Top 50 Bài văn Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài văn Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập

Dàn ý Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập

a) Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, thiên tài nhiều mặt hiếm có của Việt Nam, góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc.

Bình Ngô đại cáo (1428) là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt.

– Khái quát về nhận định: Đây là áng văn yêu nước, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam.

b) Thân bài

* Giải thích khái niệm về tuyên ngôn độc lập

– Tuyên ngôn độc lập là văn bản tuyên bố sự độc lập của một quốc gia, thường là ra đời để khẳng định chủ quyền của quốc gia vừa giành lại từ tay ngoại bang.

+ Được viết trong hoặc sau cuộc chiến: Nam quốc sơn hà được viết trong cuộc chiến chống Tống, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh viết sau kháng chiến chống Pháp.

+ Nội dung: Khẳng định độc lập, chủ quyền, tuyên bố thắng lợi, tuyên bố hòa bình.

* Chứng minh Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập

– Hoàn cảnh sáng tác

+ Sau khi quân ta đại thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô để bố cáo với nhân dân về chiến thắng này.

=> Bài cáo được viết sau chiến thắng giặc Minh.

– Tuyên bố độc lập, chủ quyền.

+ Nguyễn Trãi xác định tư cách độc lập của dân tộc bằng một loạt dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục:

·         Có nền văn hiến lâu đời, đó là điều không dân tộc nào có

·         Có cương vực lãnh thổ riêng biệt

·         Phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc

·         Lịch sử lâu đời, với các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần sánh ngang với các triều đại Trung Quốc Hán, Đường, Tống, Nguyên, khẳng định niềm tự tôn dân tộc qua từ “đế”.

·         Có anh hùng hào kiệt ở khắp nơi trên đất nước, chưa bao giờ thiếu hiền tài.

=> Bằng thủ pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã đưa ra một loạt lí lẽ khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc của Đại Việt, đó là những chân lí hiển nhiên, không ai có thể chối cãi.

+ So sánh Đại cáo bình Ngô với Nam quốc sơn hà:

·         Kế thừa các yếu tố về chủ quyền, lãnh thổ.

·         Bổ sung các yếu tố: văn hiến, phong tục, lịch sử, anh hùng hào kiệt

·         Sáng tạo: Những yếu tố đó không còn cần đến sự minh xác của thần linh, của sách trời mà do chính con người tạo ra.

-> Bản tuyên ngôn của Nguyễn Trãi đầy đủ và thuyết phục hơn.

=> Thể hiện ý thức dân tộc phát triển đến đỉnh cao, khẳng định lòng yêu nước của tác giả.

– Tuyên bố thắng lợi.

+ Vạch trần những tội ác dã man của giặc Minh:

·         Khủng bố, tàn sát dân ta dã man, độc ác

·         Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật

·         Phá hoại sản xuất, phá hoại môi trường sống, tiêu diệt sự sống, bóc lột sức lao động…

-> Tác giả đứng trên lập trường nhân bản, tố cáo tội ác của giặc Minh, lời văn đanh thép tạo nên một bản án đanh thép với kẻ thù.

=> Khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của ta là chính nghĩa, tạo nên sự đồng cảm và thuyết phục cho bản tuyên ngôn.

+ Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

·         Giai đoạn đầu vô cùng khó khăn: Lương thực hết, quân không một đội

·         Về sau, nhờ tinh thần đoàn kết đồng lòng, biết dựa vào sức dân lại có chung lí tưởng chiến đấu, quân ta chiến đấu kiên cường và trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù: Đánh một trận sạch không kình ngạc/Đánh hai trận tan tác chim muông…

·         Quân Minh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề

·         Quân ta dũng mãnh khí thế ngút trời

=> Tuyên bố về thắng lợi, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách vừa thấu tình vừa đạt lí, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc.

– Tuyên bố hòa bình:

+ Tác giả nói về tương lai đất nước: xã tắc vững bền, giang sơn đổi mới

-> Niềm tin, ý chí quyết tâm xây dựng tương lai đất nước ngày càng phát triển

+ Nói về sự vận động của vũ trụ: kiền khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh.

-> Sự vận động hướng về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của trời đất, vũ trụ.

=> Đây vừa là lời tuyên bố hòa bình, vừa là niềm tin tưởng lạc quan về tương lai đất nước của một con dân yêu nước.

c) Kết bài

– Khẳng định lại luận điểm: Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, là áng văn yêu nước là hoàn toàn thuyết phục.

– Liên hệ với các áng văn yêu nước cũng được xem là bản tuyên ngôn độc lập trước và sau Đại cáo bình Ngô như Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.

Video Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập

Video Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 1

Nhắc tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc tráng ca khải hoàn của một đất nước đã trải qua những hai mươi năm khổ cực bởi ách đô hộ và chiến tranh chống giặc Minh. Tác phẩm là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí đánh giặc quật cường của một dân tộc phải sống trong những ngày tháng đau thương, khổ nhục mà rất đỗi vinh quang. Thế nhưng bài cáo ấy đã được nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi viết bằng nghệ thuật chính luận đỉnh cao, bậc thầy mà ít tác phẩm cùng thể loại ở thời trung đại có được. Để rồi Bình Ngô đại cáo xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn”.

Áng “thiên cổ hùng văn” tức là áng văn hùng tráng được lưu truyền đến cả nghìn đời. Để có được danh xưng ấy, chắc chắn đòi hỏi ở đó phải là một tác phẩm văn chương xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Đồng thời cũng phải kể đến những giá trị lịch sử, tư tưởng vĩ đại, có dấu ấn và ý nghĩa đến muôn đời. Nhưng có lẽ, một tác phẩm hay có thể lưu truyền đến được nghìn đời như vậy phải chạm đến được trái tim, cảm xúc của các thế hệ bao đời; phải có ý nghĩa tư tưởng lớn lao phù hợp với mọi thời đại… Bình Ngô đại cáo là một áng văn bất hủ như thế.

Đã trải qua bao nhiêu năm, nhưng chắc hẳn dân tộc ta vẫn luôn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình, ý chí bất khuất trên con đường đấu tranh bảo vệ đất nước. Biết bao nhiêu cảm xúc mà Nguyễn Trãi đã để tràn lên ngòi bút. Có sự kiên quyết, vững chãi trong lời mở màn đầu tiên:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người, chẳng hề xa lạ. Nhưng bốn chữ yên dân, trừ bạo Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc đến muôn đời. Đâu có phải ở ngay thời điểm ấy, giết giặc Minh để trừ bạo ngược mà bất cứ kẻ ngang tàng nào gây họa đều phải diệt trừ để nhân dân được sống yên ổn, ấm no. Ấy là nhân nghĩa bắt nguồn từ “dân vi bản”. Cho nên, ngay ở khúc mở màn này mới thấy có cả niềm kiêu dũng, hiên ngang khi khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khí chất tự chủ được toát lên từ sự so sánh đầy mới mẻ mà tiền lệ chưa từng có. Nó có giá trị hiển nhiên ở bất cứ thời điểm nào, cho bất cứ dân tộc nào. Nhưng vào lúc ấy, cách khẳng định chủ quyền với cường quốc Bắc phương như thế là một đòn giáng chí mạng vào những kẻ đang thừa cơ gây họa đối với dân tộc ta.

Và còn có cả nỗi căm hờn, uất nghẹn với tội ác tày trời của bè lũ cướp nước và bán nước. Làm sao chúng ta có thể quên những cảnh tượng đầy ám ảnh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Suốt hai mươi năm bại nhân nghĩa, nát cả đất trời, từ con người thậm chí đến loài côn trùng cây cỏ cũng đều bị tàn sát thương tâm. Tội ác ấy nước Đông Hải không rửa sạch mùi, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, muôn đời chứng cớ còn ghi. Mỗi cảnh người, cảnh nhà, cảnh đất nước đều tan hoang dưới lưỡi lê của loài khát máu… Làm sao chúng ta quên? Nguyễn Trãi như chạm vào nỗi đau nhức nhối đến tận tim gan, xương tủy, mà hiển nhiên nhận ra biết bao kẻ thù, đâu chỉ giặc Minh trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước cũng đều mang chân tướng của những kẻ bạo tàn. Vì thế mà một nỗi đau như làm trỗi dậy nhiều nỗi đau để rồi không được quên sứ mệnh phải bảo vệ đất nước, đánh đuổi bè lũ kia.

Hơn thế, có cả sự trăn trở, lo âu cho vận mệnh đất nước với tấm lòng ái quốc, thương dân chứa chan. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trãi dùng đến hơn hai mươi câu văn để nói về chủ tướng Lê Lợi. Một hình mẫu của bậc anh hùng bước ra từ đời sống của nhân dân. Từ xuất thân đến cách xưng hô đều rất gần gũi, Lê Lợi đau nỗi đau dân tộc như dân mình, căm thù và nung nấu quyết tâm trả thù giặc như dân mình, khát vọng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đánh giặc như dân mình. Từ thấu hiểu, thương yêu đến hành động, vị lãnh tụ ấy đã biến yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều, sáng tạo ra những cách đánh xuất kì, mai phục dần dần tiến đến những thắng lợi vẻ vang. Nhưng đọc Bình Ngô đại cáo chắc chắn ai cũng biết, quân ta thắng đâu chỉ bởi có những thuận lợi trên, mà còn bởi nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử và luôn nêu cao tinh thần:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Đại nghĩa, chí nhân – chẳng phải là kim chỉ nam, là ánh sáng soi rọi cho dân tộc ta lập những chiến công oai hùng sau đấy. Và muôn đời sau tư tưởng này vẫn mãi mãi trở thành ngọn đuốc cho tinh thần đấu tranh chính nghĩa của Đại Việt trước mọi kẻ thù.

Hay cả khí thế sục sôi, quyết liệt của những ngày tháng kháng chiến oai hùng. Có lẽ chất hùng văn của bản đại cáo được thể hiện rõ nhất ở đoạn tái hiện lại trang sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Liên tiếp những trận đánh, liên tiếp những đợt phản công của ta cũng là liên tiếp những lần thất bại của kẻ thù. Xuất phát từ xứ Nghệ, xứ Thanh rồi đến Đông Đô, Thăng Long, khung cảnh chiến trường đầy khốc liệt sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội, sắc phong vân phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ. Ta cứ thế mà thừa thắng xông lên bẻ gãy từng họng kìm, chặn đứng mọi ngả đường chi viện. Địch hiện lên hoàn toàn đối lập với lúc xưa. Trước đó thằng há miệng, đứa nhe rang, máu mỡ bấy no nê chưa chán vậy mà giờ nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, bêu đầu, bỏ mạng, bó tay để đợi bại vong, trí cùng lực kiệt, thất thế, cụt đầu, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn, lê gối dâng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hàng… Nguyễn Trãi đã tái hiện lại dường như không bỏ sót, chân tướng kẻ thù hiện lên thật nhục nhã, thảm hại. Tuy nhiên điều tâm phục, khẩu phục trong chiến thắng của ta chính là ở con đường hiếu sinh mở ra cho giặc. Một lần nữa tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời lại phát huy. Biết dừng đúng lúc, không dồn kẻ thù đến bước đường cùng, đó là đại nghĩa, chí nhân. Chiến thắng ấy mới trở thành bất tử, huyền thoại trong lịch sử nước nhà. Âm vang của một thuở oai hùng cũng vì thế mà vang vọng đến ngàn năm.

Cuối cùng cảm xúc vút lên thành lời ca đầy trang trọng, hào sảng, hạnh phúc, vui sướng vì đất nước hoàn toàn độc lập, tự do. Giấc mơ về hòa bình nay đã trở thành hiện thực. Hẳn là người viết phải xúc động biết chừng nào!

Xã tắc từ nay vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh,

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, nhưng vẫn phải xuất phát từ sự đồng sức, đồng lòng của nhân dân tướng sĩ, từ tài năng trác việt của những bậc anh hùng, từ nền tảng trọng nhân nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa ấy có từ hàng trăm năm trước và vẫn trở nên vững chắc cho hàng trăm năm về sau mà bài cáo như một lời nhắc nhở.

Đúng là Bình Ngô đại cáo, khúc khải hoàn ca, anh hùng ca sáng chói cả một thời đã hội tụ biết bao nhiêu cảm xúc vậy như thể tiếng chuông ngân vang, đồng vọng từ quá khứ dội về, hướng chúng ta ở thời đại nào cũng thấy tự hào, kiêu hãnh. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử mang tính khô khan, cứng nhắc, đầy chất sắc lệnh, trở thành một áng hùng văn say mê, trong sáng và có giá trị đến nghìn đời.

Nhưng ý nghĩa “thiên cổ hùng văn” của tác phẩm còn thể hiện ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình, kiệt xuất của Nguyễn Trãi. Điều đáng nhớ của Đại cáo bình Ngô là đã đưa nghệ thuật viết văn chính luận trung đại đạt đến một trình độ mẫu mực, bậc thầy. Bản đại cáo hướng tới đối tượng là nhân dân bá tánh Đại Việt để tuyên bố về nền độc lập sau chiến thắng giặc Minh. Tuy nhiên, chiến tranh không còn nhưng tính luận chiến của nó vẫn sáng tỏ. Nhà văn vẫn hướng một mực tới kẻ thù, tới thế lực cực cường mà bao đời nay luôn nhòm ngó. Nền độc lập là quyền bất khả xâm phạm, không chỉ quân Lam Sơn đã bảo vệ thành công mà từ đời trước đến cả đời sau vẫn vậy. Nên bài cáo như một lần nữa chiến đấu trực diện với kẻ thù trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta có đầy đủ các yếu tố tương xứng để xác lập chủ quyền, đã kiên cường đứng lên chiến đấu để bảo vệ. Chiến thắng của ta là có thật, thất bại của kẻ thù không còn gì bàn cãi. Bản đại cáo vang lên như một lời phán xử cuối cùng tại tòa án nhân nghĩa. Lời phán xử ấy đanh thép, hùng hồn khắc sâu vào tâm khảm người dân đất Việt mãi ngàn năm.

Bên cạnh đó, bản đại cáo có một kết cấu vô cùng chặt chẽ. Xuất phát từ cơ sở lí luận nêu chân lý chính nghĩa muôn đời đến vạch trần tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù để nói lên thực tiễn cần phải đấu tranh để bảo vệ chân lý ấy. Nguyễn Trãi đã đặt nền móng vững chắc rồi dần dần xây những bức tường thành vững trãi về quá trình bảo vệ độc lập của nhân dân ta. Lối văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi sử dụng rất tài tình. Sự đối xứng trong từng câu văn kết hợp với bút pháp tương phản, ước lệ đậm chất sử thi đã dựng nên một bức tranh tráng lệ, oai hùng một thuở. Lập luận trong bài cáo đầy sắc bén khi lấy tư tưởng nhân nghĩa làm gốc. Mọi nội dung triển khai đều dựa trên tư tưởng này. Vì vậy mới vạch trần được bộ mặt xảo trá, thâm độc của kẻ thù, mới thấy cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng của dân tộc là chính nghĩa. Cứ từ nhân nghĩa thì việc đất nước được hòa bình là điều tất yếu mà thôi. Ngôn ngữ của bài cáo cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị, vì giàu chất tạo hình, tạo nên đa dạng sắc thái giọng điệu mang tới nhiều cảm xúc. Tuy nhiên một trong những yếu tố nữa để bản đại cáo mãi trường tồn là phần văn bản dịch rất thành công, đã chuyển tải một cách nguyên vẹn cảm xúc từ văn bản gốc để các thế hệ sau cảm nhận được dễ dàng.

Xin được mượn lời của nhà thơ Xuân Diệu để thay cho lời kết: “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”.

Văn mẫu 5.pdf (ảnh 1)

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 2

Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn siêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt; hay đến thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào cho là “khai hóa, mẫu quốc” An Nam sau khi nghe những lời dõng dạc của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, sao chúng ta quên được áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã vút cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước mãi còn ghi nhắc đến muôn đời. Cho mãi đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc mình.

Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì trước hết tác phẩm ấy phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên ngôn bao giờ cũng có ba nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng lợi; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn ấy, Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ. Sau chiến thắng giặc Minh, vào mùa xuân năm 1428, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo nền độc lập dân tộc, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau hai mươi năm ròng rã ách đô hộ và chiến tranh. Vì thế khúc tráng ca bất diệt ấy lại trở thành một khúc khải hoàn về một kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.

Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình Ngô đại cáo đã mở màn với những lời khằng định “Đại Việt là đất nước của chúng ta”:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Với thủ pháp liệt kê qua hàng loạt các yếu tố như: nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt đã xác lập một cách trọn vẹn về nền độc lập của nước nhà. Còn nhớ trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ thể chứ không mơ hồ. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lâp chủ quyền này ở chỗ, nhà văn chính luận kiệt xuất ấy đem đặt trong thế so sánh giữa hai quốc gia Đại Việt với Đại Hán. Không xét đến các yếu tố lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà xét theo việc có hay không, thì cả năm yếu tố nhà văn chỉ ra hai đất nước, hai dân tộc đều tương xứng. Cách khẳng định chân lý độc lập vì thế mà có giá trị cao hơn, vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, quốc gia Đại Hán. Hơn nữa, các từ ngữ từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời,… liên tiếp nhau càng nhấn mạnh tới việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền ấy đã có từ rất lâu, cũng lâu như thể sự tồn tại của đế cường phương bắc vậy. Bởi thế, bản đại cáo mở màn với lời khẳng định đầy đanh thép, chắc chắn “không thể chối cãi” mà lịch sử đã từng xem xét, còn ghi.

Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy có được không phải do thiên định mà do nhân định. Chính nhân dân bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân cả nghìn năm. Vì thế đó là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả sáu trăm năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên một cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Đó chính là nền móng vững chãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta.

Bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được.

Vậy mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ quên ấy. Để hơn một lần ông khẳng định chắc chắn cuộc chiến này, sự đồng khởi này là xuất phát từ chính nghĩa. Dùng sức mạnh bạo lực của chính nghĩa để đập tan bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng giặc Minh năm xưa một lần nữa ghi thêm vào lịch sử điếu phạt đối với những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền, tham công nên thất bại, thích lớn phải tiêu vong.

Cũng bởi vậy sau bao gian khổ mà vinh quang, dân tộc đã đã đón được “trái ngọt”:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Giọng thơ có phần thư thái nhưng vẫn vút cao, vang dội. Vững bền, đổi mới, vững chắc… là những lời tuyên bố đầy hào sảng trong hân hoan, sung sướng. Quy luật của cuộc đời là vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng chắc chắn trải qua được quy luật ấy là sự nỗ lực của cả dân tộc bao đời để giữ vững nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức mạnh vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn không quên ơn nhờ có sự giúp sức, phù trợ của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới có kết quả thắng lợi to lớn như vậy. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi vậy mới nói, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy.

Trước tác của Bình Ngô đại cáo vốn là một văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đó là một áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở giá trị nào cũng không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc lớn lao ấy của nó một lần nữa khẳng định đây là một bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc muôn dân và khát vọng hòa bình của toàn nhân loại.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 3

Đất nước Việt Nam chúng ta sau bao thăng trầm lịch sử tất không thể thiếu cho mình những bản tuyên ngôn độc lập. “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt, và trước “Tuyên ngôn độc lập” – Hồ Chí Minh.

Nguyễn Trãi là một người văn võ toàn tài, từng làm quan dưới triều nhà Hồ. Sau đó, ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vua Lê Lợi. Ông được xem là một nhà văn hóa lớn, với những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn học cũng như tư tưởng Việt Nam. Ông còn được công nhận là danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới. Vào năm 1428, sau cuộc chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô”.

Đầu tiên, tại sao lại nói “Đại cáo Bình Ngô” là một bản tuyên ngôn độc lập? Thế, tuyên ngôn độc lập là gì? Tiêu chuẩn để được xem là một bản tuyên ngôn độc lập thì đầu tiên tác phẩm đó phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Ta có thể thấy “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên – được viết trong cuộc chiến chống Tống. Còn “Tuyên ngôn độc lập” thì được chủ tịch Hồ Chí Minh viết sau chiến thắng giặc Pháp năm 1945. Tương tự, “Đại cáo bình Ngô” là được viết sau chiến thắng quân Minh. Nội dung của một bản tuyên ngôn độc lập phải bao gồm ba phần: khẳng định dân tộc, tuyên bố thắng lợi, tuyên bố hòa bình. Không nhất thiết phải đọc kĩ, ai cũng có thể thấy rằng bài cáo đã chứa đủ cả ba điều kiện trên. Dáng dấp tuyên ngôn độc lập được thể hiện rõ nét nhất là qua đoạn đầu của “Đại cáo bình Ngô”.

Ngay từ những câu đầu tiên, “Đại cáo bình Ngô” đã khẳng định tính hiển nhiên của nền văn hiến nước nhà. Các cụm từ “từ trước”, “vốn” nhấn mạnh tính lâu đời của dân tộc. Tiếp nối là “đã chia”, “phong tục… cũng khác” như vạch rõ ranh giới khác biệt của bờ cõi hai nước, không thể nhầm lẫn. Tất cả như khẳng định lại tính hiển nhiên, vốn có, sự lâu đời của nền độc lập nước ta. Sau đó, Nguyễn Trãi đã điểm danh các triều đại của nước ta “Triệu, Đinh, Lí, Trần” song song với các triều ở phương bắc “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách dùng từ “xưng đế một phương” như chỉ sự ngang hàng, không thua kém dù chúng ta chỉ là một nước nhỏ. Từ xưa, khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước xung quanh chỉ có thể xưng vương. Tuy nhiên, từ đời nhà Ngô, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế, nhấn mạnh sự ngang hàng của hai nước. Biện pháp liệt kê cũng như câu đối của tác giả càng khiến chúng ta cảm nhận được rõ hơn tầm vóc của cả hai nước. Trong bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện sự tự tôn, tự hào dân tộc: “hào kiệt đời nào cũng có”. Nghệ thuật liệt kê lại được vận dụng để nhấn mạnh sự thất bại của kẻ thù : “Lưu Cung… thất bại”, “Triệu Tiết … tiêu vong”, “bắt sống Toa Đô”, “giết tươi Ô Mã”, nhấn mạnh chủ quyền dân tộc. Ở cuối đoạn, “chứng cớ còn ghi” như lần nữa nhấn mạnh lại nền độc lập dân tộc, như chỉ rằng chứng cớ ghi rõ, chối cũng không được.

Ta có thể nói “Đại cáo bình Ngô” là một bản nâng cấp của “Nam quốc sơn hà” làm hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn độc lập ngắn gọn đầu tiên của nước ta. Trong khi Lý Thường Kiệt chỉ dùng bốn câu ngắn ngủi để nhấn mạnh độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã có một bài cáo dài để lấp đi tất cả các khuyết điểm của Lý Thường Kiệt. Thay vì chỉ nói đơn giản “nam đế cư”, Nguyễn Trãi đã liệt kệ rõ các triều đại Việt Nam trước đó, làm rõ thêm cho chữ “đế” của Lý Thường Kiệt. “Định phận tại thiên thư”, sách trời thì quá xa vời với con người, dù biết trời cao đại diện cho sự đúng đắn và chính trực, tuy nhiên không ai có thể thấy, nhưng bài cáo lại lần nữa làm rõ khi nói “chứng cớ còn ghi”, tức ai nếu tìm hiểu đều sẽ thấy, không phải thứ bí ẩn bị che giấu gì. Tất cả như tăng thêm tính thuyết phục cho người đọc khi đề cập tới tính sở hữu lãnh thổ Việt Nam. Không như Lý Thường Kiệt chỉ buông một lời hăm dọa “lai xâm phạm… thủ bại hư”, “Đại cáo bình Ngô” đã hóa thực lời hăm dọa đó khi kể tên các chiến công lẫy lừng của nhân dân ta trong lịch sử chống và giết giặc. Nhấn mạnh tính chủ quyền cũng như cho mọi người cùng rõ đó không phải là một lời nói suông. Từ đó, “Đại cáo bình Ngô” trở thành bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, làm hoàn thiện hơn phiên bản đầu tiên.

Văn mẫu 5.pdf (ảnh 2)

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu  4

Nếu như bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt vang vọng trên tuyến sông Như Nguyệt được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam thì bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Sở dĩ gọi bài cáo “Bình Ngô đại cáo” là bản tuyên ngôn độc lập bởi vì Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập của nước nhà.

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vang lên như một khúc tráng ca bất diệt, ca ngợi chiến thắng hiển hách, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc ta. Với giọng thơ hào hùng, dứt khoát, giống như lời khẳng định chắc nịch “Nước Nam là của nhân dân Việt Nam”.

Ngay từ đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã dõng dạc vang lên:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tại sao Nguyễn Trãi lại dùng từ “như nước Đại Việt ta từ trước” là bởi vì trước đây Lý Thường Kiệt đã khẳng định:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời.

Tuy nhiên việc khẳng định về chủ quyền lãnh thổ của Nguyễn Trãi hoàn toàn khác so với Lý Thường Kiệt. Nếu Lý Thường Kiệt xem việc khẳng định chủ quyền là do trời định, còn Nguyễn Trãi lại dựa vào nhân định. Đây là hai tư tưởng khác nhau giữa hai thời đại khác nhau. Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh thêm, để có được độc lập, nhân dân ta đã phải đánh đổi rất nhiều máu và nước mắt. Đó chính là sự cống hiến của bao nhiêu thế hệ mới có được, không phải do trời ban, cũng không phải tự nhiên mà có:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Như vậy chủ quyền của Việt Nam, độc lập của Việt Nam có được vững bền là nhờ sự cống hiến của nhân dân, của sự đồng cam cộng khổ suốt mấy nghìn năm từ khi dựng nước đến giờ. Trung Quốc tuy lớn mạnh với những thời đại đã làm nên lịch sử vang dội, gây nhiều sóng gió nhưng Việt Nam vẫn luôn giữ vững ý chí, vẫn luôn cống hiến không ngừng nghỉ. Tuy là nước bé nhưng ý chí và nghị lực không hề bé. Đây chính là một tinh thần cần phải học tập và phát huy ngay cả trong thời bình. Độc lập chủ quyền mà dân tộc ta giành được nhờ vào sự đoàn kết toàn dân, vào phong tục, tập quán… Đây chính là lời khẳng định hùng hồn của Nguyễn Trãi: Bình ngô đại cáo.

Vì tất thảy những lẽ đó mà Nguyễn Trãi đã hô lên vang dội:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Kiền khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Mặc dù lời thơ chùng xuống nhưng vẫn có sức nặng, sức vang dội đối với người đọc. Dân tộc ta đã phải đánh đổi rất nhiều thứ, đã phải gồng mình chịu đựng sự xâm lược của bọn đế quốc, thực dân phong kiến. Kết quả của sự cố gắng đó chính là sự “vững bền”, “đổi mới” giang sơn. Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh to lớn, bao la của vũ trụ “càn khôn” và “nhật nguyệt” để nói lên sự trường tồn, thái bình, thịnh vượng của một quốc gia.

Nguyễn Trãi không tự cao vì những chiến công đó, ông còn khẳng định rằng sở dĩ đất nước được thịnh vượng, độc lập là do nhân dân ta luôn biết ơn tổ tiên đi trước:

Âu cũng nhờ trời đất, tổ tông khôn thiêng

Ngầm giúp đỡ mới được như vậy

Chúng ta nhận thấy một sự khiêm tốn rất tinh tế. Độc lập, chủ quyền của đất nước ta có được là nhờ cha ông, tổ tiên ở trên trời linh thiêng giúp đỡ, tạo ban phước lành. Đây chính là đạo lý uống nước nhớ nguồn, một truyền thống rất sâu sắc của đất nước ta từ bao nhiêu đời nay.

Với những lý trên “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi thực sự là bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền dân tộc và sự thái bình thịnh vượng đáng được hưởng của một quốc gia.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 5

   Đại cáo Bình ngô không chỉ là một áng văn nghị luận đanh thép, tố cáo tội ác kẻ thù, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc ta mà đây còn là một bản tuyên ngôn độc lập. Bình ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, sau Nam quốc sơn hà và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác phẩm là áng văn yêu nước sâu sắc, nồng nàn.

    Sau hai câu thơ mở đầu khẳng định nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những lập luận hết sức đanh thép để khẳng định chủ quyền dân tộc, đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tính chất của bản tuyên ngôn độc lập trong tác phẩm:

    Như nước Đại Việt là từ trước

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

    Núi sông bờ cõi đã chia

    Phong tục Bắc Nam cũng khác

    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

    Song hào kiệt đời nào cũng có

    “Từ trước” – chỉ với từ này thôi nhưng Nguyễn Trãi đã khẳng định toàn bộ sự độc lập vốn có của dân tộc ta là tồn tại bền vững lâu đời, hàng nghìn năm nay và không điều gì có thể chối bỏ được. Câu thơ thứ hai ông khẳng định nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Văn tức là sách vở, hiến tức là người hiền tài. Câu thơ nguyên văn chữ Hán “Thực vi văn hiến chi bang” (Thực sự là một nước văn hiến). Chữ thực tức là sự thật, cái hiển nhiên, không cần phải xưng (tự nhận) đã khẳng định nền văn hiến, vốn tri thức sách vở cũng như người hiền tài của dân tộc ta. Bằng biện pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã cho thấy sự tồn tại song song các triều đại của hai đất nước. Trong hai câu thơ này ta cần đặc biệt chú ý đến chữ “đế”. Đế được hiểu là người có địa vị tối cao, đế chỉ có một, còn vương, vua thì có nhiều. Vì vậy, khi Nguyễn Trãi sử dụng từ đế thay cho từ vương đã cho thấy ý thức bình đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất. Lí Thường Kiệt mới chỉ ra hai yếu tố để khẳng định độc lập là chủ quyền riêng và cương vực lãnh thổ riêng: Nam quốc sơn hà nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Dựa trên căn cứ là sách trời, có phần nào đó mơ hồ. Còn Nguyễn Trãi đưa thêm ba yếu tố, chủ quyền và cương vực chỉ mang tính nhất thời, bất kì ai có sức mạnh cũng có thể có một mảnh đất, xưng vua nhưng phong tục tập quán, văn hiến, truyền thống lịch sử thì không thể đơn giản mà có. Chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định là một nước độc lập.

    Ngoài ra, bản tuyên ngôn cũng được thể hiện qua đoạn thơ cuối tác phẩm, là lời bố cáo với toàn thiên hạ về chiến thắng của dân tộc ta, khai mở một kỉ nguyên mới, một triều đại mới: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh/ Muôn thuở thái bình vững chắc/ Nghìn thu vết nhục sạch làu. Tác phẩm kết thúc bằng những đúc kết từ tự nhiên, qua đó Nguyễn Trãi cũng khẳng định, thể hiện niềm tin tưởng vào vận mệnh mới của đất nước.

    Để bản tuyên ngôn thêm phần đanh thép ta còn phải kể đến sự đóng góp trên phương diện nghệ thuật. Nguyễn Trãi vận dụng câu văn biền ngẫu tài tình, mang tính sóng đôi, kết hợp biện pháp so sánh cho thấy sự ngang hàng của ta với Trung Quốc về mọi mặt nhằm khẳng định vị thế dân tộc. Sử dụng các từ đắt, mang tính khẳng định: vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… nhằm khẳng định độc lập của Đại Việt, đó là những cơ sở đã có từ lâu đời, không thể chối cãi. Ngoài ra, ông còn sử dụng biện pháp liệt kê: các yếu tố hình thành quốc gia, dân tộc (truyền thống văn hiến, lãnh thổ, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…) nhằm tạo cơ sở vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.

    Bằng giọng văn hùng hồn, dõng dạc, đanh thép, lập luận chặt chẽ Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Đây là một bước tiến dài so với bản tuyên ngôn trước đó. Đồng thời đoạn thơ cũng là cơ sở để tác giả chuẩn bị triển khai các phần tiếp theo.

Top 50 Bài văn Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập hay nhất (ảnh 3)

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 6

    Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn siêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt; hay đến thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào cho là “khai hóa, mẫu quốc” An Nam sau khi nghe những lời dõng dạc của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, sao chúng ta quên được áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã vút cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước mãi còn ghi nhắc đến muôn đời. Cho mãi đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc mình.

    Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì trước hết tác phẩm ấy phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên ngôn bao giờ cũng có ba nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng lợi; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn ấy, Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ. Sau chiến thắng giặc Minh, vào mùa xuân năm 1428, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo nền độc lập dân tộc, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau hai mươi năm ròng rã ách đô hộ và chiến tranh. Vì thế khúc tráng ca bất diệt ấy lại trở thành một khúc khải hoàn về một kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.

    Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình Ngô đại cáo đã mở màn với những lời khằng định “Đại Việt là đất nước của chúng ta”:

    Như nước Đại Việt ta từ trước

    …

    Song hào kiệt đời nào cũng có.

    Với thủ pháp liệt kê qua hàng loạt các yếu tố như: nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt đã xác lập một cách trọn vẹn về nền độc lập của nước nhà. Còn nhớ trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ thể chứ không mơ hồ. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lâp chủ quyền này ở chỗ, nhà văn chính luận kiệt xuất ấy đem đặt trong thế so sánh giữa hai quốc gia Đại Việt với Đại Hán. Không xét đến các yếu tố lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà xét theo việc có hay không, thì cả năm yếu tố nhà văn chỉ ra hai đất nước, hai dân tộc đều tương xứng. Cách khẳng định chân lý độc lập vì thế mà có giá trị cao hơn, vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, quốc gia Đại Hán. Hơn nữa, các từ ngữ từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác,bao đời,… liên tiếp nhau càng nhấn mạnh tới việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền ấy đã có từ rất lâu, cũng lâu như thể sự tồn tại của đế cường phương bắc vậy. Bởi thế, bản đại cáo mở màn với lời khẳng định đầy đanh thép, chắc chắn “không thể chối cãi” mà lịch sử đã từng xem xét, còn ghi.

    Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy có được không phải do thiên định mà do nhân định. Chính nhân dân bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân cả nghìn năm. Vì thế đó là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả sáu trăm năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên một cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Đó chính là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta.

    Bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn:

    Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

    Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

    Lẽ nào trời đất dung tha,

    Ai bản thần nhân chịu được.

    Vậy mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:

    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

    Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ quên ấy. Để hơn một lần ông khẳng định chắc chắn cuộc chiến này, sự đồng khởi này là xuất phát từ chính nghĩa. Dùng sức mạnh bạo lực của chính nghĩa để đập tan bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng giặc Minh năm xưa một lần nữa ghi thêm vào lịch sử điếu phạt đối với những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền, tham công nên thất bại, thích lớn phải tiêu vong.

    Cũng bởi vậy sau bao gian khổ mà vinh quang, dân tộc đã đã đón được “trái ngọt”:

    Xã tắc từ đây vững bền,

    Giang sơn từ đây đổi mới.

    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

    Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu.

    Giọng thơ có phần thư thái nhưng vẫn vút cao, vang dội. Vững bền, đổi mới, vững chắc… là những lời tuyên bố đầy hào sảng trong hân hoan, sung sướng. Quy luật của cuộc đời là vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng chắc chắn trải qua được quy luật ấy là sự nỗ lực của cả dân tộc bao đời để giữ vững nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức mạnh vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn không quên ơn nhờ có sự giúp sức, phù trợ của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới có kết quả thắng lợi to lớn như vậy. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi vậy mới nói, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy.

    Trước tác của Binh Ngô đại cáo vốn là một văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đó là một áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở giá trị nào cũng không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc lớn lao ấy của nó một lần nữa khẳng định đây là một bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc muôn dân và khát vọng hòa bình của toàn nhân loại.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 7

Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn xiêu phách lạc lúc nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc giang sơn vang lên bên bến sông Như Nguyệt; hay tới thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào cho là “khai hóa, nước mẹ” An Nam sau lúc nghe những lời dõng dạc của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, sao chúng ta quên được áng “thiên cổ hùng văn”Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau thắng lợi giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã vút cao ý thức độc lập dân tộc, ý thức yêu nước mãi còn ghi đề cập muôn thuở. Cho mãi tới hiện nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là 1 bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc mình.

1 tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì đầu tiên tác phẩm đó phải viết trong hoặc sau 1 trận đánh. Nội dung của bản tuyên ngôn bao giờ cũng có 3 nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố chiến thắng; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn đó, Bình Ngô đại cáo phục vụ đầy đủ. Sau thắng lợi giặc Minh, vào mùa xuân 5 1428, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để công bố nền độc lập dân tộc, thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau 2 mươi 5 ròng rã ách đô hộ và chiến tranh. Vì vậy khúc tráng ca bất tử đó lại biến thành 1 khúc khải hoàn về 1 kỉ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.

Bằng lối văn biền ngẫu ăn nhịp, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình Ngô đại cáo đã mở đầu với những lời khẳng định “Đại Việt là tổ quốc của chúng ta”:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song anh kiệt có lẽ nào cũng có.

Với thủ pháp liệt kê qua hàng loạt các nhân tố như: nền văn hiến, sông núi cương vực, phong tục, lịch sử và anh kiệt đã xác lập 1 cách toàn vẹn về nền độc lập của giang sơn. Còn nhớ trong Nam quốc giang sơn, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định bằng 1 bình diện đấy là cương vực, mà lại ở sách trời. Tới Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều bình diện rất chi tiết chứ ko mơ hồ. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lập chủ quyền này ở chỗ, nhà văn chính luận kiệt xuất đó đem đặt trong thế so sánh giữa 2 non sông Đại Việt với Đại Hán. Không xét tới các nhân tố bự hay bé, mạnh hay yếu, nhưng mà xét theo việc có hay ko, thì cả 5 nhân tố nhà văn chỉ ra 2 tổ quốc, 2 dân tộc đều tương hợp. Cách khẳng định chân lý độc lập vì vậy nhưng mà có trị giá cao hơn, vừa cứng cáp vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, non sông Đại Hán. Hơn nữa, các từ ngữ từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời,… liên tục nhau càng nhấn mạnh đến việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền đó đã có từ rất lâu, cũng lâu như thể sự còn đó của đế cường phương bắc vậy. Do đó, bản đại cáo mở đầu với lời khẳng định đầy sắt đá, cứng cáp “chẳng thể chối cãi” nhưng mà lịch sử đã từng phê duyệt, còn ghi.

Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận 1 chân lý độc lập đầy ý thức nhơn nghĩa. Độc lập đó có được không hề do thiên định nhưng mà do nhân định. Chính quần chúng bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao lăm mồ hôi, nước mắt của quần chúng cả ngàn 5. Vì vậy đấy là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả 6 trăm 5 lúc tổ quốc độc lập tự chủ, lần trước tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên 1 cách dõng dạc, khí thế, kiêu hãnh tới vậy. Ấy chính là nền tảng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp diễn lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta.

Bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã sắt đá kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt 2 mươi 5 trời. Từ thủ đoạn hiểm độc tới những hành động man di, bạo tàn, trắng trợn nhưng mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hận, uất nghẹn:

Ác nghiệt thay trúc Nam Sơn ko ghi hết tội,
Bẩn thỉu thay nước Đông Hải ko rửa sạch mùi.
Có lẽ nào trời đất dung thứ,
Ai bản thần nhân chịu được.
Vậy nhưng mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:
Nhân dân 4 cõi 1 nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới;
Tướng sĩ 1 lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Cả bản đại cáo là bài tráng ca, người hùng ca về những chiến công hiển hách, quang vinh nhưng mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới mang đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao lăm 5 để tự mình viết lên những phút giây lịch sử chẳng bao giờ quên đó. Để hơn 1 lần ông khẳng định cứng cáp trận đánh này, sự đồng khởi này là khởi hành từ chính nghĩa. Dùng sức táo tợn lực của chính nghĩa để đập tan bạo lực phi chính nghĩa. Chiến thắng giặc Minh 5 xưa 1 lần nữa ghi thêm vào lịch sử điếu phạt đối với những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền, tham công nên thất bại, thích bự phải bại vong.

Cũng bởi thế sau bao khó khăn nhưng mà quang vinh, dân tộc đã đã đón được “trái ngọt”:

Xã tắc từ đây bền vững,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái hoà chắc chắn,
Ngàn thu vết điếm nhục sạch lầu.

Giọng thơ có phần dễ chịu mà vẫn vút cao, vang danh. Bền vững, đổi mới, chắc chắn… là những lời tuyên bố đầy hào sảng trong hoan hỉ, phấn kích. Quy luật của cuộc đời là vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, mà cứng cáp trải qua được quy luật đó là sự phấn đấu của cả dân tộc bao đời để giữ vững nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, sơn hà, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ bự có sức mạnh vũ trụ, chừng như mới đủ đo được cảnh thái hoà. Chân lý độc lập cứ thế nhưng mà vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn ko quên ơn nhờ có sự hỗ trợ, phù hộ của trời đất tiên tổ linh thiêng ngầm hỗ trợ mới có kết quả chiến thắng mập bự tương tự. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi thế mới nói, tác giả của bài cáo ko chỉ tài năng trác tuyệt nhưng mà đức độ cũng vô bờ. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân bản, truyền thống đạo lý cội rễ tương tự.

Trước tác của Bình Ngô đại cáo vốn là 1 văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đấy là 1 áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở trị giá nào cũng chẳng thể phủ nhận những đóng góp bự lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc bự lao đó của nó 1 lần nữa khẳng định đây là 1 bản tuyên ngôn độc lập đầy kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam, trình bày lòng yêu nước thâm thúy muôn dân và khát vọng hòa bình của toàn loài người.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 8

Nhà phê bình văn chương Hoài Thanh từng thẩm định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại nhưng mà nó có mặt trên thị trường”. Những tuyệt tác văn chương có mặt trên thị trường ko chỉ mang trong mình ý nghĩa văn học nhưng mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. “Đại cáo Bình Ngô” chính là 1 tuyệt tác như thế. Không những là áng “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi, “Đại cáo Bình Ngô” còn có ý nghĩa như 1 bản tuyên ngôn độc lập.

Tuyên ngôn độc lập được hiểu là văn bản dùng để tuyên bố, khẳng định nền độc lập, chủ quyền của 1 non sông, đặc trưng là sau lúc non sông đó vừa giành thắng lợi trong cuộc chống sự xâm lăng của ngoại quốc. Vì sao có thể khẳng định Đại cáo Bình Ngô là 1 bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện trước tiên để 1 tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập là cảnh ngộ có mặt trên thị trường phải là trong hoặc sau 1 trận đánh. Cùng lúc bảo đảm nhân tố khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố chiến thắng và tuyên bố hòa bình. Viện dẫn và phép tắc phải sắc bén, hùng hồn và hoàn toàn chính xác.

Đại cáo Bình Ngô phục vụ đủ được những đề xuất trên. Trước hết, về cảnh ngộ có mặt trên thị trường. Tác phẩm có mặt trên thị trường gắn với mốc lịch sử hết sức trọng đại của dân tộc. Mùa xuân 5 1428, sau thắng lợi giặc Minh, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để công bố đến toàn bộ quần chúng về thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ròng rã 2 mươi 5 chiến tranh khốc liệt và ách đô hộ của quân giặc, chúng ta đã thắng lợi và giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại nền hòa bình. Đại cáo Bình Ngô lúc đó chính là khúc khải hoàn ca, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do, biến thành khúc tráng ca của lịch sử.

Về nội dung, bài cáo là lời khẳng định sắt đá về độc lập chủ quyền, về thắng lợi Lam Sơn hào hùng và nền hòa bình dân tộc. Ngay từ những câu thơ mở màn, Nguyễn Trãi đã nêu cao tư tưởng nhơn nghĩa. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài cáo, cũng là sự khẳng định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng:

“Việc nhơn nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Theo tư tưởng Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân tức là yên dân, là làm sao cho quần chúng có được no ấm, yên ổn và hạnh phúc. Để làm được việc này, trong cảnh ngộ giặc ngoại xâm đô hộ thì phải trừ bạo. Chi tiết trong cảnh ngộ tổ quốc khi bấy giờ là loại bỏ giặc Minh xâm lăng. Làm được cả 2 việc đó mới là nhơn nghĩa chân chính. Độc lập dân tộc có được dựa dẫm rất bự vào quần chúng. Nhân dân là người bao đời phấn đấu gây dựng và bảo vệ nền độc lập. Hàng ngàn 5 mồ hôi rơi, xương máu đổ, đồng cam cộng khổ mới hình thành độc lập dân tộc.

Nguyễn Trãi nêu lên 1 tư tưởng đầy nhân bản để từ đấy, đi tới khẳng định chân lý độc lập của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sông núi cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế 1 phương
Tuy mạnh yếu từng khi không giống nhau,
Song anh kiệt có lẽ nào cũng có”

Bằng giọng điệu hào hùng, khí thế, Nguyễn Trãi liên tục liệt kê hàng loạt nhân tố để xác lập toàn vẹn nền độc lập dân tộc. Ấy là “nền văn hiến”, “sông núi cương vực”, “phong tục”, “lịch sử” và “anh kiệt”. Giả dụ trong “Nam Quốc Sơn Hà”, Lý Thường Kiệt đưa ra bình diện cương vực ở sách trời. Thì ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi lại chọn lựa những bình diện chi tiết và có chứng cớ lịch sử chẳng thể chối cãi. Các cụm từ “từ trước”, “vốn “, “đã lâu”, “đã chia”, “bao đời”, “cũng khác” liên tục dập dồn nhấn mạnh tầm vóc lịch sử lâu đời của dân tộc Đại Việt. Nền độc lập và chủ quyền của dân tộc đã còn đó từ rất lâu, hoàn toàn rành mạch và dị biệt, chẳng thể lầm lẫn với bất cứ non sông nào khác.

Kế bên đấy, Nguyễn Trãi cũng điểm danh 1 loạt các triều đại của nước ta “Triệu, Đinh, Lý, Trần” song song với các triều đại phương bắc như “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Lịch sử đánh dấu, lúc Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước bao quanh chỉ có thể xưng vương. Thế mà, từ đời nhà Ngô nước ta, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế. “Mỗi bên xưng đế 1 phương”, dân tộc ta đứng ngang hàng, không phải kém cạnh.

Với những nhân tố đấy, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân tộc. Đại cáo Bình Ngô vì lẽ đấy mở đầu đầy sắt đá.

Nền độc lập dân tộc với phép tắc và chứng dẫn chính xác, trở thành hết sức thiêng liêng và “bất khả xâm phạm”. Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và kiêu hãnh. Cùng lúc cũng biến thành cơ sở pháp lý để Nguyễn Trãi lên án những kẻ bạo ngược đã cả gan xâm phạm chủ quyền nước ta:

“Ác nghiệt thay trúc Nam Sơn ko ghi hết tội,
Bẩn thỉu thay nước Đông Hải ko rửa sạch mùi.
Có lẽ nào trời đất dung thứ,
Ai bản thần nhân chịu được.”

“Đại cáo Bình Ngô” đã phơi bày toàn thể tội ác của giặc Minh xâm lăng. Suốt 2 mươi 5 trời, quần chúng ta sống trong lầm than, âu sầu bởi những thủ đoạn tàn độc, những hành động man di, trắng trợn vô nhân tính. Kể bao lăm cũng ko hết tội ác tày đình.

Nguyễn Trãi hùng hồn cáo giác tội ác của giặc Minh hình thành 1 bản án sắt đá với kẻ địch. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi chính nghĩa, trận đánh của ta là chính nghĩa, gây ra sự đồng cảm và tăng tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài 3 của dân tộc viết lên những điều đấy trong căm hận, uất nghẹn trào dâng, khiến lòng người sôi sục căm phẫn.

Thế mà, đau thương vẫn ko cản bước được dân tộc người hùng. Cả dân tộc đồng lòng, chung tay cùng đứng dậy, làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

“Nhân dân 4 cõi 1 nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới;
Tướng sĩ 1 lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”

Dù quá trình đầu có nhiều gieo neo song rốt cuộc chiến thắng vẫn thuộc về dân tộc ta. Tuyên bố về chiến thắng, bài cáo đã trình bày niềm kiêu hãnh, tự trọng dân tộc hết sức thâm thúy. Cùng lúc cũng nêu cao tính chính nghĩa của trận đánh này. Chiến thắng giặc Minh 5 đó chính là sự trừng trị thấu tình đạt lý những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền dân tộc ta.

Khép lại bản “tuyên ngôn”, Đại cáo Bình Ngô đi tới sự tuyên bố về nền hòa bình dân tộc:

“Xã tắc từ đây bền vững,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái hoà chắc chắn,
Ngàn thu vết điếm nhục sạch lầu”

Ấy là “trái ngọt hoa thơm” của cuộc tranh đấu đầy gieo neo, khó khăn. Từng câu từng chữ vút cao, vang danh, tuyên bố nền hòa bình “bền vững, đổi mới, chắc chắn”. Hình ảnh “xã tắc, sơn hà, kiền khôn, nhật nguyệt” giống như tái tạo quang cảnh thái hoà tuyệt đẹp. Đặc trưng trong đấy còn chứa đựng sự hàm ân “trời đất tổ tông linh thiêng ngầm giúp” và đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Kế bên nhân tố về nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn được coi là bản tuyên ngôn độc lập về góc cạnh nghệ thuật. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, sắt đá đầy thuyết phục. Đi từ cơ sở lý luận của tư tưởng nhơn nghĩa và chân lý về độc lập chủ quyền, tới sự phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố nền hòa bình. Lí lẽ sắc bén, chứng dẫn thuyết phục liên kết với giọng điệu hào hùng, sắt đá, hùng tráng. Các giải pháp nghệ thuật khôn khéo cùng những câu văn dài ngắn, biến hóa linh động. Bài cáo đã khẳng định độc lập chủ quyền, thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Cùng lúc cũng nêu cao ý thức yêu nước cùng tầm vóc tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.

Với những thành công đấy, Đại cáo Bình Ngô chính là bản tuyên ngôn mang nhiều trị giá thâm thúy của dân tộc. Trcửa ải qua nhiều 5, nó vẫn lừng lững chỗ đứng trong nền văn chương nói riêng, trong lịch sử Việt Nam khái quát. Để mỗi lần bài cáo vang lên, quần chúng Việt Nam lại nghe trong trái tim mình ngôn ngữ của Đất nước.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 9

Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn xiêu phách lạc lúc nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc giang sơn vang lên bên bến sông Như Nguyệt; hay tới thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào cho là “khai hóa, nước mẹ” An Nam sau lúc nghe những lời dõng dạc của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, sao chúng ta quên được áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau thắng lợi giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã vút cao ý thức độc lập dân tộc, ý thức yêu nước mãi còn ghi đề cập muôn thuở. Cho mãi tới hiện nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là 1 bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc mình.

1 tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì đầu tiên tác phẩm đó phải viết trong hoặc sau 1 trận đánh. Nội dung của bản tuyên ngôn bao giờ cũng có 3 nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố chiến thắng; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn đó, Bình Ngô đại cáo phục vụ đầy đủ. Sau thắng lợi giặc Minh, vào mùa xuân 5 1428, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để công bố nền độc lập dân tộc, thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau 2 mươi 5 ròng rã ách đô hộ và chiến tranh. Vì vậy khúc tráng ca bất tử đó lại biến thành 1 khúc khải hoàn về 1 kỉ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.

Bằng lối văn biền ngẫu ăn nhịp, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình Ngô đại cáo đã mở đầu với những lời khẳng định “Đại Việt là tổ quốc của chúng ta”:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song anh kiệt có lẽ nào cũng có.

Với thủ pháp liệt kê qua hàng loạt các nhân tố như: nền văn hiến, sông núi cương vực, phong tục, lịch sử và anh kiệt đã xác lập 1 cách toàn vẹn về nền độc lập của giang sơn. Còn nhớ trong Nam quốc giang sơn, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định bằng 1 bình diện đấy là cương vực, mà lại ở sách trời. Tới Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều bình diện rất chi tiết chứ ko mơ hồ. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lập chủ quyền này ở chỗ, nhà văn chính luận kiệt xuất đó đem đặt trong thế so sánh giữa 2 non sông Đại Việt với Đại Hán. Không xét tới các nhân tố bự hay bé, mạnh hay yếu, nhưng mà xét theo việc có hay ko, thì cả 5 nhân tố nhà văn chỉ ra 2 tổ quốc, 2 dân tộc đều tương hợp. Cách khẳng định chân lý độc lập vì vậy nhưng mà có trị giá cao hơn, vừa cứng cáp vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, non sông Đại Hán. Hơn nữa, các từ ngữ từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác,bao đời,… liên tục nhau càng nhấn mạnh đến việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền đó đã có từ rất lâu, cũng lâu như thể sự còn đó của đế cường phương bắc vậy. Do đó, bản đại cáo mở đầu với lời khẳng định đầy sắt đá, cứng cáp “chẳng thể chối cãi” nhưng mà lịch sử đã từng phê duyệt, còn ghi.

Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận 1 chân lý độc lập đầy ý thức nhơn nghĩa. Độc lập đó có được không hề do thiên định nhưng mà do nhân định. Chính quần chúng bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao lăm mồ hôi, nước mắt của quần chúng cả ngàn 5. Vì vậy đấy là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả 6 trăm 5 lúc tổ quốc độc lập tự chủ, lần trước tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên 1 cách dõng dạc, khí thế, kiêu hãnh tới vậy. Ấy chính là nền tảng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp diễn lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta.

Bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã sắt đá kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt 2 mươi 5 trời. Từ thủ đoạn hiểm độc tới những hành động man di, bạo tàn, trắng trợn nhưng mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hận, uất nghẹn:

Ác nghiệt thay trúc Nam Sơn ko ghi hết tội,
Bẩn thỉu thay nước Đông Hải ko rửa sạch mùi.
Có lẽ nào trời đất dung thứ,
Ai bản thần nhân chịu được.

Vậy nhưng mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:

Nhân dân 4 cõi 1 nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới;
Tướng sĩ 1 lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Cả bản đại cáo là bài tráng ca, người hùng ca về những chiến công hiển hách, quang vinh nhưng mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới mang đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao lăm 5 để tự mình viết lên những phút giây lịch sử chẳng bao giờ quên đó. Để hơn 1 lần ông khẳng định cứng cáp trận đánh này, sự đồng khởi này là khởi hành từ chính nghĩa. Dùng sức táo tợn lực của chính nghĩa để đập tan bạo lực phi chính nghĩa. Chiến thắng giặc Minh 5 xưa 1 lần nữa ghi thêm vào lịch sử điếu phạt đối với những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền, tham công nên thất bại, thích bự phải bại vong.

Cũng bởi thế sau bao khó khăn nhưng mà quang vinh, dân tộc đã đã đón được “trái ngọt”:

Xã tắc từ đây bền vững,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái hoà chắc chắn,
Ngàn thu vết điếm nhục sạch lầu.

Giọng thơ có phần dễ chịu mà vẫn vút cao, vang danh. Bền vững, đổi mới, chắc chắn… là những lời tuyên bố đầy hào sảng trong hoan hỉ, phấn kích. Quy luật của cuộc đời là vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, mà cứng cáp trải qua được quy luật đó là sự phấn đấu của cả dân tộc bao đời để giữ vững nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, sơn hà, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ bự có sức mạnh vũ trụ, chừng như mới đủ đo được cảnh thái hoà. Chân lý độc lập cứ thế nhưng mà vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn ko quên ơn nhờ có sự hỗ trợ, phù hộ của trời đất tiên tổ linh thiêng ngầm hỗ trợ mới có kết quả chiến thắng mập bự tương tự. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi thế mới nói, tác giả của bài cáo ko chỉ tài năng trác tuyệt nhưng mà đức độ cũng vô bờ. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân bản, truyền thống đạo lý cội rễ tương tự.

Trước tác của Bình Ngô đại cáo vốn là 1 văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đấy là 1 áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở trị giá nào cũng chẳng thể phủ nhận những đóng góp bự lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc bự lao đó của nó 1 lần nữa khẳng định đây là 1 bản tuyên ngôn độc lập đầy kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam, trình bày lòng yêu nước thâm thúy muôn dân và khát vọng hòa bình của toàn loài người.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 10

Nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, người ta nhớ ngay tới 1 văn kiện lịch sử, 1 khúc tráng ca khải hoàn của 1 tổ quốc đã trải qua những 2 mươi 5 đau khổ bởi ách đô hộ và chiến tranh chống giặc Minh. Tác phẩm là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí đánh giặc bất khuất của 1 dân tộc phải sống trong những tháng ngày đau thương, khổ nhục nhưng mà rất mực quang vinh. Thế mà bài cáo đó đã được nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi viết bằng nghệ thuật chính luận đỉnh cao, bậc thầy nhưng mà ít tác phẩm cùng thể loại ở thời trung đại có được. Để rồi Bình Ngô đại cáo xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn”.

Áng “thiên cổ hùng văn” nghĩa là áng văn hùng tráng được lưu truyền tới cả ngàn đời. Để có được danh xưng đó, cứng cáp yêu cầu ở đấy phải là 1 tác phẩm văn học tuyệt vời cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Cùng lúc cũng kể phải tới những trị giá lịch sử, tư tưởng lớn lao, có dấu ấn và ý nghĩa tới muôn thuở. Nhưng có nhẽ, 1 tác phẩm hay có thể lưu truyền tới được ngàn đời tương tự phải chạm tới được trái tim, xúc cảm của các lứa tuổi bao đời; phải có ý nghĩa tư tưởng bự lao thích hợp với mọi thời đại… Bình Ngô đại cáo là 1 áng văn bất hủ như thế.

Đã trải qua bao lăm 5, mà chắc hẳn dân tộc ta vẫn luôn kiêu hãnh lúc có 1 bản hùng văn nguy nga như Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc, khát vọng hòa bình, ý chí quật cường trên trục đường tranh đấu bảo vệ tổ quốc. Biết bao lăm xúc cảm nhưng mà Nguyễn Trãi đã để tràn lên ngòi bút. Có sự cương quyết, vững chãi trong lời mở đầu trước tiên:

Việc nhơn nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân huệ vốn là 1 tư tưởng đạo Nho, trình bày cách hành xử tốt đẹp giữa người với người, không hề lạ lẫm. Nhưng 4 chữ yên dân, trừ bạo Nguyễn Trãi đã nâng nó lên 1 tầm cao mới, biến thành 1 lý tưởng xã hội, 1 đạo lý dân tộc tới muôn thuở. Đâu có phải ở ngay thời khắc đó, giết thịt giặc Minh để trừ bạo ngược nhưng mà bất kỳ kẻ ngang tàng nào gây họa đều phải diệt trừ để quần chúng được sống yên ổn,, no ấm. Đó là nhơn nghĩa bắt nguồn từ “dân vi bản”. Cho nên, ngay ở khúc mở đầu này mới thấy có cả niềm kiêu dũng, hiên ngang lúc khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song anh kiệt có lẽ nào cũng có.

Khí chất tự chủ được toát lên từ sự so sánh đầy mới mẻ nhưng mà tiền lệ chưa từng có. Nó có trị giá hiển nhiên ở bất kỳ thời khắc nào, cho bất kỳ dân tộc nào. Nhưng vào khi đó, cách khẳng định chủ quyền với cường quốc bắc phương như thế là 1 đòn giáng chí mạng vào những kẻ đang thừa cơ gây họa đối với dân tộc ta.

Và còn có cả nỗi căm hận, uất nghẹn với tội ác tày đình của bè phái cướp nước và bán nước. Làm sao chúng ta có thể quên những cảnh tượng đầy ám ảnh:

Nướng thứ dân trên ngọn lửa hung ác
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Suốt 2 mươi 5 bại nhơn nghĩa, nát cả đất trời, từ con người thậm chí tới loài côn trùng cây cối cũng đều bị thảm sát thương tâm. Tội ác đó nước Đông Hải không rửa sạch mùi, trúc Nam Sơn ko ghi hết tội, muôn thuở chứng cứ còn ghi. Mỗi cảnh người, cảnh nhà, cảnh tổ quốc đều toang hoang dưới lưỡi lê của loài khát máu… Làm sao chúng ta quên? Nguyễn Trãi như chạm vào nỗi đau nhức nhói tới tận tim gan, xương tủy, nhưng mà hiển nhiên trông thấy biết bao kẻ địch, đâu chỉ giặc Minh trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước cũng đều mang chân tướng của những kẻ bạo tàn. Vì vậy nhưng mà 1 nỗi đau như làm trỗi dậy nhiều nỗi đau để rồi không được quên sứ mạng phải bảo vệ tổ quốc, đánh đuổi bè phái kia.

Hơn thế, có cả sự trằn trọc, lo lắng cho vận mệnh tổ quốc với tấm lòng ái quốc, thương dân ngập tràn. Không phải tình cờ Nguyễn Trãi dùng tới hơn 2 mươi câu văn để nói về chủ tướng Lê Lợi. 1 hình mẫu của bậc người hùng bước ra từ đời sống của quần chúng. Từ xuất thân tới cách xưng hô đều rất gần gụi, Lê Lợi đau nỗi đau dân tộc như dân mình, căm phẫn và nấu nung phấn đấu phục thù giặc như dân mình, khát vọng vượt qua mọi gieo neo, khó khăn để đánh giặc như dân mình. Từ thấu hiểu, thương mến tới hành động, vị lãnh tụ đó đã biến yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều, thông minh ra những cách đánh xuất kỳ, phục kích dần dần tiến tới những chiến thắng vang dội. Nhưng đọc Bình Ngô đại cáo cứng cáp người nào cũng biết, quân ta thắng đâu chỉ bởi có những thuận tiện trên, nhưng mà còn bởi quần chúng 4 cõi 1 nhà, tướng sĩ 1 lòng phụ tử và luôn nêu cao ý thức:

Đem đại nghĩa để thắng hung ác
Lấy chí nhân để thay hung bạo

Đại nghĩa, chí nhân – không hề là kim chỉ nam, là ánh sáng soi rọi cho dân tộc ta lập những chiến công oai hùng sau đó. Và muôn thuở sau tư tưởng này vẫn mãi mãi biến thành ngọn đuốc cho ý thức tranh đấu chính nghĩa của Đại Việt trước mọi kẻ địch.

Hay cả khí thế sôi sục, quyết liệt của những tháng ngày kháng chiến oai hùng. Có nhẽ chất hùng văn của bản đại cáo được trình bày rõ nhất ở đoạn tái tạo lại trang sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Liên tiếp những trận chiến, liên tục những đợt phản công của ta cũng là liên tục những lần thất bại của kẻ địch. Xuất phát từ xứ Nghệ, xứ Thanh rồi tới Đông Đô, Thăng Long, quang cảnh mặt trận đầy ác liệt sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội, sắc gió mây phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ. Ta cứ thế nhưng mà thừa thắng xông lên bẻ gãy từng họng kìm, ngăn chặn mọi ngả đường tiếp viện. Địch hiện lên hoàn toàn đối lập với khi xưa. Trước đấy thằng há mồm, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán vậy nhưng mà giờ nghe hơi nhưng mà bạt vía, nín thở cầu tháo thân, bêu đầu, thiệt mạng, khoanh tay để đợi diệt vong, trí cùng lực kiệt, thất thế, cụt đầu, chiến bại tử vong, cùng kế tự sát, lê gối dâng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hàng… Nguyễn Trãi đã tái tạo lại chừng như không bỏ sót, chân tướng kẻ địch hiện lên thật điếm nhục, thảm hại. Tuy nhiên điều tâm phục, khẩu phục trong thắng lợi của ta chính là ở trục đường hiếu sinh mở ra cho giặc. 1 lần nữa tư tưởng nhơn nghĩa sáng ngời lại phát huy. Biết ngừng đúng khi, không dồn kẻ địch tới bước đường cùng, đấy là đại nghĩa, chí nhân. Chiến thắng đó mới biến thành bất diệt, huyền thoại trong lịch sử giang sơn. Âm vang của 1 thuở oai hùng cũng vì vậy nhưng mà văng vẳng tới nghìn 5.

Cuối cùng xúc cảm vút lên thành lời ca đầy long trọng, hào sảng, hạnh phúc, vui sướng vì tổ quốc hoàn toàn độc lập, tự do. Giấc mơ về hòa bình nay đã biến thành hiện thực. Hẳn là người viết phải xúc động biết chừng nào!

Xã tắc từ nay bền vững,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh,
Muôn thuở nền thái hoà chắc chắn,
Ngàn thu vết điếm nhục sạch làu.

Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, mà vẫn phải khởi hành từ sự đồng sức, đồng lòng của quần chúng tướng sĩ, từ tài năng trác tuyệt của những bậc người hùng, từ nền móng trọng nhơn nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa đó có từ hàng trăm 5 trước và vẫn trở thành chắc chắn cho hàng trăm 5 về sau nhưng mà bài cáo như 1 lời nhắc nhở.

Đúng là Bình Ngô đại cáo, khúc khải hoàn ca, người hùng ca sáng chói cả 1 thời đã tụ hội biết bao lăm xúc cảm vậy như thể tiếng chuông ngân vang, đồng vọng từ dĩ vãng dội về, hướng chúng ta ở thời đại nào cũng thấy kiêu hãnh, tự hào. Nguyễn Trãi đã biến 1 văn kiện lịch sử mang tính khô khan, cứng nhắc, đầy chất sắc lệnh, biến thành 1 áng hùng văn đam mê, trong trắng và có trị giá tới ngàn đời.

Ngoài lòng nghĩa “thiên cổ hùng văn” của tác phẩm còn trình bày ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình, kiệt xuất của Nguyễn Trãi. Điều đáng nhớ của Đại cáo bình Ngô là đã đưa nghệ thuật viết văn chính luận trung đại đạt tới 1 trình độ mẫu mực, bậc thầy. Bản đại cáo hướng đến nhân vật là quần chúng bách tính Đại Việt để tuyên bố về nền độc lập sau thắng lợi giặc Minh. Tuy nhiên, chiến tranh không còn mà tính bút chiến của nó vẫn minh bạch. Nhà văn vẫn hướng 1 mực đến kẻ địch, đến thần thế cực cường nhưng mà bao đời nay luôn dòm ngó. Nền độc lập là quyền bất khả xâm phạm, không chỉ quân Lam Sơn đã bảo vệ thành công nhưng mà từ đời trước tới cả đời sau vẫn vậy. Nên bài cáo như 1 lần nữa tranh đấu trực diện với kẻ địch trên trận mạc ngoại giao. Chúng ta có đầy đủ các nhân tố tương hợp để xác lập chủ quyền, đã kiên định đứng lên tranh đấu để bảo vệ. Chiến thắng của ta là có thật, thất bại của kẻ địch không còn gì ranh cãi. Bản đại cáo vang lên như 1 lời phán xử rốt cuộc tại tòa án nhơn nghĩa. Lời phán xử đó sắt đá, hùng hồn khắc sâu vào tâm tưởng người dân đất Việt mãi nghìn 5.

Kế bên đấy, bản đại cáo có 1 kết cấu hết sức chặt chẽ. Xuất phát từ cơ sở lý luận nêu chân lý chính nghĩa muôn thuở tới bóc trần tội ác trời không dung đất không tha của kẻ địch để nói lên thực tế cần phải tranh đấu để bảo vệ chân lý đó. Nguyễn Trãi đã đặt nền tảng chắc chắn rồi dần dần xây những bức tường thành vững trãi về giai đoạn bảo vệ độc lập của quần chúng ta. Lối văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi sử dụng rất tài tình. Sự đối xứng trong từng câu văn liên kết với văn pháp tương phản, ước lệ đậm chất sử thi đã dựng nên 1 bức tranh nguy nga, oai hùng 1 thuở. Lập luận trong bài cáo đầy sắc bén lúc lấy tư tưởng nhơn nghĩa làm gốc. Mọi nội dung khai triển đều dựa trên tư tưởng này. Vì thế mới bóc trần được gương mặt giảo hoạt, hiểm độc của kẻ địch, mới thấy cuộc kháng chiến đầy khó khăn nhưng mà hào hùng của dân tộc là chính nghĩa. Cứ từ nhơn nghĩa thì việc tổ quốc được hòa bình là điều thế tất nhưng mà thôi. Ngôn ngữ của bài cáo cũng là 1 trong những nhân tố làm nên trị giá, vì giàu chất tạo hình, hình thành nhiều chủng loại sắc thái giọng điệu mang đến nhiều xúc cảm. Tuy nhiên 1 trong những nhân tố nữa để bản đại cáo mãi trường tồn là phần văn bản dịch rất thành công, đã chuyển tải 1 cách vẹn nguyên xúc cảm từ văn bản gốc để các lứa tuổi sau cảm thu được dễ ợt.

Xin được mượn lời của thi sĩ Xuân Diệu để thay cho lời kết: “Trước Lê Lợi, đã từng có thắng lợi oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lăng ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có thắng lợi thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lăng, mà trong văn chương sử chỉ có 1 áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: ko có 3 Nguyễn Trãi để viết 3 áng văn khải hoàn nhưng mà lịch sử yêu cầu ở 3 thời khắc, nhưng mà chỉ có 1 Nguyễn Trãi chi tiết, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cộng với tài dùng binh kinh bang tế thế, đã có cái nhân tài viết văn”.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu11

Giả dụ bài thơ “Nam quốc giang sơn” của Lý Thường Kiệt văng vẳng trên tuyến sông Như Nguyệt được xem là bản tuyên ngôn độc lập trước tiên của nước Việt Nam thì bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2. Sở dĩ gọi bài cáo “Bình ngô đại cáo” là bản tuyên ngôn độc lập bởi vì Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền cương vực và nền độc lập của giang sơn.

“Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vang lên như 1 khúc tráng ca bất tử, ca tụng thắng lợi hiển hách, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc ta. Với giọng thơ hào hùng, dứt khoát, giống như lời khẳng định cứng ngắc “Nước Nam là của quần chúng Việt Nam”.

Ngay từ đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã dõng dạc vang lên:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Vì sao Nguyễn Trãi lại dùng từ “như nước Đại Việt ta từ trước” là bởi vì trước đây Lý Thường Kiệt đã khẳng định:

Núi sông nước Nam vua nam ở
Sờ sờ định phận tại sách trời.

Tuy nhiên việc khẳng định về chủ quyền cương vực của Nguyễn Trãi hoàn toàn khác so với Lý Thường Kiệt. Nếu Lý Thường Kiệt xem việc khẳng định chủ quyền là do trời định, còn Nguyễn Trãi lại dựa vào nhân định. Đây là 2 tư tưởng không giống nhau giữa 2 thời đại không giống nhau. Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh thêm, để có được độc lập, quần chúng ta đã phải đánh đổi rất nhiều máu và nước mắt. Ấy chính là sự góp sức của bao lăm lứa tuổi mới có được, không hề do trời ban, cũng không hề thiên nhiên nhưng mà có:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế 1 phương

Như vậy chủ quyền của Việt Nam, độc lập của Việt Nam có được bền vững là nhờ sự góp sức của quần chúng, của sự đồng cam cộng khổ suốt mấy ngàn 5 tính từ lúc dựng nước cho đến nay. Trung Quốc tuy bự mạnh với những thời đại đã làm nên lịch sử vang danh, gây nhiều sóng gió mà Việt Nam vẫn luôn giữ vững ý chí, vẫn luôn góp sức ko dừng nghỉ. Tuy là nước nhỏ mà ý chí và nghị lực không phải nhỏ. Đây chính là 1 ý thức cần phải học tập và phát huy ngay cả trong thời bình. Độc lập chủ quyền nhưng mà dân tộc ta giành được nhờ vào sự kết đoàn toàn dân, vào phong tục, tập quán…Đây chính là lời khẳng định hùng hồn của Nguyễn Trãi.

Bình ngô đại cáo, vì tất thảy những lẽ đấy nhưng mà Nguyễn Trãi đã hô lên vang danh:

Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ nhưng mà thái
Nhật nguyệt hối nhưng mà minh

Dù rằng lời thơ chùng xuống mà vẫn có sức nặng, sức vang đội đối với người đọc. Dân tộc ta đã phải đánh đổi rất nhiều thứ, đã phải gồng mình chịu đựng sự xâm lăng của bọn đế quốc, thực dân phong kiến. Kết quả của sự phấn đấu đấy chính là sự “bền vững” “đổi mới” sơn hà. Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh mập bự, rộng lớn của vũ trụ “càn khôn” và “nhật nguyệt” để nói lên sự trường tồn, thái hoà, phồn thịnh của 1 non sông.

Nguyễn Trãi không tự phụ vì những chiến công đấy, ông còn khẳng định rằng sở dĩ tổ quốc được phồn thịnh, độc lập là do quần chúng ta luôn hàm ân tổ tông đi trước:

Âu cũng nhờ trời đất, tiên tổ linh thiêng
Ngầm hỗ trợ mới được tương tự

Chúng ta nhận thấy 1 sự khiêm tốn rất tinh tế. Độc lập, chủ quyền của tổ quốc ta có được là nhờ ông cha, tổ tông ở trên trời khôn thiêng hỗ trợ, tạo ban phước lành. Đây chính là đạo lý uống nước nhớ nguồn, 1 truyền thống rất thâm thúy của tổ quốc ta từ bao lăm đời nay.

Với những lý trên “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đích thực là bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền dân tộc và sự thái hoà phồn thịnh đáng được lợi của 1 non sông.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 12

Đại cáo Bình ngô không chỉ là 1 áng văn nghị luận sắt đá, cáo giác tội ác kẻ địch, tổng kết cục kháng chiến chống quân Minh của dân tộc ta nhưng mà đây còn là 1 bản tuyên ngôn độc lập. Bình ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc, sau Nam quốc giang sơn và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác phẩm là áng văn yêu nước thâm thúy, nồng thắm.

Sau 2 câu thơ mở màn khẳng định nhơn nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những lập luận cực kỳ sắt đá để khẳng định chủ quyền dân tộc, đây là đoạn thơ trình bày rõ nhất thuộc tính của bản tuyên ngôn độc lập trong tác phẩm:

Như nước Đại Việt là từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sông núi cương vực đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế 1 phương
Tuy mạnh yếu từng khi không giống nhau,
Song anh kiệt có lẽ nào cũng có

“Từ trước” – chỉ với từ này thôi mà Nguyễn Trãi đã khẳng định toàn thể sự độc lập vốn có của dân tộc ta là còn đó vững bền lâu đời, hàng ngàn 5 nay và không điều gì có thể chối bỏ được. Câu thơ thứ 2 ông khẳng định nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Văn nghĩa là sách vở, hiến nghĩa là người hiền tài. Câu thơ nguyên văn chữ Hán “Thực vi văn hiến chi bang” (Thực sự là 1 nước văn hiến). Chữ thực nghĩa là sự thực, cái hiển nhiên, không cần phải xưng (tự nhận) đã khẳng định nền văn hiến, vốn kiến thức sách vở cũng như người hiền tài của dân tộc ta. Bằng giải pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã cho thấy sự còn đó song song các triều đại của 2 tổ quốc. Trong 2 câu thơ này ta cần đặc trưng chú tâm tới chữ “đế”. Đế được hiểu là người có địa vị vô thượng, đế chỉ có 1, còn vương, vua thì có nhiều. Vì thế, lúc Nguyễn Trãi sử dụng từ đế thay cho từ vương đã cho thấy tinh thần đồng đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về non sông, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất. Lí Thường Kiệt mới chỉ ra 2 nhân tố để khẳng định độc lập là chủ quyền riêng và bờ cõi cương vực riêng: Nam quốc giang sơn nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Dựa trên căn cứ là sách trời, có phần nào đấy mơ hồ. Còn Nguyễn Trãi đưa thêm 3 nhân tố, chủ quyền và bờ cõi chỉ mang tính nhất thời, bất kì người nào có sức mạnh cũng có thể có 1 mảnh đất, xưng vua mà phong tục tập quán, văn hiến, truyền thống lịch sử thì chẳng thể dễ ợt nhưng mà có. Chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định là 1 nước độc lập.

Ngoài ra, bản tuyên ngôn cũng được trình bày qua đoạn thơ cuối tác phẩm, là lời bá cáo với toàn người đời về thắng lợi của dân tộc ta, khai mở 1 kỉ nguyên mới, 1 triều đại mới: Xã tắc từ đây bền vững/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh/ Muôn thuở thái hoà chắc chắn/ Nghìn thu vết nhục sạch làu. Tác phẩm hoàn thành bằng những đúc kết từ thiên nhiên, qua đấy Nguyễn Trãi cũng khẳng định, trình bày niềm tin cậy vào vận mệnh mới của tổ quốc.

Để bản tuyên ngôn thêm phần sắt đá ta còn phải kể tới sự đóng góp trên bình diện nghệ thuật. Nguyễn Trãi áp dụng câu văn biền ngẫu tài tình, mang tính sóng đôi, liên kết giải pháp so sánh cho thấy sự ngang hàng của ta với Trung Quốc về mọi mặt nhằm khẳng định vị thế dân tộc. Sử dụng các từ đắt, mang tính khẳng định: vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… nhằm khẳng định độc lập của Đại Việt, đấy là những cơ sở đã có từ lâu đời, chẳng thể chối cãi. Ngoài ra, ông còn sử dụng giải pháp liệt kê: các nhân tố tạo nên non sông, dân tộc (truyền thống văn hiến, cương vực, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…) nhằm tạo cơ sở chắc chắn cho nền độc lập của dân tộc.

Bằng giọng văn hùng hồn, dõng dạc, sắt đá, lập luận chặt chẽ Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc 1 cách toàn diện, đầy đủ nhất. Đây là 1 bước tiến dài so với bản tuyên ngôn trước đấy. Cùng lúc đoạn thơ cũng là cơ sở để tác giả sẵn sàng khai triển các phần tiếp theo.

Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập - Mẫu 13

Non sông Việt Nam chúng ta sau bao thăng trầm lịch sử tất chẳng thể thiếu cho mình những bản tuyên ngôn độc lập. “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2, sau “Nam quốc giang sơn” – Lý Thường Kiệt, và trước “Tuyên ngôn độc lập” – Hồ Chí Minh.

Nguyễn Trãi là 1 người văn võ toàn tài, từng làm quan dưới triều nhà Hồ. Sau đấy, ông tham dự vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vua Lê Lợi. Ông được xem là 1 nhà văn hóa bự, với những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của văn chương cũng như tư tưởng Việt Nam. Ông còn được xác nhận là danh nhân bản hóa của Việt Nam và toàn cầu. Vào 5 1428, sau trận đánh chống quân Minh chiến thắng, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô”.

Trước hết, vì sao lại nói “Đại cáo Bình Ngô” là 1 bản tuyên ngôn độc lập? Thế, tuyên ngôn độc lập là gì? Tiêu chuẩn để được xem là 1 bản tuyên ngôn độc lập thì trước tiên tác phẩm đấy phải được viết trong hoặc sau 1 trận đánh. Ta có thể thấy “Nam quốc giang sơn” của Lý Thường Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập trước tiên – được viết trong trận đánh chống Tống. Còn “Tuyên ngôn độc lập” thì được chủ tịch Hồ Chí Minh viết sau thắng lợi giặc Pháp 5 1945. Gần giống, “Đại cáo bình Ngô” là được viết sau thắng lợi quân Minh. Nội dung của 1 bản tuyên ngôn độc lập phải bao gồm 3 phần: khẳng định dân tộc, tuyên bố chiến thắng, tuyên bố hòa bình. Không nhất quyết phải đọc kĩ, người nào cũng có thể thấy rằng bài cáo đã chứa đủ cả 3 điều kiện trên. Dáng dấp tuyên ngôn độc lập được trình bày rõ nét nhất là qua đoạn đầu của “Đại cáo bình Ngô”

Ngay từ những câu trước tiên, “Đại cáo bình Ngô” đã khẳng định tính hiển nhiên của nền văn hiến giang sơn. Các cụm từ “từ trước”, “vốn ” nhấn mạnh tính lâu đời của dân tộc. Tiếp nối là “đã chia”, “phong tục… cũng khác” như vạch rõ ranh giới dị biệt của cương vực 2 nước, chẳng thể lầm lẫn. Tất cả như khẳng định lại tính hiển nhiên, vốn có, sự lâu đời của nền độc lập nước ta. Sau đấy, Nguyễn Trãi đã điểm danh các triều đại của nước ta “Triệu, Đinh, Lí, Trần” song song với các triều ở phương bắc “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách dùng từ “xưng đế 1 phương” như chỉ sự ngang hàng, không kém cạnh dù chúng ta chỉ là 1 nước bé. Từ xưa, lúc Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước bao quanh chỉ có thể xưng vương. Tuy nhiên, từ đời nhà Ngô, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế, nhấn mạnh sự ngang hàng của 2 nước. Biện pháp liệt kê cũng như câu đối của tác giả càng khiến chúng ta cảm thu được rõ hơn tầm vóc của cả 2 nước. Trong bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã trình bày sự tự trọng, kiêu hãnh dân tộc: “anh kiệt có lẽ nào cũng có”. Nghệ thuật liệt kê lại được áp dụng để nhấn mạnh sự thất bại của kẻ địch, : “Lưu Cung… thất bại”, “Triệu Tiết … bại vong”, “bắt sống Toa Đô”, “giết thịt tươi Ô Mã”, nhấn mạnh chủ quyền dân tộc. Ở cuối đoạn, “chứng cứ còn ghi” như lần nữa nhấn mạnh lại nền độc lập dân tộc, như chỉ rằng chứng cứ ghi rõ, chối cũng không được.

Ta có thể nói “Đại cáo bình Ngô” là 1 bản nâng cao hơn của “Nam quốc giang sơn” làm hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn độc lập ngắn gọn trước tiên của nước ta. Trong lúc Lý Thường Kiệt chỉ dùng 4 câu ngắn ngủi để nhấn mạnh độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã có 1 bài cáo dài để lấp đi tất cả các thiếu sót của Lý Thường Kiệt. Thay vì chỉ nói dễ ợt “nam đế cư”, Nguyễn Trãi đã liệt kệ rõ các triều đại Việt Nam trước đấy, làm rõ thêm cho chữ “đế” của Lý Thường Kiệt. “Định phận tại thiên thư”, sách trời thì quá xa vời với con người, dù biết trời cao đại diện cho sự đúng mực và cương trực, không những thế không người nào có thể thấy, mà bài cáo lại lần nữa làm rõ lúc nói “chứng cứ còn ghi”, tức người nào nếu mày mò đều sẽ thấy, không hề thứ bí mật bị bưng bít gì. Tất cả như ngày càng tăng tính thuyết phục cho người đọc lúc nhắc đến đến tính sở hữu cương vực Việt Nam. Không như Lý Thường Kiệt chỉ buông 1 lời hăm dọa “lai xâm phạm… thủ bại hư”.

“Đại cáo bình Ngô” đã hóa thực lời hăm dọa đấy lúc kể tên các chiến công lừng lẫy của quần chúng ta trong lịch sử chống và giết thịt giặc. Nhấn mạnh tính chủ quyền cũng như cho mọi người cùng rõ đấy không hề là 1 lời nói suông. Từ đấy, “Đại cáo bình Ngô” biến thành bản tuyên ngôn độc lập thứ 2, làm hoàn thiện hơn bạn dạng trước tiên

 

Tài liệu có 37 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
573 1 0
TOP 10 mẫu Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
174 1 0
TOP 10 mẫu Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
224 1 0
TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
132 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống