Top 50 bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ Trần Tế Xương hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ Trần Tế Xương hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Văn mẫu: Thương vợ - Trần Tế Xương

Dàn ý phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ

a) Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

+ Trần Tế Xương - một ánh sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt với những bài thơ mang tư tưởng li tâm Nho giáo.

+ Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương.

- Khái quát hình ảnh ông Tú: không chỉ thể hiện thành công hình tượng trung tâm là bà Tú mà bài thơ cũng đặc biệt thành công hình ảnh ông Tú với những phẩm chất đáng quý.

b) Thân bài

* Ông Tú là người có tấm lòng thương vợ sâu sắc

- Ông Tú cảm thương cho sự vất vả, lam lũ của bà Tú

- Ông thương bà Tú vì phải mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

=> Ông Tú thương hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng.

- Ông thương vợ phải lặn lội bươn chải khi làm việc:

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn

+ "khi quãng vắng": thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.

+ “Eo sèo… buổi đò đông”: cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc

-> Tấm lòng thương xót da diết của ông Tú trước thực cảnh mưu sinh của bà Tú

- Ông phát hiện và trân trọng, ngợi ca những đức tính tốt đẹp của vợ

+ Ông cảm phục bởi tuy vất vả nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con:

“nuôi”: chăm sóc hoàn toàn “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

+ Ông Tú trân trọng sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang của vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận”: chấp nhận, không than vãn

“dám quản công”: đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

=> Trần Tế Xương đã trân trọng đề cao phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

* Ông ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ và căm phẫn trước xã hội đẩy người phụ nữ vào bất công

- Người đàn ông trong xã hội phong kiến đáng lẽ ra phải có sự nghiệp hiển hách để lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ.

+ “Nuôi đủ năm con với một chồng” : Tú Xương ý thức được hoàn cảnh của mình, nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và mình, coi mình là một đứa con đặc biệt.

+ “Một duyên hai nợ”: Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu

+ “Có chồng hờ hững cũng như không”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời

- Từ tấm lòng thương vợ, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc đẩy người phụ nữ vào bất công

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả

=> Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi, ông căm phẫn xã hội đẩy người phụ nữ vào ngang trái bất công.

c) Kết bài

- Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành công hình ảnh ông Tú

- Trình bày suy nghĩ bản thân

Video Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ

Video Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 1

Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ – bà Tú. Ở các bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tần tảo “quanh năm buôn bán ở mom sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có nhân cách cao đẹp.

Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ – đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ – đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.

Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành phận” “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương vợ và có nhân cách.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.

Bằng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. Qua đó còn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

Top 50 bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (ảnh 1)

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 2

Thơ xưa viết về người vợ đã ít mà viết về vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, kể cũng là điều nghiệt ngã, khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt thi ca. Bà Tú có thể đã chịu nghiệt ngã của cuộc đời nhưng lại có được niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Ngay lúc còn sống, bà đã đi vào thơ ông với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Ông Tú phải thương vợ lắm thì mới hiểu và viết được như thế. Trong thơ ông ta bắt gặp hình ảnh bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp theo sau.

Trong bài thơ, hình ảnh bà tú hiện lên rõ nét qua những nét hoạ của Tú Xương, nhưng để làm được điều đó hẳn ông phải là một người chồng yêu thương và hiểu vợ rất nhiều. Ông luôn dõi theo những bước đi đầy gian truân của bà Tú, thương nhưng chẳng biết làm gì, chỉ biết thể hiện nó qua thơ ca. Bằng những lời thơ chân chất, mộc mạc chân thành, tú Xương đã khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú với lòng yêu thương da diết. Mỗi chữ trong thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, yêu thương và lòng cảm phục sâu sắc:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Từ “đủ” trong “nuôi đủ” vừa nói rõ số lượng, vừa nới chất lượng. Bà Tú nuôi cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Tuy chỉ ẩn hiện đằng sau hình ảnh bà Tú, khó thấy, nhưng khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm, ở đây cũng vậy, ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện qua từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là một tấm lòng không chỉ thương mà còn là tri ân vợ. Có người cho rằng, trong câu thơ trên, ông Tú tự coi mình là một đứa con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách mình, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên, nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít, nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ, sự hờ hững của ông với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo.

Ở cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: “Xuất giá tòng phu”, đối với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” thế mà có một nhà thơ dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn bám vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ biết thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ để lên án thói đời mà còn là để trách bản thân. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết, càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình yêu thương, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 3

Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con. Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ông Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám cất lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu.

Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề bao quanh là nước đầy rẫy những hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân yếu tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ hết mực mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đò đông” Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” mà đặc tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân phận một kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám quản công”. Câu thơ khiến cho ta nhớ đến câu ca dao:

“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”

Ngoài cái duyên cái nợ còn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. Các số từ tăng tiến: một, hai, năm, mười càng thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú càng làm dâng lên nỗi lòng cảm thông, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.

Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, nhà thơ không chỉ cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà còn mượn lời bà Tú lên án thói đời bạc bẽo “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều cay đắng. Ông cũng tự trách, tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như không”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà ông coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm của người đàn ông đối với gia đình. Ông biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc mà cảm thông cho Tú Xương.

Ông không phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và làm thơ.

Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn cởi mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngôn ngữ bác học làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.

Top 50 bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (ảnh 2)

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 4

Tú Xương có nhiều vần thơ, phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng. Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm – Ngựa xe chẳng lúc nào ngơi”. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời – hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.

Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc” câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú là một người đàn bà.

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng(!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm đang của mình.

Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò”, “cái cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông…” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ… của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ

“Eo sèo” từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!

“Duyên” là duyên số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả và khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một … hai… năm… mười…” làm nổi rõ đức hy sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình. “ u đành phận”.. dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông”, lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình “ăn lương vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 5

Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở mom sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có nhân cách cao đẹp. Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt sự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”.

Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đu - đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ - đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.

Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông là cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con.

Câu nói “âu đành phận”, “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương vợ và có nhân cách.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.

Bằng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. Qua đó còn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

Top 50 bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (ảnh 3)

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 6

 Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

    Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở mon sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có nhân cách cao đẹp.

    Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng.

    Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ - đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ - đủ mọi thú ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.

Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành phận” “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương vợ và có nhân cách.

    Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

    Có chồng hờ hững cũng như không

    Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.

    Bằng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hinh sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. Qua đó còn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 7

Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con. Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ông Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám cất lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu.

Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề bao quanh là nước đầy rẫy những hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân yếu tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ hết mực mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đò đông” Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” mà đặc tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân phận một kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám quản công”. Câu thơ khiến cho ta nhớ đến câu ca dao:

    “Một duyên, hai nợ, ba tình

    Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”

Ngoài cái duyên cái nợ còn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. Các số từ tăng tiến: một, hai, năm, mười càng thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú càng làm dâng lên nỗi lòng cảm thông, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.

Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, nhà thơ không chỉ cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà còn mượn lời bà Tú lên án thói đời bạc bẽo “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều cay đắng. Ông cũng tự trách, tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như không”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà ông coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm của người đàn ông đối với gia đình. Ông biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc mà cảm thông cho Tú Xương.

Ông không phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và làm thơ.

Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn cởi mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngôn ngữ bác học làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong Thương vợ - Mẫu 8

Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

    Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở mon sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có nhân cách cao đẹp.

    Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

    Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng.

    Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ - đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ - đủ mọi thú ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.

    Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành phận” “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương vợ và có nhân cách.

    Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

    Có chồng hờ hững cũng như không

    Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.

    Bằng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hinh sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. Qua đó còn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.

 

Tài liệu có 17 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
431 1 0
TOP 10 mẫu Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
125 1 0
TOP 10 mẫu Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
161 1 0
TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
87 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống