời khắc cốt ghi tâm cho con trai mình. Giang sơn xã tắc ủy thác cho thế hệ sau thế trẻ gánh vác thế hệ có lòng dũng cảm một thế anh dũng thế hệ tiếp bước cha anh quyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc chả mối thù cho đất nước, lời của người cha là đúc thúc khích lệ người con chí hướng của nam nhi và cũng là lời động viên con mình để con bước đi trên con đường mới.
Qua bài thơ trên tác giả đã cho người đọc thấy được tình cảm cha con sâu đậm nhưng trên tất cả đó là tình yêu quê hương đất nước. ông khích lệ động viên con trai mình theo con đường đúng đắn con đường chính nghĩa. Đồng thời cho người đọc thấy được sự tàn bạo của giặc ngoại xâm khích lệ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người chúng ta.
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà - Mẫu 3
Trần Tuấn Khải (1895-1983) là một nhà thơ nổi tiếng dưới thời nhà Trần, ông thường mượn những câu chuyện trong lịch sử để nói về tình yêu nước và khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ khát vọng được tự do.
"Hai chữ nước nhà" được viết vào năm 1926, in trong tập thơ "Bút quan hoài", bài thơ viết về cuộc chia tay của hai cha con Nguyễn Trãi khi cha của ông là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt sang Trung Quốc.
Tám câu đầu tiên là cảnh chia ly của hai cha con diễn ra đau thương:
"Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Đoái nom phong cảnh như khuê bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Hạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì"
Câu thơ mở đầu đã tái hiện một khung cảnh chia li ảm đạm và bi thương, "ảm đạm" đây là nỗi đau của sự chia ly cũng là nỗi đau của sự mất nước phải chịu áp bức của giặc ngoại xâm. Các hình ảnh nhân hóa như "mây ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" cảnh vật cũng nhuốm màu nỗi đau của con người. Khung cảnh rộng lớn cũng khiến con người ta cảm thấy lạc lõng và nỗi đau càng khắc sâu hơn, "chốn ải Bắc", "cõi trời Nam" "bốn bề" khung cảnh này gợi ra chiều kích không gian đa chiều, có chiều rộng, chiều cao và chiều sâu. Đứng trong khung cảnh rộng lớn và rợn ngợp ấy, con người trở nên thật nhỏ bé và có xu hướng bị thiên nhiên lấn áp.
Nguyễn Phi Khanh bất bình với thế sự, bất bình với chính bản thân mình. Ông nhắc nhở con mình: Triều đại có lúc thịnh có lúc suy nhưng anh hùng hiệp nữ thì đời nào cũng có, ông nhắc nhở hãy tìm một người có tâm có đức có trí theo giúp để hoàn thành bá nghiệp khôi phục giang sơn xã tắc. Trong giờ phút chia ly này, người cha chắc sẽ không bao giờ gặp lại con mình nữa, cha con ngàn trùng cách biệt, Nguyễn Phi Khanh không muốn cho con mình đi theo phụng dưỡng đây là sự hy sinh cao cả, ông muốn con mình ở lại để trả thù cho Tổ quốc, nhắc nhở người con phải khắc ghi vào tâm can của mình.
Sự hi sinh của người cha thật cao cả thật đáng để người khác khâm phục. Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đã phác họa ra cảnh nước nhà lầm than, dân chúng phải sống trong kiếp nô lệ. Bối cảnh hiện lên đầy đau thương và bi đáp, tất cả hiện lên thật sống động qua ngòi bút miêu tả của tác giả.
"Thân vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!"
Những câu thơ như một lời nhắc nhở, nó khơi dậy lòng yêu nước của mỗi người chúng ta. Tác giả so sánh tàn bạo của giặc Minh thời đó không khác gì sự tàn bạo của thực dân Pháp lúc bấy giờ. Ông muốn khơi gợi lòng yêu nước của toàn thể dân tộc đứng lên kháng chiến.
"Thảm vong quốc kể sao xiết kể
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giới than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này"
Nỗi đau mất nước còn vượt lên trên nỗi đau riêng để rồi nó trở thành nỗi đau cao cả, nỗi đau giống nòi. Nỗi đau ấy nó mang tầm vóc lớn lao: Tham vong, cơ đồ, đất khóc, giời than, giống nòi. Nỗi đau ấy càng ngày càng tang theo cung bậc cảm xúc: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ mỗi câu thơ là tiếng than tiếng khóc và sự oán hận bi phẫn. Bao nhiêu nỗi buồn tủi căm hờn đó người đã dặn dò con mình phải sống tiếp phải báo thù rửa hận cho nước nhà cũng như là báo thù cho ông.
"Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?"
Tác giả lấy núi Nùng, sông Hồng Giang để nói sự căm phẫn xâm lược của giặc, sự dày công xây dựng của ông cha ta biết bao đời nay,cớ sao lại để giặc giày xéo lên mảnh đất linh thiêng này được. Những lời đi vào lòng người con người đọc sự căm phẫn của người cha.
"Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây..."
Những lời lẽ Nguyễn Phi Khanh nói trên là từng nời từ trong ruột gan ông lời khắc cốt ghi tâm cho con trai mình. Giang sơn xã tắc ủy thác cho thế hệ sau thế trẻ gánh vác thế hệ có lòng dũng cảm một thế anh dũng thế hệ tiếp bước cha anh quyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc chả mối thù cho đất nước, lời của người cha là đúc thúc khích lệ người con chí hướng của nam nhi và cũng là lời động viên con mình để con bước đi trên con đường mới.
Qua bài thơ trên tác giả đã cho người đọc thấy được tình cảm cha con sâu đậm nhưng trên tất cả đó là tình yêu quê hương đất nước. ông khích lệ động viên con trai mình theo con đường đúng đắn con đường chính nghĩa. Đồng thời cho người đọc thấy được sự tàn bạo của giặc ngoại xâm khích lệ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người chúng ta.
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà - Mẫu 4
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ “hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là “nghĩ tới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó, ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.
Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: “Mây sâu ảm đạm”, “gió thảm đìu hiu” “hổ thét chim kêu”... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chốn ải Bắc” đến “chốn ải Nam’' và “khắp bốn bể” đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu...”.
Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: “Bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi” đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:
“Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên”
Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”, nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài “hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi “di hận” của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ “hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
“Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”
Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:
“Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
(...)
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu.
Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông", “thành tung quách vỡ", “đất khóc giời than”, “xây khối nát”, “vật cơn sầu”... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về “BìnhNgô đại cáo” đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...”.
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
“Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?”.
Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.
Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: “Tuổi già sức yếu”, “sa cơ đành chịu bó tay”... vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước: “Giang sơn gánh vác sau này cậy con”... Cha thiết tha dặn con lần cuối: “Vì nước” hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “hai chữ nước nhà” đó là những lời huyết lệ:
“Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...”.
“Hai chữ nước nhà” là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam.
Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Hai chữ nước nhà” đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.
Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà - Mẫu 5
Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân.
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.
Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh – Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.