Top 50 bài Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục vân tiên hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục vân tiên hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Văn mẫu: Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên

Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu: một người có cuộc đời đau thương, bất hạnh.

- Giới thiệu chung về đoạn trích "Lẽ ghét thương".

Thân bài:

a. Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên

- Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghĩa hỗ trợ nhân vật chính ( trên đường tìm chính nghĩa)

- Ông Quán có phong thái của một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử, và quặn lòng với những kẻ làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.

- “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Ông Quán bày tỏ thái độ thương ghét phân minh.

=> Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.

b, Mối quan hệ giữa ghét – thương trong thái độ ông Quán    

b.1. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương dân lầm than

- Ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ mê dâm >< dân sa hầm sẩy hang

+ Đời U, Lệ đa đoan >< dân lầm than

+ Đời Ngũ bá phân vân >< dân nhọc nhằn

+ Đời thúc quý phân băng >< rối dân

- Điệp từ “ghét”+ “đời” + liệt kê hàng loạt các điển cố: Kiệt, Trụ, U, Lệ, Ngũ bá, thúc quý + Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân + điệp từ “dân” + động từ “sa, sẩy” + tính từ “lầm than, nhọc nhằn, rối”=> Tác giả căm ghét những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.

b.2. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương hiền tài không được trọng dụng

- Liệt kê các danh sĩ trong sử sách:

+ Khổng Tử: lận đận

+ Gia Cát: tài đức mà mệnh yểu

+ Nhan Tử: mưu lược tài ba nhưng không gặp thời

+ Đồng Tử: tài cao học rộng nhưng không được tin dùng

+ Nguyên Lượng: thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn

+ Hàn Dũ: ngay thẳng mà mang họa

+ Liêm, Trạc: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học

- Điểm chung của các nhân vật này: họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo, giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt được sở nguyện.

- Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: ông muốn giúp đời, lập nên nhiều công danh nhưng cuộc đời đầy bất hành, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương. Bởi thơ, đoạn thơ chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng của cụ Đồ Chiểu.

c, Tư tưởng và tấm lòng của tác giả

- Hai câu kết:

“Xem qua kinh mấy lần thi cử

Nửa phần lại ghét nửa phần thương.”

- Nghệ thuật tiểu đối => nỗi “thương” và “ghét” ở đây, tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.

Kết bài:

- Cảm nhận chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

Video cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên

Video cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 1

 Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam. Tuy ông là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để "chở đạo, đâm gian", vì thế mà các tác phẩm của ông luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Và "Lục Vân Tiên" là một tác phẩm tiêu biểu về vấn đề đạo đức của con người được nhà thơ quan tâm và thể hiện ở nhiều góc độ. Đoạn trích "Lẽ ghét thương" nằm ở phần hai của tác phẩm đã chinh phục người đọc bởi tính nhân dân, bởi tình cảm yêu ghét phân minh và tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam Bộ qua nhân vật ông Quán. Và đó cũng chính là bản thân nhà thơ tự bộc bạch tình cảm của mình trước sự đời.

      "Lục Vân Tiên" không phải là tác phẩm đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh mà là đề cao nhân nghĩa và phê phán tất cả những gì là bất nhân, bất nghĩa. Bao trùm tác phẩm là những tình cảm rất đẹp đẽ, hồn nhiên của những con người biết cứu giúp nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau lúc khó khăn, những người sống có chí tình chí nghĩa. Đoạn trích "Lẽ ghét thương" trong "Lục Vân Tiên" gồm hai sáu câu thơ lục bát, là lời của ông Quán. Trong đó mười câu nói về "ghét", mười sáu câu nói về "thương". Hoàn cảnh để ông lão bày tỏ lẽ ghét thương của mình là khi bắt gặp Lục Vân Tiên cùng với Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thi thố với nhau. Đến khi Trịnh Hâm và Bùi Kiệm thua thì lại đổi cho bên Lục Vân Tiên gian lận. Chính vì thế ông Quán thấy bất bình và lên tiếng thể hiện sự ghét thương của bản thân mình. Có thể nói ở đây, ta thấy tác giả đã nhờ ông Quán nói lên sự ghét thương. Trong lời của ông, ta thấy rõ tư tưởng trung quân của Nguyễn Đình Chiểu trước hết không phải xuất phát từ vua mà từ dân, từ lợi ích của dân. Nhà thơ thấy chỉ có thể trung với những ông vua tốt, biết chăm lo cho dân, chứ đối với những ông vua xấu ác làm hại dân, gây đau khổ cho dân thì ông lại lên án sâu sắc. Bởi vậy, cái ghét, tình thương của ông xuất phát từ một tấm lòng yêu thương dân sâu xa nồng thắm:

"Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương"

      Suy nghĩ kĩ câu thơ này, ta nhận ra rằng gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc. Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ độc ác. Mười dòng thơ, từ "ghét" được lặp đi lặp lại tám lần, diễn tả tư tưởng, tình cảm của tác giả:

"Quán rằng mình: Ghét việc tầm phào

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm"

     Lời lẽ thô mộc, âm hưởng đay nghiến như xiết vào lòng người. Ta tưởng như nhà thơ đã dồn nén, cô đúc vào đây tất cả sức mạnh của tình cảm để bộc lộ sự khinh ghét, căm giận đến tột độ những ngang trái, bất công trong cuộc đời.

     Tám câu thơ tiếp theo, hai câu diễn tả cụ thể một nỗi ghét của nhà thơ. Ta thấy căn nguyên, gốc rễ của cái ghét: "Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm", những cái "tầm phào", những cái "đa đoan", những cái "dối trá", những cái "mê dâm" là vì chúng làm "dối dân", làm dân nhọc nhằn, dân luống chịu lầm than muôn phần, làm dân đến nỗi "sa hầm sẩy hang". Như vậy, căn nguyên của cái ghét là bởi vì tình thương sâu sắc đối với nhân dân. Những kẻ có quyền, có ô lọng đã lợi dụng chỗ dựa để lừa gạt, làm hại dân… Thực ra là những ông vua bạo ngược, những kẻ kéo bè phái gây chiến tranh hại dân… đời Kiệt, Trụ; đời U, Lệ, đời Ngũ Bá, Thúc, Quý:

"Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Ghét đời U, Lệ đa đoan

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…"

Trong số câu thơ nói về lẽ ghét thì có bốn câu có từ "dân", nói về nỗi khổ của dân:

"Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Khiến dân lấm chịu lầm than muôn phần

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn 

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân"

      Nỗi ghét được giãi bày sâu đậm, cao độ. Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ thuật điệp từ "ghét" trong câu thơ tám tiếng:

"Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm"

      Nhà thơ đã vận dụng quy luật chuyển đổi cảm giác: Từ vị giác "cay đắng" kết hợp với từ "ghét" tạo nên một thứ cảm xúc đặc biệt. Với cách diễn đạt tăng cấp, Nguyễn Đình Chiểu cho thấy cái ghét của ông Quán chính là lòng căm cao độ, sâu cay. Ông căm thù tất cả những kẻ làm tổn hại đến cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân.

      Ở mười câu thơ trên, nhà thơ đã để lại cho ông Quán nói lòng căm thù bọn hại dân, để nói lòng thương dân thì ở mười sáu câu thơ này, nhà thơ lại để cho nhân vật bộc lộ lòng yêu thương dân trực tiếp với những bậc hiền nhân quân tử đời xưa, những con người tài cao đức lớn mà không gặp thời gặp vận, không nên sự nghiệp. Mở đầu là ông nói tình thương của mình đối với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho:

"Thương là thương đức thánh nhân

Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trầm lúc Khuông"

      Ông Quán thương cả "Nhan Tử dở dang" chưa đạt công danh mà chết yểu. Thương Gia Cát Lượng "đã đành phôi pha, tài lành" nhưng không xoay chuyển nổi thời vận nhà Hán. Ông Quán còn bộc lộ tình thương đến số phận cay đắng của con người trước quy luật của tạo hóa, xã hội. Đổng Tử Chí lớn mà "không nguôi", Nguyên Lượng "lại lui về cày", Hàn Dũ bị "đày đi xa", Liêm, Lạc bị xua đuổi….

      Nếu như ở mười câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm đó, nhà thơ đã sử dụng điệp từ "thương" tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Đó cũng chính là những con người có ít nhiều nét đồng cảnh với Đồ Chiểu, một người từng nuôi chí hành đạo giúp đời. Nhưng cuộc đời nhà thơ gặp nhiều bất hạnh. Bởi thế, tình thương ở đây chính là niềm thương cảm sâu sắc của Đồ Chiểu.

Thông qua lời ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình về lẽ ghét thương với con người. Hai trạng thái tình cảm đối nghịch nhưng lại thống nhất trong một con người. Thương và ghét đan xen, đó chính là một trái tim hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân. "Lẽ ghét thương" nói riêng và "Lục Vân Tiên" nói chung xứng đáng là một bài ca đạo đức, là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc.

van25.pdf (ảnh 1)

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 2

Nguyễn Đình Chiểu là một trong số những tác giả tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân. Tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên” là một trong số những tác phẩm xuất sắc, nổi tiếng bậc nhất của ông. Đọc toàn bộ tác phẩm nói chung và đoạn trích “Lẽ ghét thương” nói riêng, người đọc sẽ thấy được tấm lòng thương dân sâu sắc và lẽ thương ghét rạch ròi của nhà thơ mù xứ Nam Bộ.

      Mười sáu câu thơ đầu đoạn trích đã tái hiện lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và Lục Vân Tiên, để từ đó thể hiện quan niệm về lẽ ghét của ông Quán. Trước hết, những câu thơ mở đầu đoạn trích chính là lời tự giới thiệu của ông Quán về mình:

Quán rằng: kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta lại nói ra

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

      Ông Quán không phải là một cái tên hay một nhân vật cụ thể, ông chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm song lại để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Có thể dễ dàng nhận thấy, ông Quán có dáng dấp của một kẻ sĩ, một nhà Nho ở ẩn thông hiểu kinh sử, tính cách bộc trực, thẳng thắn và yêu ghét rõ ràng. Đặc biệt, câu khép lại lời giới thiệu của ông Quán “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã gợi lên mối quan hệ giữa ghét và thương. Hai phạm trù tư tưởng “ghét”, ‘thương” tưởng như đối lập song chúng lại có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau.

      Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương để thấy được quan niệm về lẽ yêu, ghét của ông Quán

Trước lời giới thiệu của ông Quán, Vân Tiên đã đáp lại một cách khiêm nhường, từ đó, thể hiện ước muốn được nghe ông Quán giải thích, nói rõ hơn, tường tận hơn về lẽ ghét thương.

Tiên rằng: Trong đục chưa tường

Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?

      Sau lời đối đáp giữa ông Quán và Vân Tiên, ông Quán đã đi sâu giải thích, làm rõ quan điểm của mình về lẽ ghét:

Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.

      Có thể thấy, cái đầu tiên ông Quán ghét đó chính là “việc tầm phào”. Như chúng ta đã biết, “việc tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, những việc vô nghĩa. Đặc biệt, cái ghét ấy như được nhấn mạnh, tăng lên bội phần khi từ “ghét” được tác giả nhắc đi nhắc lại ba lần cùng với đó là cấp độ ngày cảng một tăng lên. Để rồi, từ đó, tác giả đã liệt kê, làm rõ những “việc tầm phào” mà ông ghét trong những câu thơ tiếp theo:

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ, Bá phân vân,

Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời Thúc quý phân băng,

Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng hại dân.

      Bằng thủ pháp liệt kê, ông Quán đã liệt kê ra hàng loạt những đối tượng mà mình ghét. Đó là “đời Kiệt, Trụ mê dâm”, “đời U, Lệ đa đoan”, “đời Ngũ, Bá đa đoan”, “đời Thúc Quý phân băng”. Ông Quán đã bày tỏ thái độ ghét của mình với hàng loạt các đời vua khác nhau nhưng có thể nhận thấy giữa các đời vua ấy có những điểm tương đồng như ăn chơi hoang dân vô độ, kết bè kết cánh gây chiến tranh loạn lạc, chia li, làm nhiều việc nhũng nhiễu trong nhân dân. Đặc biệt, những việc làm, hành động của các đời vua bạo chúa ấy đã khiến cho đời sống của nhân dân “lầm than muôn phần”, phải chịu cảnh “sa hầm sẩy hang”. Như vậy, có thể thấy, ông Quán đã đứng trên lập trường, vị trí của nhân dân để bày tỏ thái độ ghét của mình, đồng thời qua đó có thể thấy ông đã gián tiếp nói lên nỗi thống khổ của nhân dân dưới các thời vua chúa bạo ngược, không chăm lo, quan tâm đời sống của nhân dân.

      Không chỉ dừng lại ở việc làm rõ quan điểm về thái độ, tình cảm “ghét” của mình, ông Quán còn đưa đến cho người đọc những suy ngẫm về điều “thương”. 

Thương là thương Đức thánh nhân

Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.

Thương thầy Nhan tử dở dang

Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.

Thương thầy Đồng tử cao xa,

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày,

Thương ông Hàn Dũ chẳng may,

Sớm dâng sớ biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

      Nếu như khi nói về lẽ ghét, khi nhắc đến những đối tượng mà mình ghét, ông Quán thể hiện thái độ tức giận, căm phẫn thì giờ đây, khi nhắc đến những đối tượng của lẽ thương giọng thơ như chùng xuống, mang trong mình sự trìu mến và thiết tha. Ông Quán thương cho Khổng Tử - một con người đã đi qua nhiều nước để hành đạo nhưng đáng tiếc thay không thành. Ông thương cho thầy Nhan tử, có tài, có đức nhưng lại chết sớm khi mọi thứ còn dở dang, thương cho Gia Cát Lượng có tài nhưng không gặp thời nên cũng đành “phôi pha”, thương cho thầy Đổng tử có chí lớn, học rộng nhưng không được trọng dụng nên không được thi tài năng. Ông còn thương cho Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc - những con người có tài, muốn giúp nước giúp dân nhưng không được. Có thể thấy, điểm chung của những đối tượng mà ông Quán thương chính là sự tài đức, có chí, nhưng vì thời vận nên họ không đạt được mong ước, sở nguyện của bản thân mình. Bày tỏ quan điểm về lẽ thương nhưng ẩn sau đó ông Quán cũng bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc của mình với những con người đó.

      Đưa ra quan điểm của mình về lẽ ghét và lẽ thương, ông Quán đã thể hiện rõ quan điểm yêu, ghét rạch ròi của mình. Thêm vào đó, trong hai câu cuối của đoạn trích, ông cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa ghét và thương.

Xem qua kinh sử mấy lần,

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

      Với nghệ thuật đối cùng cắt ngắt nhịp 4/4, hai câu thơ khép lại bài thơ như một lời chiêm nghiệm của ông Quán về lẽ ghét, thương. Đồng thời, thêm vào đó, với cách nói “nửa phần” được lặp lại hai lần cho thấy với tác giả, thương và ghét luôn lồng vào nhau, trong thương có ghét, trong ghét lại vẫn có thương.

      Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ lục bát cùng ngôn ngữ giản dị, chân chất, đậm sắc thái của người Nam Bộ, đoạn trích “Lẽ ghét thương” đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc quan điểm yêu ghét rạch ròi, phân minh của tác giả. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc cảm nhận được tình cảm yêu thương nhân dân của nhà thơ.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 3

      Nguyễn Đình Chiểu là tiêu biểu cho một nhân cách cao đẹp trong bối cảnh đất nước loạn lạc, chế độ phong kiến suy tàn, đế quốc xâm lược. Ở con người vĩ đại ấy, trước hết ta thấy được cái ý chí nghị lực phi thường vượt qua số phận nghiệt ngã. Sau là thấy được cái tấm lòng chính nghĩa thể hiện trong văn, thơ một cách thật thâm thúy và sâu sắc. Đọc thơ văn của ông, người ta rút ra được những bài học về đạo đức, về tấm lòng yêu nước thương dân của một nhà nho chân chính. Lại cũng phân biệt được đâu chính, đâu tà, thế nào là thương, ghét, thế nào biểu dương, phê phán. Một ví dụ tiêu biểu nhất cho những lời tâm huyết ấy của Nguyễn Đình Chiểu chính là đoạn trích Lẽ ghét thương thuộc truyện thơ Lục Vân Tiên.

      Chẳng ngẫu nhiên mà nhân vật ông Quán trong đoạn trích ngắn này lại được nhiều người yêu mến đến vậy. Đọc những vần thơ phân tích lẽ ghét, lời thương của ông Quán ta mới thấu hiểu được ẩn chứa trong đó là những lời tâm huyết nhất của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Ông luôn viết văn, thơ bằng một ngòi bút chân chính, thẳng thắn, chẳng bao giờ ngại ngùng và hơn tất cả suy cho cùng tấm lòng người thầy ấy vẫn luôn hướng về nhân dân. Sâu xa cái lẽ ghét, thương của ông Quán cũng bắt nguồn từ việc coi nhiều sử sách, với cái cốt cách nho gia khi xưa thì rất dễ thấu hiểu và phải thốt lên rằng: "Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa". Bởi âu những chuyện trong sử sách chẳng bao giờ dối gian, ông Quán thấy nhiều bất công, đau đớn trải dài mấy ngàn năm lịch sử, thì trở nên đau buồn hơn cả. Từ đó, ông đã rút ra một câu hết sức tâm đắc, có thể nói đây là linh hồn của cả đoạn trích và cũng là căn nguyên của nỗi ghét, niềm thương, ấy là: "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương". Và tất nhiên khởi đầu như thế chẳng ai hiểu được ý nghĩ của ông Quán, chẳng thế mà Lục Vân Tiên mới phải xin ông Quán giải thích. Ngay từ những lời đầu, nhân vật này đã thể hiện cái sự ghét của mình một cách rất sâu sắc. Ông ghét "chuyện tầm phào", suy rộng ra thì ghét những kẻ mồm năm miệng mười, chuyên buôn chuyện, dựng chuyện nhảm nhí, vô nghĩa. Cái sự ghét của ông nó tăng tiến dần dần, chẳng phải chỉ ghét khơi khơi, mà là "ghét vào tận tâm", cái ghét đã ăn vào máu và linh hồn, chẳng bao giờ thay đổi được. Ông Quán ghét những cái rộng lớn, tầm vóc ấy là nỗi căm ghét các triều đại thối nát suy tàn, "ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm", "ghét đời U, Lệ đa đoan", "ghét đời Ngũ bá phân vân", "ghét thúc quý phân băng". Ông Quán ghét những triều đại mà vua quan chỉ lo ăn chơi sa đọa, chìm đắm tửu sắc, tranh quyền đoạt lợi, trọng dụng nịnh thần để đất nước phải lầm than, nhân dân phải đói khổ vật vã. Âý chính là cái lẽ ghét cũng là do thương mà ra cả, ông Quán thương xót cho số phận dân đen phải lao đao cực khổ, phải chịu nhiều vất vả chỉ vì cái thú sa đọa của triều đình xưa. Chính vì cái tình thương cao cả như vậy nên cái ghét bỏ của ông Quán, hay là Nguyễn Đình Chiểu cũng mang tầm vóc lịch sử như thế.

Khác với lẽ ghét, nếu Nguyễn Đình Chiểu chỉ chung các triều đại xa xưa, thì ở lẽ thương ông lại nói về các cá nhân, các bậc thánh nhân với một nỗi niềm tiếc hận. Ông thương cho Khổng Tử, người khai sinh ra nền Nho giáo với nhiều tinh hoa tốt đẹp, ấy thế mà chẳng phải thời vận. Dù đã bôn ba gắng sức truyền bá, nhưng kết quả chẳng mấy ai hưởng ứng, mang lại một nỗi hụt hẫng, chán chường vì không tìm được người chung chí hướng. Rồi lại thương cho thầy Nhan Tử, cũng là thương cho lớp những bậc anh tài đoản mệnh, chưa đóng góp được cho đời đã phải lìa xa nhân thế. Ông Quán thương cả cho những bậc cao nhân khi xưa như Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Đào Uyên Minh, Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di. Tất cả họ đều là những bậc kỳ tài, nhân cách cao cả, tuy nhiên kẻ thì không gặp thời, người không được trọng dụng, thế nên dù có biết bao tài năng đi nữa thì cũng phải chịu cảnh tàn lụi, tài năng bị chôn vùi. Điều ấy để lại cho hậu thế về sau biết bao cảm xúc, vừa thương tiếc lại cũng vừa ngưỡng mộ, xót xa. Tuy ông Quán không đề cập, nhưng chắc hẳn sâu trong tâm khảm ông là nỗi mong ước đất nước có những bậc kỳ tài như thế, lại có những vị vua anh minh, để họ có cơ hội ra phò vua giúp nước, để nhân dân có một cuộc sống tốt đẹp hơn, chứ không phải chịu cái cảnh lầm than cơ cực.

      Đọc đoạn trích Lẽ ghét thương, ta càng thêm thấm thía cái nhân cách cao đẹp của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Bằng ngòi bút của một nhà nho chân chính, một người quân tử đức hạnh, lẽ ghét thương đã được khai thác một cách rạch ròi, sáng tỏ tựa như tấm lòng của tác giả. Thông qua đó, ta càng thêm thấu hiểu tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng yêu thương, ca ngợi những con người có nhân cách và tài năng tốt đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Cùng với đó là tấm lòng căm ghét cái nhiễu nhương rối ren của triều đình phong kiến xưa, tuy Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp nói ra nhưng đọc thơ ta có thể nhận thấy rõ ràng những lời phê phán ấy.

van25.pdf (ảnh 2)

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 4

      Văn học là những sáng tác tinh tế tái hiện lại cuộc sống, đời thực của con người qua các thời đại. Nó mang những giá trị cốt lõi bài học của cuộc sống, nhân cách, đạo đức để giáo dục con người ta đến cái thiện. Đúng như vậy đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu- một ngôi sao trên nền văn học trung đại Việt Nam, đã truyền tải đến người đọc những vấn đề về đạo đức qua nhân vật ông Quán trong đoạn trích. Ông Quán- một nhà nho ở ẩn, một người cương trực đã bộc bạch ra “lẽ ghét thương” của mình qua đó cũng thể hiện tấm lòng  của tác giả Nguyễn Đình Chiểu: yêu nước, thương dân.

      Đoạn trích “Lẽ ghét thương” được trích ra từ tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Tác phẩm được ông sáng tác khi ông đã bị mù, cốt truyện xung quanh cái ác và cái thiện. Ông luôn đề cao tinh thần nghĩa hiệp, phê phán cái ác và đưa ra một quy luật bất biến: chính nghĩa luôn thắng gian tà. Đoạn trích được trích ra từ phần đầu của tác phẩm, kể về cuộc gặp mặt, trò chuyện của ông Quán và bốn chàng nho sinh đi thi.Qua đoạn trích có thể thấy rõ được lẽ ghét thương phân minh của ông Quán được bộc lộ rõ như thế nào.

 Người đọc có thể thấy rõ được quan điểm của ông Quán, một người đã trau dồi mài kinh sử cũng học và thi, qua bốn câu thơ:

Quán rằng: “Kinh sử đã từng.

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa

Hỏi thời ta phải nói ra

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

      Ông Quán đã thẳng thắn đưa ra ngay suy nghĩ của mình trước sự ngụy biện hai tên Trịnh Hâm và Bùi Kiệm khi bị thua trong cuộc so tài. Ông cảm thấy bất bình  và rồi ông đã giải thích cho chính cái nguyên căn ấy “ Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.

      Qua mười hai câu tiếp theo, ta có thể cảm nhận rõ hơn rất nhiều về tầm hiểu biết sâu rộng của ông Quán khi ông bàn về “lẽ ghét”:

Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,

Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”

Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.

Ghét đời Kiệt, Trụ,mê dâm

Để dân đến nỗi sa hầm sảy hang.

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Kiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ Bá phân vân

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn

Ghét đời Thúc Quý phân băng

Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng dối dân.”

      Vân Tiên muốn hiểu rõ hơn về ý tứ của ông Quán, đồng thời cũng muốn học hỏi thêm nhiều điều đã không ngần ngại hỏi lại “Trong đục chưa tường,/Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”Ông Quán đã không ngần ngại câu trả lời mà còn giải thích rõ tại sao. Ông nhấn mạnh rằng ông ghét việc tầm phào, ghét đến tận tâm can của ông. Việc tầm phào ở đây nghĩa là những việc chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào với đâu, những việc đó khiến ông căm ghét tột cùng. Để làm rõ, ông đã đưa ra nhiều  điển cổ , điển tích để chứng minh. Đời Kiệt, đời Trụ hoang dâm vô độ, không lo cho dân, để cho dân rơi vào cuộc sống cùng cực.Đến đời U, đời Lệ “đa đoan” lắm chuyện rắc rối, kiến dân chúng không khỏi lầm than.Rồi đến nhà Ngũ Bá, Thúc Quý triền miên chiến tranh làm cho nhân dân khổ cực thêm.Qua những dẫn chứng mà ông đưa ra, ông luôn đứng về phía nhân dân, bình xét lịch sử. Nguyễn Đình Chiểu đã làm rõ được “lẽ ghét” qua nghệ thuật lặp từ “ ghét” được lặp lại tám lần và tình yêu thương dân muôn phần qua từ “dân” được lặp lại bốn lần. Có thể thấy rằng ông Quán mà cũng chính là tác giả có lòng thương  dân sâu sắc như thế nào.

      Mười bốn dòng tiếp theo của cuối đoạn trích, ta càng cảm nhận được ông Quán là một người có lòng nhân hậu, ông thương những bậc hiền tài của đất nước nhưng cuộc đời của họ luôn gặp những rủi ro khôn lường:

Thương là thương đức thánh nhân,

Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.

Thương thầy Nhan Tử dở dang

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành

Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.

Thương thầy Đồng Tử cao xa

Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi

Thương người Nguyên lượng ngùi ngùi

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày

Thương ông  Hàn Dũ chẳng may

Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa

Thương thầy Liêm, Lạc đã ra

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

      Nếu như mười hai câu thơ đầu ông thể hiện rõ lòng căm thù , ghét cay, ghét đắng bao nhiêu thì sang những câu thơ cuối ông lại bộc lộ ra niềm thương xót bấy nhiêu cho những hiền tài của đất nước. Từ thánh nhân Khổng Tử lận đận trong việc truyền đạo đến thầy Nhan Tử tài đức vậy lại kết thúc cuộc đời quá sớm. Hay Gia Cát, Đồng Tử, Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc đều là người tài giỏi, mưu trí, học cao hiểu rộng nhưng đều không gặp thời. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ cũng như liệt kê để thể hiện rõ tấm lòng yêu thương da diết đầy tính bác ái đối với những con người tài giỏi nhưng bạc mệnh.

      Hai câu cuối của bài thơ tác giả đã đúc kết lại lẽ ghét thương của mình:

Xem qua kinh sử mấy lần

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

      Nửa phần ghét kết hợp với nửa phần thương, qua đó cho thấy thái độ dứt khoát rõ ràng của ông Quán cũng như tác giả. Và sự thương và ghét ấy nó luôn tồn tại song song dù nó có trái ngược nhau, nhưng song đều bắt đầu từ “thương” – cái nguồn của tình cảm.

      Với những biệt pháp nghệ thuật như điệp từ, liệt kê, sử dụng điển tích, điển cố, ta có thể thấy được tài năng trong sáng tác văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Chính những phép nghệ thuật ấy đã giúp đoạn thơ mang tính chất triết lí cao nhưng lại dạt dào cảm xúc. Từ đó ta càng thấy được ghét, thương tưởng chừng như đối lập mà lại hoàn toàn là thống nhất.

      Nguyễn Đình Chiểu không những đã làm rạch ròi ra lẽ thương và lẽ ghét mà còn thể hiện nó một cách sâu sắc khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng. Ta có thể thấy một tầm nhìn xa, một tầm nhìn khái quát về đất nước, một lòng yêu thương dân vô bờ bến của một con người tài giỏi nhưng cuộc đời lại gặp bất hạnh như ông.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 5

 

Ở Nam kì, khi nhắc tới Lục Vân Tiên thì có lẽ không ai là không biết! Đây là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, khi mà ông đã bị mù, về dạy học và bốc thuốc cứu người cho nhân dân vùng Gia Định. Tác phẩm là cuộc xung đột gay gắt giữa cái thiện và cái ác, đề cao nhân nghĩa, khát vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp, công bằng, con người sống với nhau bằng lòng yêu thương nhân ái. Trong tác phẩm này có đoạn trích Lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tác phẩm Lục Vân Tiên.

Đoạn trích Lẽ ghét thương nằm từ câu 473 đến 504 của tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên kể về cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ đang cùng uống rượu, cùng so thơ tại quán của ông trước lúc vào trường thi. Tại cuộc so tài này, ông Quan đã bày tỏ quan điểm của mình về lẽ ghét thương của mình trong cuộc đời. Ông Quán là một nhân vật rất được yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên, bởi ông là biểu trưng cho tình cảm của nhân dân, là biểu tượng cho sự ghét thương rạch ròi của quần chúng. Ông mang dáng dấp của một nhà Nho ẩn dật, như Nguyễn Đình Chiểu, mang đậm những nét tính cách đặc trưng của người Nam bộ. Trong những lời dạy của ông Quán, một nửa trong số đó là lẽ ghét, một nửa là lẽ thương, đúng như câu kết của ông rằng: "Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương". Và cũng từ đó, ta nhận ra được rằng ghét thương luôn song hành với nhau, thương cái tốt cái đẹp, ghét cái xấu, cái ác. Ở đoạn trích này, ông Quán đã bày tỏ sự ghét bỏ với những kẻ hại dân, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, trái lại, ông thương những con người tài đức, nhưng lại vùi dập thảm hại.

Mở đầu đoạn trích, ông Quán đã bày tỏ lời bộc bạch của mình:

"Quán rằng: "Kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa

Hỏi thời ta phải nói ra

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".

Đây là những lời tự bộc của ông sau khi nghe Vân Tiên nói về lẽ ghét thương ở đời của mình. Lẽ ghét thương vốn đã được kinh sử ghi lại, những người học chữ Thánh hiền chắc hẳn đã từng đọc qua mà xót xa cho những điều đau đớn. Nhờ lời của Vân Tiên, ông Quán mới cởi tấm lòng mình mà bộc bạch "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".

Thấy ông Quán cởi lòng, chàng Vân Tiên cũng tiếp lời ông lão:

"Tiên rằng: 'Trong đục cho tường

Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"

Đây chính là những lời khơi gợi, khiến cho lão Quán như cởi được tấm lòng mình mà tiếp lời Tiên về lẽ ghét thương ở đời. Trước tiên, ông nói về lẽ ghét:

"Quán rằng: 'Ghét việc tầm phào

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân".

Hai câu thơ đầu tiên về lẽ ghét, Nguyễn Đình Chiểu đã cho ông Quán dùng tới bốn từ "ghét" để nhấn mạnh, để khắc sâu cái cảm giác ghét. Lời thơ thì mang sắc thái nhẹ nhàng "ghét việc tầm phào" thế nhưng ngữ điệu của nhân vật thì đã lên tới đỉnh điểm của sự ghét. Ông ghét "những việc tầm phào" đó là chỉ những việc nhỏ nhen, xằng bậy, ích kỉ, hoang đường làm hại đến người dân. Đó là những việc mà Quán ghét đến mức khắc sâu mà trong tận tâm can mình. Ở đây, người ta thoáng thấy bóng dáng của Nguyễn Đình Chiểu – một nhà Nho yêu nước, ghét bỏ cái thói ăn chơi sa đọa của vua chúa thời đó.

Sau khi nêu lên quan điểm của mình về lẽ ghét, ông mới liệt kê ra một loạt những dẫn chứng, cụ thể hóa những lẽ ghét của mình. Cấu trúc thơ được lặp lại "ghét đời… " cùng với đối tượng ghét và câu sau nêu lên những hậu quả mà chúng đã gây nên cho nhân dân. Cách nói bộc trực, thẳng thắn, không hoa mỹ như chính tính cách của những con người miền Nam. Từ sách sử Trung Quốc, ông Quán nêu ra hàng loạt những nhân vật nổi tiếng, đã gây ra tai họa cho nhân dân vì sự ích kỉ, tham lam, u mê của mình, ông lấy đó làm dẫn chứng cho lẽ ghét của mình với lời lẽ đanh thép, lên án.

Ông "ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm", đây là hai tên hôn quân mà ông dẫn ra làm chứng đầu tiên cho lẽ ghét của mình. Hai tên vua bạo ngược, vô đạo trong lịch sử Trung Quốc đã khiến cho dân chúng "sa hầm sảy hang", phải chịu bao đau thương, tang tóc của chiến tranh loạn lạc. Ông còn ghét hai tên vua "U, Lệ đa đoan", không chỉ tàn bạo mà còn hoang dâm khiến cho dân chúng muôn phần khốn khổ. Ông ghét thời "ngũ bá phân tranh", vì lòng tham, ích kỉ mà kết bè kéo cánh gây lên cảnh chiến tranh liên miên, loạn lạc khiến dân chúng phải điêu đứng. Có thể thấy rằng mỗi điều mà ông Quán "ghét cay ghét đắng" đều được dựa trên tình yêu nước thương dân nồng nàn, có yêu nước, có thương dân chúng, ông mới ghét "vào tận tâm" những kẻ vô lương tâm, sống trên sự áp bức dân nghèo. Ông cũng xót xa cho cảnh dân chúng lầm than khi phải sống dưới sự cai trị độc ác, tàn bạo của lũ vua chúa bạo ngược, vô đạo.

Lẽ ghét mà ông Quán thì là thế, vậy còn "nửa thương" thì sao? Cũng như lẽ ghét, lẽ thương được ông Quán trình bày bằng những ví dụ cụ thế, nhưng lại là mười bốn câu thơ, hơn hẳn lẽ ghét bốn câu.

"Thương là thương đức thánh nhân

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương"

Vẫn với những lời lẽ như ở phần ghét, vẫn là cấu trúc câu như thế, thế nhưng ở phần thương này, giọng điệu ông Quán trở lại hiền từ, dịu dàng chứ không còn đanh thép như lẽ ghét. Ông Quán đã vận dụng hết những kiến thức của mình để lấy dẫn chứng, ví dụ về lẽ thương ở đời cho bốn chàng sĩ tử nghe. Những nhân vật nổi tiếng trong nền văn hóa Trung Hoa được ông nêu lên làm ví dụ cho những chàng trai trẻ như thầy Nhan Tủ, như ông Gia Cát, …

Với ông, ông thương những bậc "đức thánh nhân" hiền từ như Khổng Tử, dùng hết nhân trí của mình để sáng tạo ra nền Nho giáo – nền tảng tinh thần của xã hội Trung Hoa, thứ mà sau này người ta đã dùng để tuyển chọn những người tài cho đất nước. Khổng Tử sáng tạo ra Nho giáo, còn hết lòng hành đạo để truyền bá "khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông", ấy vậy mà chẳng thành, đành về nhà dạy học, trở thành một thầy giáo bình thường. Mãi đến tận sau này, khi Khổng Tử đã ra đi, người ta mới thấy được những giá trị cốt lõi, những tư tưởng triết lý ẩn sâu trong từng lời dạy của ông. Thế nên, ông Quán thương cho bậc "đức thánh nhân" ấy! Ông còn thương "thầy Nhan Tử" – một người học trò đức hạnh nhất của đức thánh nhân Khổng Tử, những tưởng sẽ xây dựng lên công danh lớn, chẳng ngờ lại yểu mệnh, chết oan. Ông thương cho "Gia Cát" – người quân sư tài ba cho Hán Cao Tổ Lưu Bang, tài giỏi là thế, ấy nhưng lại đành chôn vùi mộng lớn theo sự diệt vong của nhà Hán. Ông thương cho "Nguyên Lượng", cho "Đổng Tử" – những vị quan thanh liêm, tài giỏi, hết lòng phò vua, ấy vậy mà chẳng gặp thời đành bất đắc chí trở về quê nhà với ruộng vườn, ao cá, chôn vùi tài năng cả một đời. Ông thương cho "Hàn Dũ", cho "thầy Liêm, Lạc" – những bậc anh hùng tài hoa của đất nước Trung Quốc, chỉ vì can gián vua, ngăn vua không làm điều trái đạo đức mà kẻ thì bị "đày đi xa", kẻ thì bị phế chức vụ, đuổi về quê nhà.

Những lẽ thương của ông Quán là thương cho những bậc anh hùng tài hoa nhưng có số phận chông chênh, éo le, bất đắc chí, không gặp thời, từ đó, cái tài cái chí bị thời gian làm phôi pha, mai một đi. Nhìn sâu vào trong lẽ thương của ông, ta mới hiểu được tấm lòng của một người Nho sĩ yêu nước, thương những người tài hoa không được trọng dụng, cũng là ghét những kẻ nịnh thần, ghét những tên hôn quân hoang dâm, bạo ngược, không chỉ khiến dân chúng khốn khổ, lầm than mà còn khiến hiền tài chẳng thể cống hiến. Lẽ thương cũng đi liên với lẽ ghét vậy nên ông Quán mới kết luận rằng:

"Xem qua kinh sử mấy lần

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương".

Lẽ ghét thương được xây dựng chính từ tấm lòng của người sĩ phu yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Ông bộc lộ sự yêu sự ghét của mình rõ ràng qua từng lời thơ, thẳng thắn, bộc trực như tính cách của những con người Nam Bộ - nơi ông sống vậy. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, viết bằng thể thơ lục bát truyền thống khiến người đọc càng thêm thấm nhuần hơn những lẽ ghét lẽ thương mà ông thể hiện ở trên. Lẽ ghét thương cũng khiến người ta phải khâm phục về vốn kiến thức sâu rộng của người thầy đồ mù Nguyễn Đình Chiểu.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được viết bằng bút pháp trữ tình, cho ta hiểu thêm về tấm lòng yêu ghét phân minh, mãnh liệt của Nguyễn Đình Chiểu, và hơn thế là tấm lòng thương dân như con, sâu sắc vô cùng của tác giả. Có lẽ chính vì điều này, sau này, khi thực dân Pháp xâm lược, ông đã là người đứng lên lãnh đạo người dân Nam bộ chống lại lũ cướp nước tàn ác ấy. Cùng với Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc, truyện Lục Vân Tiên nói chung, Lẽ ghét thương nói riêng là những tác phẩm vô cùng tiêu biểu cho lòng yêu nước và tài năng của Nguyễn Đình Chiểu.

van25.pdf (ảnh 3)

 

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 6

 

Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” thông quan nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ông Quán đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:

Quán rằng: Kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta phải nói ra,

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Ông Quán vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán chính là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.

Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và không tách rời nhau.

Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.

Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ông Quán ghét chính là chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ. Có thể thấy mỗi cái ông ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ông ghét gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.

Còn điều ông thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ông Quán đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn. Những cái tên ông nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lòng ôm trùm thiên hạ, cả một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên, vất vả. Ông thương là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:

Xem qua kinh sử mấy lần,

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ pháo đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần có tác dụng trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.

Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 7

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm nổi bật như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,... và không thể không nhắc đến truyện thơ Lục Vân Tiên với trích đoạn Lẽ ghét thương đã in những dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc suốt bao thế hệ qua.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về sự kiện bốn chàng nho sinh lên kinh dự thi tình cờ gặp nhau trong quán rượu của ông Quán. Trịnh Hâm đã đưa lời thách đố làm thơ để so tài cao thấp, Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn hẳn khiến cho Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ tài năng của chàng. Trước tình huống đó, ông Quán đã ra và trò chuyện về lẽ ghét thương ở đời.

Với bốn câu tự giới thiệu hết sức ngắn gọn của ông Quán, người đọc đã có đôi nét thông tin và hiểu về nhân cách đáng kính của ông:

Quán rằng: Kinh sử đã từng

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta phải nói ra,

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

Ông Quán cũng như ông Tiều, ông Ngư sống cuộc đời mai danh, ẩn tích, tránh phường danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hình ảnh của họ cũng phảng phất hình ảnh của Đồ Chiểu sau khi bị mù trở về quê hương làm nghề dạy học và sáng tác. Bởi vậy, các nhân vật này cũng chính là những người thể hiện và phát ngôn những tư tưởng, quan điểm của tác giả.

Trong câu nói của ông Quán còn thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa ghét và thương. Thương và ghét là hai mặt tình cảm trong mỗi con người. Cái người ta thương là những điều tốt đẹp, lay động trái tim, ngược lại họ thường ghét cái xấu xa, độc ác, làm ảnh hưởng xấu đến con người. Như vậy, ghét cũng chính là xuất phát từ lòng thương, bởi vì thương người dân nên mới ghét những điều xấu xa, bạo ngược. Tình cảm này của ông Quán được thể hiện một cách tha thiết chân thành:

“Quán rằng: ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”

“Tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, không có ý nghĩa. Đó chính là những điều ông Quán ghét. Cái ghét ấy càng được khắc đậm hơn qua việc lặp lại từ “ghét” ba lần theo chiều tăng tiến. Và tám câu thơ tiếp đó là những dẫn chứng cụ thể, trực tiếp để làm rõ những điều mà ông Quán ghét. Ông ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, đời U, Lê đa đoạn, Thời Ngũ bá phân vân,… khiến cho người dân phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực, chiến tranh khiến biết bao gia đình phải li tán. Dường như trong từng câu thơ người đọc cảm nhận được nỗi phẫn uất cuộn trào trong lòng ông Quán. Qua những lời bộc bạch hết sức chân thành của ông Quán, ta có thể thấy rằng, ông hay chính Nguyễn Đình Chiểu đứng trên lập trường nhân dân, vì dân mà nêu lên quan điểm về lẽ ghét thương. Đồng thời lẽ ghét ấy cũng là cơ sở để tác giả thể hiện lẽ thương của mình. Ông thương những nhà hiền triết, bậc chí nhân, quân tử như: Khổng Tử, Đào Tiềm, Nguyên Lượng, Hàn Dũ,… Họ đều là những con người tài giỏi, mang trong mình tâm niệm đem tài năng ra giúp ích cho đời song lại không đạt được sở nguyện. Thấp thoáng ở những nhân vật đó ta thấy hình ảnh của Nguyễn Đình Chiểu, ông cũng mang trong mình những suy nghĩ, khát vọng lớn lao nhưng đều đi vào bế tắc. Bởi vậy khi nhắc đến những nhân vật này ta cảm nhận được niềm cảm thông và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với họ. Tác giả kết thúc tác phẩm bằng hai câu thơ: “Xem qua kinh sử mấy lần/ Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” như là một lời tóm lại lẽ ghét thương ở đời.

Lẽ ghét thương của ông Quán là những tình cảm đạo đức của một con người vốn là học trò của nơi của Khổng sân Trình, đã thấm những đạo lí nho gia tốt đẹp. Tuy nhiên, ta cũng cần thấy rằng lẽ ghét thương đó được xuất phát từ một con người sống gần gũi với nhân dân và có tình yêu thương tha thiết với họ. Lời lẽ trong bài vô cùng đanh thép, mạch lạc, dõng dạc cho thấy tính cách bộc trực, đầy hào khí rất đúng với cốt cách, tinh thần của con người Nam Bộ. Như đã khái quát từ đầu, ông Quán cũng là một trong rất nhiều nhân vật được dùng để thể hiện tư tưởng quan điểm của tác giả. Bởi vậy, khi khẳng định những phẩm chất tư tưởng này ta cũng không nên đồng nhất chúng chỉ là của riêng nhân vật trong tác phẩm. Đây cũng chính là quan niệm, lẽ sống của tác giả Nguyễn Đình Chiểu “một nhà nho nghĩa khí, đầy lòng yêu nước, thương dân và nhuần thấm rất sâu “chất Nam Bộ” trong cách sống, cách nhìn, cách nghĩ và cách nói”.

Để tạo nên sự thành công của đoạn trích, những đặc sắc nghệ thuật ta cũng không thể không nhắc đến. Văn bản được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị, đậm chất Nam Bộ nhưng cũng hết sức truyền cảm, giàu cảm xúc. Sử dụng hình thức liệt kê, phép điệp cho thấy rõ lẽ ghét thương ở đời của tác giả. Giọng thơ linh hoạt, đa dạng lúc cuồn cuộn sục sôi khi nói về lẽ ghét, lúc lại da diết, trầm buồn khi nói về lẽ thương.

Tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm nơi người đọc bởi sự kết tinh hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Lẽ ghét thương đã nói lên những tình cảm yêu ghét chân thành, thẳng thắn mà cũng hết sức tha thiết của một tấm lòng vĩ đại, suốt một đời yêu nước, thương dân.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 8 

Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” thông quan nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ông Quán đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:

Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Ông Quán vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán chính là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.

Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và không tách rời nhau.

Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.

Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ông Quán ghét chính là chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ. Có thể thấy mỗi cái ông ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ông ghét gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.

Còn điều ông thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ông Quán đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn. Những cái tên ông nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lòng ôm trùm thiên hạ, cả một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên, vất vả. Ông thương là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:

Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ pháo đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần có tác dụng trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.

Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 9

Cuối thế kỉ XIX chế độ phong kiến nhà Nguyễn đang bước vào giai đoạn của những “cơn hấp hối”, triều chính rối ren. Đó là nguồn cảm hứng để các nhà văn, nhà thơ phản ánh hiện thực, hoàn thành sứ mệnh “người thư kí trung thành của thời đại”. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn tài ba sống trong giai đoạn ấy, bằng tài năng thi phú ông đã mượn chuyện bên Trung Hoa để tái hiện lại hiện thực xã hội đương thời và bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua những vần thơ. Đoạn trích “Lẽ ghét thương” trích trong truyện “Lục Vân Tiên” từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi, đồng thời thể hiện tình cảm chân thành thương ghét của tác giả.

Ông Quán trong đoạn trích là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho ở ẩn. Ông bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của mình trước việc đời mà ông chứng kiến. Đó là chuyện của bốn chàng nho sinh Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, Tử Trực cùng bạn là Lục Vân Tiên. Họ uống rượu, thi tài làm thơ trong quán ông trước khi vào trường thi. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm ba hoa, khoác lác bị thua còn nghi oan cho Lục Vân Tiên và Tử Trực gian lận. Nhân sự việc đó ông Quán bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Nhân vật ông Quán tuy là nhân vật phụ nhưng đoạn trích này có thể coi ông là người phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bốn câu thơ đầu là tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán:

“Quán rằng kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.

Một con người học rộng tài cao như Đồ Chiểu ngoài hai mươi tuổi đã thi đậu tú tài, giữa lúc tương lai rộng mở với đầy những hứa hẹn thì mẹ mất, mắt thì bị mù sau về quê dạy học và làm nghề thuốc. Chính vì vậy mà việc tinh tường những sự việc trong sách sử khiến lòng mình đau đớn, xót xa. Ông nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa ghét và thương. Ông ghét không phải vì danh vì lợi của bản thân, mà ghét vì “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” ông ghét là bởi vì ông thương quá nhiều, vì tấm lòng thương yêu đồng loại ghét bọn gian tà, cậy quyền cậy thế ức hiếp người khác. Như vậy ghét trong quan niệm của ông Quán cũng là một biểu hiện của thương, lòng thương ở đây đạt đến mức cực đại vì thương quá nhiều mà sinh ra ghét vô cùng.

Bốn câu tiếp là tình cảm yêu ghét rõ ràng của ông Quán được bộc lộ:

Tiên rằng: “Trong đục chưa tường
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào
Quán rằng ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”

Khi được Vân Tiên hỏi chuyện về lẽ ghét thương ở đời là như thế nào? Ông thẳng thắn bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình. Ông “ghét việc tầm phào” là những việc vớ vẩn, bậy bạ, vô nghĩa. Ông “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” chỉ với một câu thơ lục bát mà đến bốn lần từ “ghét” được lặp lại và lối diễn đạt tăng cấp thể hiện rõ mức độ căm ghét đến tột cùng, cực điểm của ông Quán.

Ông cụ thể hóa việc ghét là ghét ai, ghét những việc như thế nào và ghét là vì ai?

“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
...Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”

Mỗi một cặp câu lục bát là tác giả trích dẫn những con người những sự việc từ đời nhà Hạ, Thương bên Trung Quốc với điệp cấu trúc “Ghét đời...”. Những điển tích, điển cố được sử dụng thật tài tình và có dụng ý riêng, tác giả mượn chuyện bên Tàu mà nói chuyện bên ta làm nổi bật đặc trưng của thơ ca trung đại “Ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Ông ghét ở đây là vì ai? Vì một chữ “dân” tất cả những sự việc trên của mỗi triều đại làm đều tổn hại cho dân. Nguyễn Đình Chiểu phải là một người yêu nước thương dân đến vô cùng, ông ghét vì xuất phát từ quyền lợi của những người dân nghèo. Ghét những kẻ phá hoại của dân, làm nhũng nhiễu đời sống nhân dân, đẩy họ vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đồ Chiểu sống dưới đời vua Tự Đức với chế độ chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, thuế má nặng nề, quan lại tham nhũng, thời đại ấy “Trời ảm đạm u sầu. Cảnh hoang tàn đói rét. Dân nghèo cùng kiệt” khiến cho lòng dân căm phẫn mà nổi dậy phản kháng. Nguyễn Đình Chiểu một nhà nhân đạo luôn đứng trên lập trường, quyền lợi nhân dân cất lên tiếng nói của lòng dân. Thơ ca của ông đúng như câu thơ:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”

Nếu tám câu thơ trên nêu rõ những việc của các triều đại mà ông Quán ghét thì mười bốn câu thơ tiếp theo chỉ ra những người và những lí do mà ông Quán thương:

“Thương là thương đức thánh nhân
... Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”

Mỗi con người, mỗi nhân vật được tác giả nhắc đến đều là những người xưa, những người hiền tài nhưng gặp phải thời thế bất trắc, số phận long đong không thể đem hết tài năng của mình để cống hiến, phục vụ cho đất nước. Ấy là Khổng Tử thì lận đận trong con đường truyền đạo và giáo hóa dân chúng của mình nay nơi này mai nơi nọ, là Nhan Uyển thì chết yểu, là Gia Cát Lượng tài ba lại không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư “Có thời có chí, ngôi mà không ngôi” ông ra làm quan mà không được trọng dụng tài năng của mình, thương cho Đào Tiềm không ham, không chịu được nỗi nhục chốn quan trường mà lui về ở ẩn để gìn giữ khí tiết, là thương cho Hàn Dũ vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đạo Phật mà bị tội, bị đày đi xa, thương cho thầy Liêm, Lạc “bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Những con người, những sự việc ấy đều được tác giả chọn lọc với những chi tiết điển hình, lối diễn đạt sinh động và cách sử dụng điệp từ “thương ông”, “thương thầy” đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Cũng như tám câu trên tác giả thương cho những con người tài năng lỗi lạc trước đây cũng là thương cho những người tài đức vẹn toàn thời nay mà không được trọng dụng như Cao Bá Quát có tài năng, có ý chí nhiều lần đi thi nhưng không ít lần bị đánh trượt, như Bùi Hữu Nghị cương trực nhưng vẫn phải vào ngục tù, như Nguyễn Công Trứ một lòng với nước với dân nhưng lại trở thành trò cười của thiên hạ...

Thương người cũng là thương mình, thốt nên lời căm ghét cho nhân dân cũng là nói lên nỗi lòng của chính mình. Nguyễn Đình Chiểu là một con người học rộng tài cao với bao ước mơ, hoài bão lập thân nhưng vừa bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, gian truân. Nguyễn Đình Chiểu ghét triều đại bên Trung Hoa, thương cho những tiền nhân dù là chỉ “Xem qua kimh sử mấy lần/ nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” nhưng cũng là để phản ánh thực trạng trong thời đại ông đang sống một triều đại thối ruỗng, mục nát với bao điều nguy hại cho dân. Quan điểm thương ghét của ông Quán cũng như nỗi lòng của tác giả đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ tấm lòng thương dân, thương đời.

Đoạn trích với những nét nghệ thuật đặc sắc như sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc, lối diễn đạt linh hoạt, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, sử dụng nghệ thuật tiểu đối, đối từ ngữ trong câu: Vì chưng hay ghét <> cũng là hay thương, sa hầm <> sẩy hang, sớm đầu <> tối đánh, chí thời có chí <> ngôi mà không ngôi, sớm dâng lời biểu <> tối đày đi xa,... làm cho câu thơ có vần có nhịp, bộc lộ được thái độ ghét thương rõ ràng của tác giả.

Đoạn trích “Lẽ ghét thương” tác giả mượn lời ông Quán bày tỏ nỗi lòng, suy nghĩ, tình cảm, thể hiện quan điểm thương ghét của mình trước người đời việc đời. Ẩn sau lớp vỏ ngôn từ của văn chương là cả một tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ mù. Theo đánh giá của Phạm Văn Đồng “Nguyễn đình Chiểu_ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 10

Lẽ ghét thương là lời tâm huyết của Nguyễn Đình Chiểu về nỗi ghét, tình thương nhân bản.

Trong đoạn thơ trích nói về "Lẽ ghét thương" có tất cả 26 câu thì trong đó có 10 câu nói về "ghét", 16 câu nói về "thương". Như vậy là số lời nói về thương dài gần gấp đôi so với số lời nói về "ghét". Bản thân tác giả đã có lần nói rõ: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Quả đúng như vậy, nếu đọc lại 10 câu thơ nói về "ghét" thì ta sẽ thây căn nguyên, gốc rễ của cái "ghét" ở đây là lòng thương dân. Sở dĩ ông Quán "ghét", "ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm", những cái "tầm phào", những cái "đa đoan", những cái "dối trá", những cái "mê dầứi'\ lầ vì chúng là "rối dân", "làm dân nhọc nhằn", làm "dân luống chịu lầm than muôn phần", làm "dân đến nỗi sa hầm sẩy hang". Trong số 10 câu thơ của đoạn này thì thì có 4 câu có từ dân nói về nỗi khổ của dân:

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Chuông bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Để giãi bày những lời tâm huyết vế nỗi ghét này được sâu đậm, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Trong 10 câu thơ có 8 từ "ghét" thì hai câu mở đầu đoạn trích đã có 4 từ. Riêng ở câu thơ thứ hai:

"Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm"

Nghệ thuật dùng điệp từ tăng cấp để diễn tả các màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét: Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lòng người: "ghét vào tận tâm". Với cách diễn đạt tăng cấp này, Nguyễn Đình Chiểu cho bạn đọc biết cái ghét của ông Quán đã đổi gam, đổi chất, cái gọi là ghét của ông Quán thực ra là lòng căm thù. Ong Quán căm thù tất cả những con người, những sự việc làm tổn hại đến hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của văn thơ Nguyên Đình Chiểu.

Đối lập với nỗi ghét, lòng căm ghét là tình thương, ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong 16 câu. Mở đầu là ông nói về tình thương của ông với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho: "Khi nơi Tông, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông". Tiếp đó, ông bày tỏ tình thương của ông đối với Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ là những con người hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, những muốn hành đạo, giúp vua, cứu đời và cứu dân, nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc là không được vua tin dùng, hoặc là không gặp thời vận. Mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành.

Nếu như ở đoạn thơ mười câu trên, tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân thì ở đoạn thơ 16 câu này tác giả lại cho nhân vật bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đối với những người có tài cao, chí cả, muốn cứu đời và cứu dân, nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc là không được vua tin dùng, hoặc là không gặp thời vận. Mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành.

Nếu như ở đoạn thơ mười câu trên, tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân thì ở đoạn thơ 16 câu này tác giả lại cho nhân vật bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đối với những người có tài cao, chí cả, muốn cứu đời giúp dân mà gặp phải những rủi ro, bất hạnh nên nguyện vọng cứu đời, cứu dân không thực hiện được.

Để biểu hiện tình cảm thương yêu đầy tính chất bác ái và nhân bản đó, Nguyễn Đình Chiểu ở đoạn thơ 16 câu này vẫn tiếp tục dùng nghệ thuật điệp từ. Trong 16 câu thơ này ông đã dùng 9 từ "thương"

Mở đầu cho đoạn thơ ông dùng đến hai từ "thương":

"Thương là thương đức thánh nhân"

Điệp từ "thương" biểu hiện niềm thương yêu tha thiết của nhân vật đối với Khổng Tử, khi Khổng Tử gặp những gian nan, vất vả trên đường hành đạo. Phải nói là lòng thương của ông Quán ở đây rộng lớn. Ông thương cả đến những người chết yểu mà công danh chưa đạt:

"Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách dàng công danh",
Ông thương cả đến những người không gặp vận may:
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha".

Từ đó, ông Quán bộc lộ tình thương đến số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hoá và xã hội.

Đoạn thơ có nghệ thuật bố cục khá chặt chẽ, mạch lạc.

Có câu mở đầu nói về "ghét":

"Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm
Có câu mở đầu nói vé đoạn "thương":
"Thương là thương đức thánh nhân Khỉ nơi Tống Vệ, lúc Trần, lúc Khuông"

Có câu kết cho cả hai đoạn "ghét" và "thương":

"Xem qua kinh sử mấy lần Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương",

Đối với các ý nhỏ trong mỗi đoạn ghét và thương, tác giả lại dùng các điệp từ ghét và thương để vừa tách biệt vừa liên kết các ý nhỏ lại với nhau. Ví dụ:

"Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nổi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời Ư, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lẩm than muôn phần

hoặc:

"Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt dã đành phôi pha.
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí dà có chí, ngôi mà không ngôi

Nhờ nghệ thuật dùng điệp từ kết hợp với bố cục chặt chẽ, mạch lac mà đoạn thơ đọc lên giọng điệu vừa nghiêm trang vừa thống thiết, một nét đặc trưng của điệu thơ chữ tình Nguyễn Đình Chiểu.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 11 

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Nội dung dựa trên cơ sở các mô típ của văn học dân gian và truyện trung đại kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời tác giả.

Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó với chàng để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục Vân Tiên phải về chịu tang. Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng, mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.

Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, nàng đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, phải bỏ trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng nàng kết duyên chồng vợ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Đoạn trích là lời cảm khái than đời của ông Quán trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác gỉả. Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”

Câu nói của ông Quán cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa hai loại tình cảm ghét – thương trong trái tim Đồ Chiểu. Hay ghét không phải vì những nỗi niềm riêng tư cá nhân trước cuộc đời. Hay ghét không phải vì không tha thiết lòng thương. Lí giải cho căn nguyên của tất cả những căm ghét sôi trào hóa ra lại xuất phát từ tấm lòng yêu thương trĩu nặng đối với cuộc đời: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Câu thơ tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán như một yêu cầu về đạo đức và lí tưởng của con người. Thương và ghét là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất. Đã thương cái tốt đẹp tất phải ghét cái xấu xa. Lẽ ghét thương mà ông Quán nhắc đến gắn với lòng thương dân sâu sắc. Hóa ra ghét chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương mà thôi.

Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng và chí nguyện bình sinh nên ông Quán càng căm ghét những kẻ hại dân, hại đời, nhẫn tâm đẩy dân chúng vào cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Giữa cuộc đời đầy rẫy bất công, ngang trái, trái tim yêu thương của nhà thơ không thể không cất lên tiếng nói bất bình, căm hận những gì lỗi đạo trời, trái đạo người. Vì chưng hay ghét cũng là hay thương – đó là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu.

Tiếp sau câu trả lời khái quát này, ông Quán đã chứng minh cho điều mình nói. Cái gốc của lẽ ghét thương xuất phát từ tỉnh yêu thương. Không có cái gốc của thương, mọi cái ghét dường như có nguy cơ trở thành thái độ hằn học với cuộc đời. Do đó nó sẽ không có ý nghĩa nhân văn cao cả và không có động lực đấu tranh.

Phần nói về lẽ ghét gồm mười câu:
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.

Câu thơ thứ nhất đã hé mở cho chúng ta thấy nguyên nhân quyết định thái độ yêu ghét của ông Quán và cũng là của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thấp thoáng sau từng chữ, từng câu là một trái tim tha thiết yêu thương. Tình thương ấy thể hiện qua hai chữ hay thương giản dị, mộc mạc mà xúc động lòng người.

Tám câu thơ tiếp theo chia làm bốn cặp, cứ câu trên nêu lên đối tượng bị ghét thì câu dưới tả cảnh khổ của dân :

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời u, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Ông Quán đã Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm các triều đại và những nhân vật đại diện cho các triều đại đó như vua Kiệt thời nhà Hạ, vua Trụ đời nhà Thương bạo ngược, vô đạo, hoang dâm nhất trong lịch sử vua chúa Trung Quốc. Sử sách còn ghi lại chuyện vua Kiệt cho: Xây núi thịt, rừng thịt khô, đào ao đựng rượu, đi thuyền trong ao, đào hầm làm Trường Dạ cung (cung đêm dài) để nam nữ tạp giao. Vua Trụ cuối nhà Thương lấy thịt người nuôi thú dữ, moi tim trung thần là 77 Can để xem bảy khiếu…

Đời u, Lệ đa đoan tức là u vương và Lệ vương, những tên vua khét tiếng tàn bạo, say mê tửu sắc. Bao Tự, người đàn bà đẹp mà u vương say đắm thường buồn rầu, chẳng bao giờ cười. Để mua tiếng cười của Bao Tự, u Vương đã sai người lấy hàng trăm tấm lụa quý trong kho để xé, tạo ra âm thanh “vui tai” cho Bao Tự nghe. Liều lĩnh hơn, nhà vua còn cho đốt đài phong hoả trên núi Lư Sơn để các nước chư hầu tưởng có biến, vội vàng kẻo quân đến cứu. Đang dự yến tiệc trên lầu cao, nhìn các nước chư hầu hốt hoảng kéo tới rồi chưng hửng ra về, Bao Tự đã vỗ tay cười.

Đời Ngũ bá phân vân mà ông Quán nhắc đến là đời nhà Chu năm vua chư hầu kế tiếp nổi lên làm bá chủ. Họ kéo bè, kết cánh, đánh nhau liên miên gây nên cảnh loạn lạc, điêu đứng cho dân chúng. Đời thúc quỷ phân bảng, vua và các lãnh chúa cuối đời Đường sớm đầu tối đánh, hỗn chiến kéo dài khiến triều đình chia lìa, suy thoái.

Tất cả các triều đại trên đều giống nhau ở một điểm là vua chúa say đắm tửu sắc, hoang dâm vô độ, quan lại chia phe phái tranh giành, quyển lợi, không chăm lo đến cuộc sống của nhân dân mà còn làm hại dân, đẩy dân vào cảnh lầm than khổ cực. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ trong đoạn thơ có tác dụng nhấn mạnh những điểu đáng ghét và thể hiện thái độ căm phẫn cao độ của nhân vật ông Quán. Qua lời ông Quán, người đọc có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu đã đứng hẳn về phía nhân dân bị áp bức để lên án bọn vua chúa bạo ngược, bất nhân và lũ quan lại sâu dân mọt nước.

Trong phần nói về lẽ thương, ông Quán đã dẫn những chuyện về các bậc hiền tài phải chịu số phận lận đận, ước nguyện phò vua giúp đời không thành. Hoài bão và cảnh ngộ của họ dường như có những điểm giống với tác giả của truyện Lục Vân Tiên. Bởi vậy tiếng thơ là lời đồng cảm sâu sắc xuất phát từ đáy lòng, đâu phải chi là chuyện xem trong kinh sử đã từng. Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện Lục Vân Tiên đã trải qua bao bất hạnh của số phận, lại đứng trước một thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc.

Nói đến lẽ thương thì những nhân vật mà ông Quán thương là đức thánh nhân Khổng Tử, ông tổ của Nho giáo đã lận đận cả đời trỏng sự nghiệp hành đạo của mình. Khổng Tử muốn truyền bá tư tưởng, thực hiện hoài bão cứu đời nhưng tới nước nào cũng không được tin dùng, có những lần còn suýt bị hãm hại. Thầy Nhan tử dở dang tức là Nhan Uyen, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, rất hiếu học, đức độ, song yểu mệnh: Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh. Gia Cát (Khổng Minh) thời Tam Quốc dốc tài làm quân sư cho Lưu Bị nhằm khôi phục cơ đồ nhà Hán nhưng lại không gặp thời, gặp vận, trước khi mất, sự nghiệp vẫn chưa thành. Đổng Tử tức Đổng Trọng Thư, bậc đại Nho thời nhà Hán, học rộng, tài cao, ra làm quan mà không được trọng dụng, không có điều kiện để thi thố tài năng. Nguyên Lượng tức Đào Tiềm, người có tính cách cao thượng, không màng danh lợi và rất giỏi thơ văn. Đào Tiềm đã nhận một chức quan nhỏ nhưng vì không chịu khom lưng uốn gối trước quan trên nên đã lui về ẩn dật, đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn (tạc tỉnh canh điền), để giữ trọn khí tiết của mình. Hàn Dũ là nhà văn nổi tiếng đời Đường, khi làm quan trong triều vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đập Phật nên đã bị giáng chức và đày đi xa. Thầy Liêm, Lạc là Chu Đôn Di ở Liêm Khê và Trình Hạo, Trình Di người Lạc Dương, đều là những triết gia nổi tiếng đời Tống, ra làm quan nhưng bất đổng quan điểm với vua nên lui vể dạy học.

Như vậy, lẽ thương của ông Quán bắt nguồn từ tình thương dân, thương đời. Cảnh ngộ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết tác phẩm Lục Vân Tiên ít nhiều giống những nhân vật lịch sử mà ông Quán đã dẫn trong đoạn trích. Là một nho sĩ, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng mơ ước lập thân để trả nợ nước non, nhưng mới bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, Cho nôn, trong niềm thương những bậc hiền tài kia cũng có một phần là thương mình.
Địểm lại tất cả những đối tượng ghét và thương của ông Quán, chúng ta có thể thấy điều mà tác giả quan tâm chính là cuộc sống lầm than của đông đảo dân chúng dưới ách thống trị của bọn vua chúa bạo ngược và số phận long đong của những nho sĩ hiền tài không gặp thời, gặp vận. Các dẫn chứng tuy lấy từ sử sách của Trung Quốc cổ nhưng đều được lựa chọn để ngụ ý nói về hiện tình xã hội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn. Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của nhà Nguyễn đã đẩy nhân dân vào cuộc sống đói khổ cùng cực. Không ít hiền tài chẳng những không được tin dùng mà còn bị vùi dập, đoạ đày. Cao Bá Quát là người tài cao mộng lớn nhưng thi nhiều lần mà chi đỗ đạt thấp. Bất mãn trước xã hội thối nát, ông đã tham gia phong trào khởi nghĩa của nông dân chống lạí triều đình nên bị giết chết. Bùi Hữu Nghĩa vì cương trực mà không tránh khỏi ngục tù. Nguyễn Công Trứ “một niềm trung trinh báo quốc” cuối cùng cũng bị biến thành “con rối làm trò cười cho thiên hạ”. Đằng sau những chuyện tác giả mượn từ sử sách xa xưa thấp thoáng bóng dáng hiện thực đang diễn ra trước mắt.

Tất cả những điều đáng ghét, đáng thương trong cuộc sống thường xuyên dội vào tâm tư Đồ Chiểu, con người nặng tình với dân với đời, khiến ông phải xót xa, đau đớn. Cho nên không có gì lạ khi nói tới chuyện đạo lí, kinh sử đời xưa mà giọng điệu ông Quán lại không nén được nỗi buồn giận, đắng cay. Tâm trạng của ông Quán được thể hiện qua những từ ngữ mộc mạc nhưng đầy sức mạnh và giàu cảm xúc, nóng hổi hơi thở của cuộc sống như: ghét cay ghét đắng, sa hầm sẩy hang, lằng nhằng rối dân, phui pha, ngùi ngùi… Lối dùng điệp ngữ dồn dập, cụm từ Thương ông, Thương thầy cũng lặp lại chín lần ở mười bốn câu, rất có hiệu quả trong việc diễn đạt thái độ ghét, thương dứt khoát, phân minh của tác giả. Ngoài ra, đoạn thơ còn sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong câu, ví dụ như: Vì chưng hay ghét >< cũng là hay thương, sa hầm >< sẩy hang, sớm đầu >< tối đánh, Chí thời có chi >< ngôi mà không ngôi, Sớm dâng lời biểu >< tối đày đi xa,… làm cho câu thơ nhịp nhàng, cân đổi, mang vẻ đẹp cổ điển. Tuy nhiên, phần lớn lời thơ trong Truyện Lục Vân Tiên mang tính chất khẩu ngữ cho nên mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.

Đoạn trích Lẽ ghét thương qua lời ông Quán đã thể hiện tập trung tư tưởng thương dân, thương đời sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu. Vì thương dân, thương đời mà ông ghét bọn hôn quân, bạo chúa bất nhân. Vì thương dân, thương đời mà ông kính mến và xót xa cho các bậc hiền tài, tiếc rằng họ không có dịp đem tài năng để giúp đời. Đằng sau lẽ ghét thương là tấm lòng nhân ái sâu sắc, bao la của nhà thơ mù nổi tiếng đất Lục tĩnh Nam Kì.

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 12

 

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Nội dung dựa trên cơ sở các mô típ của văn học dân gian và truyện trung đại kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời tác giả.

Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó với chàng để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục Vân Tiên phải về chịu tang. Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng, mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.

Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, nàng đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, phải bỏ trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng nàng kết duyên chồng vợ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.

 

Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên - Mẫu 13

 

Đoạn trích Lẽ ghét thương chinh phục người đọc bởi tính nhân đạo, bởi tình cảm yêu ghét phân minh và tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam Bộ…

Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để chở đạo, đâm gian. Tác phẩm của ông vì thế luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn đọc cũng bắt gặp những tình cảm rõ ràng cụ thể: yêu – ghét, cảm thông, căm giận… Những tình cảm ấy có thể được tác giả bộc lộ một cách trực tiếp trong các tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh…, cũng có thể gián tiếp gửi gắm qua phát ngôn của nhân vật. Và thái độ, tình cảm của ông Quán trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên) là một ví dụ tiêu biểu.

Lẽ ghét thương là những lời thơ tâm huyết về nỗi ghét tình thương nhân bản của Nguyễn Đình Chiểu. Và trong tình huống này, nhân vật ông Quán trở thành cái loa phát ngôn cho chính tác giả. Những tình cảm yêu, ghét rạch ròi của ông Quán nói ra ngay sau khi chúng biến cảnh Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm và Trịnh Hâm cùng thi tài xướng hoạ tại quán ăn của mình.

Đoạn trích có 26 câu thơ thì có tới 16 câu thơ nói về tình thương. Như vậy số câu thơ về tình thương yêu con người đã quá nửa. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng nói. Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Quả thực khi suy ngẫm kĩ những câu thơ này, ta sẽ thấy gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc.

Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ độc ác. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm phào, những cái đa đoan, những cái dối trá, những trò mê dâm là vì chúng làm rối dân, làm dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần tác giả thêm một câu bình luận về tội ác của chúng gây cho dân lành:

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang

Ghét đời U, Lệ đa đoan

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…

Và trong 10 câu thơ nói về lẽ ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ mà dân lành phải gánh chịu:

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.

Nếu như những câu thơ nói về lẽ ghét thương thể hiện nỗi kinh bỉ, tức giận thì đến những câu thơ này giọng thơ đột ngột chậm thể hiện sự thông cảm, chia sẻ của nhà thơ đối với nhân dân.

Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Chỉ có 10 câu thơ đầu tác giả đã sử dụng tới 8 từ ghét. Riêng câu thơ thứ hai đã có tới 3 từ:

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.

Cay, đắng là những từ dùng để chỉ mùi vị, ở đây cay, đắng không phải dùng như một sự lạ hoá ngôn từ, mà nó dùng để diễn tả độ sâu tăng dần của cái ghét. Sự kết hợp của các điệp từ ghét với sự tăng cấp về mức độ, nhà thơ đã hé mở cho độc giả biết cái ghét, đối tượng bị ông Quán ghét không chỉ thuộc phạm vi một thời đại nào mà nó có trong mọi thời đại.

Vì thế nỗi ghét ở đây là đổi gam, đổi chất, không chỉ dừng ở thái độ bên ngoài, mà nó đã ăn sâu vào máu, vào huyết quản, ghét vào tận tâm của ông. Cái gọi là ghé của ông Quán thực chất là lòng chăm thù. Ông căm thù tất cả những bọn làm ảnh hưởng, làm tổn hại đến cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Đối lập với nỗi ghét, lòng căm thù là tình thương. Ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong mười sáu câu thơ. Chỉ mười sáu câu thơ nhưng nó làm hiển hiện cả cõi lòng của một con người, thể hiện một cách sâu sắc sự cảm thông, xót xa của ông Quán đối với những bậc hiền nhân quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo giúp vua, cứu dân nhưng không thành.

Người được nhắc đến đầu tiên trong đoạn thơ nói về tình thương là Khổng Tử – người đã gặp rất nhiều gian lao vất vả khi truyền đạo:

Thương là thương đức thánh nhân

Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.

Ông thương đến cả người chết yểu mà công danh chưa đạt:

Thương thầy Nhan Tử dở dang

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh

Ông lại thương cả những người không gặp vận may, những ông quan thanh liêm không gặp thời…

Thương ông Gia Cát tài lành

Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha…

…Thương thầy Liêm, Lạc đã xa

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

Nếu như ở mười câu đầu Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm thương yêu đầy tình nhân bản đó, nhà thơ đã điệp đi điệp lại từ thương tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện được tình thương yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm, tình thương bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệp của tạo hoá và xã hội.

Trích đoạn Lẽ ghét thương tuy không dài nhưng được tác giả tổ chức sắp xếp khá chặt chẽ, mạch lạc. Sự kết hợp giữa việc sử dụng điệp từ ghét, thương với nghệ thuật bố cục chặt chẽ không chỉ tạo được sự rõ ràng trong ý thơ mà còn tạo cho đoạn thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết – một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.

Như vậy thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm những lời tâm huyết về nỗi ghét thương. Nó không chỉ thể hiện một tâm hồn giàu tình yêu thương mà còn thể hiện một tinh thần nhân bản sâu sắc.

 

Tài liệu có 35 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
540 1 0
TOP 10 mẫu Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
165 1 0
TOP 10 mẫu Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
213 1 0
TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
127 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống