Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Văn mẫu: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Dàn ý phân tích nhân vật Viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù
I. Mở bài: giới thiệu Viên quản ngục
Thân bài: phân tích viên quản ngục trong Chữ người Tử tù
1. Ngoại hình của viên quản ngục:
- Một người tuổi trung niên
- Khuôn mặt như mặt ao
- Viên quản ngục là một người điềm đạm, phúc hậu
2. Tính cách của viên quản ngục
- Viên quản ngục có tâm hồn thuần khiết, yêu cái đẹp
- Ông là một người có tâm hồn nghệ sĩ, yêu nghệ thuật
- Viên quản ngục có tấm lòng khâm phục những người tài hoa
- Ông là người có tâm hồn nghệ sĩ, nâng niu cái đẹp, cái có giá trị thẩm mĩ
- Là một con người có tâm hồn trong sáng
3. Nhận xét chung về viên quản ngục
- Xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo
- Có một cách dẫn dắt để thể hiện được nhân vật một cách sâu sắc
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và tinh tế
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về nhân vật Viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Video phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù
Video phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù
Quả thật không sai khi đánh giá rằng các tác phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi chính nó là kết quả nhào nặn từ những nguyên liệu đời sống, nếu những sáng tác ấy chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu mà không mang hơi thở đời sống thì tác phẩm ấy sẽ không thể truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học cũng là chuyện cuộc đời, một hành trình mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn. Đối với Nguyễn Tuân, ông luôn khao khát đi tìm cái đẹp thuần khiết dù đó là những nơi bóng tối phủ đầy và chỉ có cái xấu xa ngự trị. Nguyễn Tuân luôn tin rằng dù con người sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn luôn chứa đựng những cái đẹp rất đáng trân trọng. Và Chữ người tử tù sẽ cho ta sẽ thấy rõ được điều đó.
Tuy không phải là nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, nhưng viên quản ngục cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Ở nhân vật viên quản ngục người đọc nhận ra những nét đẹp đáng quý đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính là ông Huấn Cao. Nói về nhân vật viên quản ngục, trong mở đầu của câu chuyện, nhà văn Nguyễn Tuân viết rằng: “trong hoàn cảnh đề lao người ta sống bằng sự tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng, lòng biết trọng giá trị của người biết trọng người ngay của quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Có lẽ ai cũng nghĩ rằng việc sống trong chốn lao tù trông coi những kẻ tù tội, cái hoàn cảnh ấy dễ đẩy con người đến với sự lọc lừa, tàn nhẫn. Tuy nhiên trái ngược với bản chất của nơi đây, nhân vật viên quản ngục lại là người có tính cách dịu dàng, biết trọng người ngay và hiểu được giá trị của con người.
Mặc dù trong tư thế đối nghịch khi phải làm việc cho triều đình nhưng viên quản ngục lại vô cùng mến mộ khí phách của ông Huấn Cao khi biết Huấn Cao là một vị anh hùng đại nghĩa, dám đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình thối nát. Viên quản ngục hiểu rằng với ông Huấn Cao mình chỉ là một kẻ xấu xa, tiểu nhân giữ tù, bởi vậy quản ngục cũng đã lường trước được rằng mình sẽ bị Huấn Cao khinh bạc, coi thường. Thế nhưng y vẫn rất mực cung kính, lễ độ khi đối diện với ông Huấn Cao.
Trong thời gian Huấn Cao bị bắt giam, ngày nào viên quản ngục cũng tự mình đem cơm rượu tới, hành động này của nhân vật không phải vì ông muốn có luôn muốn có được chữ của Huấn Cao mà nó xuất phát từ chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục dành cho vị anh hùng Huấn Cao với khát khao to lớn đó là vùng vẫy khắp năm châu bốn bể, ước muốn lật đổ triều đình mục nát để nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Câu hỏi của nhân vật viên quản ngục “Xin cho biết ngài cần gì? để tôi cố gắng chu tất” và nhận được câu trả lời khẳng khái, thẳng thắn của Huấn Cao “ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa” Nhưng người quản ngục không tức giận mà lại bày tỏ thái độ “xin lĩnh ý” lui ra một lần nữa đã tôn lên vẻ đẹp chính trực, bất khuất của Huấn Cao cùng với sự kính trọng đối với cái đẹp của viên quản ngục.
Không chỉ có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nhân vật viên quản ngục còn là người rất yêu cái đẹp. Khi hắn nghe tin trại giam tỉnh Sơn sắp tiếp nhận thêm 6 tội nhân, trong đó có ngài Huấn Cao, một người nổi tiếng là viết chữ nhanh và đẹp, viên quản ngục đã bùng nổ khao khát từ bấy lâu là có được chữ Huấn Cao để treo trong nhà. Và để đạt được sở nguyện đó, ông đã bất chấp mọi nguy hiểm có thể đến, dám biệt đãi Huấn Cao và cả 5 đồng chí của ông để đạt được sở nguyện “cả đời” của mình. Dù trong lòng lo sợ không xin được chữ của Huấn Cao sẽ phải hối hận cả đời nhưng ông vẫn không dám mở miệng để nói lời thỉnh cầu với Huấn cao về ước muốn của mình.
Với tấm lòng chân thành của viên quản ngục cuối cùng đã khiến Huấn Cao cảm động và chấp nhận dành cho chữ y vào lúc nửa đêm, khi trại giam tỉnh Sơn nơi đây chỉ còn vọng lại tiếng mõ trên vọng canh. Trong một buổi tối trong chiếc phòng giam chật hẹp, ẩm ướt đã diễn ra một cảnh tượng độc đáo xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là một kẻ tử tù, cổ đeo gông cùm, chân vướng xiềng xích, còn người được nhận chữ là viên quản ngục cai quản nhà giam lại đang có thái độ khúm núm với hành động chất từng đồng kẽm đánh dấu ô.
Sự khúm núm của viên quản ngục không khiến cho nhân người đọc đánh giá nhân cách của y bị hạ thấp mà trái lại càng nâng cao hơn giá trị con người ông, đó là sự kính nể, hạ mình trước cái tài, cái thiên lương. Sau khi nhận chữ, được ngài Huấn Cao khuyên bảo là nên thay đổi chỗ ở để giữ cái thiên lương cho lành vững, lúc ấy viên quản ngục đã vái lạy người tử tù một vái và chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt chảy rỉ vào kẽ miệng làm cho không khí trở nên nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Đến đây cuối cùng cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu, cái ác và ta dễ dàng nhận thấy có những người cho dù phải sống trong môi trường xấu xa nhưng họ vẫn hướng về thiên lương, đó chính là niềm tin sắt đá của tác giả Nguyễn Tuân về giá trị của con người. Thực sự viên quản ngục trong tác phẩm là một thanh âm trong trẻo giữa bản đàn mà nhạc luật đều xô bồ và hỗn loạn.
Mặc dù tác phẩm đã kết thúc nhưng trong tâm trí bạn đọc vẫn còn lưu giữ những nét chữ vuông vắn, đẹp đẽ của Huấn Cao, cùng với thái độ kính trọng của viên quản ngục trong một cái không gian chật hẹp tối tăm. Thông qua nhân vật viên quản ngục nhà văn Nguyễn Tuân một lần nữa khẳng định, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì cái đẹp cũng luôn có sức mạnh cảm hóa con người và để giữ được thiên lương của mình luôn sáng trong, con người cần phải tránh xa cái ác độc, xấu xa.
Nguyễn Tuân viết truyện "Chữ người tử tù" năm 1939 đăng trên tạp chí "Tao Đàn", năm 1940, in trong tác phẩm "Vang bóng một thời". Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao - tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục - người xin chữ, nhân vật ấy đã được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc sắc, đầy ấn tượng, góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình siết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
“Chữ người tử tù” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân. Trong truyện ngắn, bên cạnh nhân vật Huấn Cao nổi bật với vẻ đẹp hiên ngang, khí phách, tài hoa, mặc dù không có tên tuổi song viên quản ngục cũng lấp lánh những vẻ đẹp diệu kỳ.
Viên quản ngục là viên quan coi sóc chốn lao tù, làm việc trong môi trường toàn là tội lỗi, tội phạm, cứng đầu,… song có sở thích cao quý và sở nguyện cao đẹp. “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền từ những ngày nào sở nguyện của viên quan coi ngục này là treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối do chính ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn Cao mà treo ở nhà là có một thứ vật báu trên đời”.
Qua những câu văn trên ta thấy ước nguyện lớn lao có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà của viên quản ngục đã ấp ủ trong ông quan coi ngục này từ rất lâu, từ ngày này sang tháng khác, trong một thời gian dài, từ những năm tuổi trẻ. Trong cuộc đời, có biết bao những thú tiêu khiển thanh tao nhưng thú chơi chữ luôn ăn sâu bám rễ vào viên quản ngục. Vì sở thích cao quý, sở nguyện cao đẹp ấy, viên quản ngục đã phải dụng công trong cách đối xử với Huấn Cao, đã phải dũng cảm đánh đổi mạng sống của mình để biệt đãi Huấn Cao. Đây thực sự là con người yêu cái đến đến độ quên mình.
Không chỉ có thú vui thanh tao thích chơi chữ, viên quản ngục cũng là người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. Khi nhận được phiến trát thông báo ngày mai sẽ có tử tù tên Huấn Cao – một người nổi tiếng khắp vùng vì tài viết chữ đẹp, viên quản ngục không e dè ca ngợi tài năng của tử tù Huấn Cao trước mặt người khác. “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp đó không?”. Theo lẽ thường, một người dù tài năng, giỏi giang đến thế nào đi chăng nữa khi sa vào chốn ngục tù đều bị quan lại khinh thường. Nhưng ở đây, viên quản ngục – một người rất có địa vị nơi ngục tù lại rất xem trọng tài năng của Huấn Cao, dám ngợi ca tài hoa của một tên tử tù, điều đó thể hiện cái nhìn kính trọng đặc biệt của viên quản ngục với người có tài.
Khi Huấn Cao được lính tỉnh bàn giao cho quản ngục, viên quản ngục nhìn sáu tên tử từ mới vào với cặp mắt hiền lành, lòng kiêng nể. Không chỉ sai người quét dọn sạch sẽ phòng giam Huấn Cao, ngày ngày viên quản ngục còn cho người đưa rượu thịt tới cho ông Huấn. Khi bước vào phòng giam Huấn Cao, bị ông Huấn ra lời trách móc, viên quản ngục không hề nóng giận, dở trò bỉ ổi mà càng thêm kính trọng Huấn Cao, nhận mình là kẻ tiểu lại.
Có thể nói, viên quản ngục biệt đãi tử tù Huấn Cao trên chính nơi mà mình quản lý là một việc làm vô cùng dũng cảm. Chốn đề lao, người ta sống bằng lừa lọc, tàn nhẫn, có rất nhiều tai mắt xung quanh, hành động “biệt nhỡn” Huấn Cao của viên quản ngục nếu bị phát giác thì ngày Huấn Cao ra pháp trường cũng là ngày viên quản ngục lên giá chém. Đánh đổi mạng sống của chính mình để “biệt đãi” một “liên tài” là một hành động vô cùng liều lĩnh và cũng rất bản lĩnh của viên quản ngục. Dẫu mục đích cuối cùng của việc biệt đãi liên tài ấy là một ngày kia viên quản ngục có chữ của Huấn Cao nhưng phải nhận thấy rằng không có lòng yêu cái đẹp trong người thì viên quản ngục sẽ không làm được điều đó.
Ngoài ra, viên quản ngục cũng là một con người trong chốn tối tăm của lao tù vẫn giữ vững được thiên lương trong sáng. Thiên lương của viên quản ngục được thể hiện qua khuôn mặt tư lự trong những đêm không ngủ của viên quản ngục và chợt nhận ra mình đã chọn nhầm nghề. Thiên lương trong sáng của viên quản ngục được thể hiện qua sự kính trọng người tài khi bị Huấn Cao mắng không tư thù mà chỉ trách móc bản thân. Đặc biệt, thiên lương trong sáng của viên quản ngục được thể hiện qua cái vái lạy người tù và câu nói: “Kẻ ngu muội này xin bái lĩnh” ở phần cuối tác phẩm khi Huấn Cao đã cho chữ xong và khuyên ông quản ngục nên thay đổi chỗ ở, giữ thiên lương cho lành vững rồi mới nghĩ đến chơi chữ. Nếu là kẻ gian xảo, sau khi đã đạt được mục đích người ta có thể thay đổi ngay thái độ, thế nhưng viên quản ngục dù có quyền hành trong tay, dù đã có đạt được sở nguyện có chữ của ông Huấn vẫn một mực kính trọng Huấn Cao, đón nhận lời khuyên của Huấn Cao một cách rất chân thành, lễ phép.
“Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống với nhau bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là một thanh âm trong trẻo xen giữa bản đà mà nhạc luật đều xô bồ, hỗn loạn” có lẽ là những câu nói Nguyễn Tuân dành cho viên quản ngục. Trong truyện ngắn, viên quản ngục luôn được nhà văn Nguyễn Tuân đặt cạnh Huấn Cao, hai nhân vật được đặt trong mối quan hệ khi trực tiếp khi gián tiếp, khi đối lập khi song hành tạo nên cốt truyện chặt chẽ, tình huống truyện độc đáo đặc sắc, góp phần tạo nên giá trị nhân sinh, nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Ngôn ngữ cổ kính trang trọng, phù hợp với không khí xa xưa đưa người đọc trở về quá khứ, góp phần tạo nên tính chân thực không gian văn hóa cho truyện ngắn.
Nguyên Tuân viết truyện "Chữ người tử tù" năm 1939 đăng trên tạp chí "Tao Đàn", năm 1940, in trong tác phẩm "Vang bóng một thời". Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực. Xuất hiện bên cạnh Huấn Cao - tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục - người xin chữ, hai nhân vật ấy đã được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc sắc, đầy ấn tượng.
Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn dễ nhìn. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Bộ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc, cả nghĩ. Sau khi nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao "người đứng đầu bọn phản nghịch" lại "có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp", ngục quan đăm chiêu "nghĩ ngợi". Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya khi đĩa dầu sở đã "vợi lần mực dầu", lúc đầu thì "tự hỉ" càng vể khuya thì trên mặt ông "chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ". Việc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiều xao động ghê gớm trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một người từng trải, có "tính cách dịu dàng" khác hẳn với những kẻ "sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc" trong chốn đề lao.
Quản ngục không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu. Ông cũng là một nhà nho "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền" có nhiều đức tính tốt. Kín đáo và thận trọng trong cử chỉ, ngôn ngữ. Cách hỏi dò viên thư lại về tử tù: 'Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao!..". Qua câu nói của viên thơ lại, ông nghĩ: "Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây (...). Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình". Ngục quan muốn "biệt đãi" Huấn Cao, nhưng vẫn sợ viên thơ lại "cáo giác", nên ông rất cảnh giác, thận trọng: "Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu".
Làm quản ngục có thể thét ra lửa, bộ hạ tay chân là bọn côn đồ "lũ quay quắt", "tàn nhẫn", "lừa lọc", nhưng ông ta lại khác lạ. Tính cách thì "dịu dàng". Tấm lòng thì nhân hậu bao dung "biết giá người, biết trọng người ngay". Lúc nhận tù, ngục quan thật đáng trọng, với "cặp mắt hiền lành", với "lòng kiêng nể" được giữ kín đáo, lại còn có "biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao". Trước thái độ nhâng nháo, hách dịch, tàn nhẫn của bọn lính ngục, ông ta chỉ nhẹ nhàng mà nghiêm trang nói: "Việc quan, ta có phép nước. Các chú chớ nhiều lời".
Văn chương lãng mạn thời tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập để làm nổi bật nghịch lí của hoàn cảnh, bi kịch của số phận. Nguyễn Tuân cũng vậy, qua cảnh nhận tù, đã tương phản giữa ngục quan và lũ lính ngục, đối lập "cái thuần khiết" với "đống cặn bã", "người có tâm điền tốt" với "lũ quay quắt". Qua đó làm nổi bật nhân cách tốt đẹp của quản ngục, khác nào "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
Mọi cái tốt đẹp (cả cái xấu xa nữa) đều được bộc lộ ở hành động. Đã nửa tháng tử tù Huấn Cao sống trong trại giam đã được "biệt đãi" như một thượng khách. Trước mỗi bữa cơm tù, Huấn Cao được "dâng rượu với thức nhắm" đó là "quà mọn" mà quản ngục "biếu" tử tù dùng cho "ấm bụng". Sự "biệt đãi" ấy đã thể hiện thái độ tâm phục, " lòng biết giá người, trọng người ngay" của ngục quan đối với Huấn Cao.
Xưa nay, bậc quân tử lấy chữ lẽ trong giao tiếp, tự biết mình và biết người trong quan hệ. Tiếp cận với tử tù, quản ngục chân thành ngỏ ý: "... Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất..". Ngục quan liền bị tử tù nạng lời, khinh bạc xua đuổi: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. "Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Trước tình huống ấy, người nắm quyền uy trong tay rất bình tĩnh. Không nổi trận lôi đình để trả thù. Không giở trò tiểu nhân thị oai. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: "Xin lĩnh ý", Huấn Cao và năm đồng chí của ông vẫn được "biệt đãi", cơm rượu lại có phần "hậu hơn trước". Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị thế, ông ta chỉ tự coi mình là "là kẻ tiểu lại giữ tù", còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử "chọc trời quấy nước", nổi danh trong thiên hạ về cái tài "viết chữ rất nhanh và rất đẹp". Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao "dịu bớt tính nết" để xin chữ. Nếu được tử tù cho chữ thì ông ta "mãn nguyện". Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm chất của ngục quan: bình tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục. Quản ngục đã lấy câu châm ngôn của cổ nhân để ứng xử: "Tiểu bất nhẫn bất thành đại sự". Ngục quản không "lớn" vì uy quyền mà "đẹp" lở nhân cách, ở tâm thế của một kẻ sĩ "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền".
Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài, rất yêu thích cái đẹp. Mặc dù đã "chọn nhầm nghẹ", nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có "cái sở nguyện" cao quý như ông? Cái ao ước của ông thật là thanh cao, thật là sang trọng. Ông ao ước là có một ngày nào đó "được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Ông say mê, ông khao khát vì "chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Với quản ngục thì có vinh hạnh nào hơn nếu "có được chữ ông Huấn Cao mà treo, là có một báu vật trên đời". Vì thế, khi chưa xin được chữ Huấn Cao thì ngục quan sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Nỗi "khổ tâm" của ông là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không dám "giáp lại mặt" vì ông cảm thấy nhân cách tử tù "xa cách ông nhiều quá!". Hơn thế nữa, ông càng "khổ tâm" lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ông "ân hận suốt đời". Có thể nói, đó là một bi kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hoá nghệ thuật.
Trước khi ra pháp trường, qua lời viên thơ lại, Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng của quản ngục, đã nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Nhân cách văn hoá cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri âm, tri kỉ của tử tù. Ngục quan "khúm núm" cất những đồng tiền kẽm đánh dấu trên ô chữ... Ngục quan lắng nghe lời khuyên của tử tù "nên lui về quê nhà" để giữ lấy thiên lương rồi hãy "nghĩ đến chuyện chơi chữ... Ngục quan vái tử tù một vái và nói qua dòng nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Tất cả đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.
Cảnh xin chữ trong "Chữ người tử tù" thật cảm động. Hình ảnh quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tâm hồn tính cách của ngục quan. Từ ngoại hình, ngôn ngữ, tâm tư tình cảm đến cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân miêu tả với tất cả sự chắt lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm hiện lên một con người có cốt cách rất đẹp: "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa".
Với hành trình suốt đời đi tìm cái đẹp của mình, Nguyễn Tuân được người ta biết đến là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học hiện đại. Vốn tri thức vô cùng uyên bác cùng tài năng nghệ thuật bậc thầy đã giúp ông để lại rất nhiều tác phẩm văn học có giá trị cho nền văn học Việt Nam và “Chữ người tử tù” là một tác phẩm như thế. Trong tác phẩm, bên cạnh sự xuất hiện của Huấn Cao – một con người tài hoa, uyên bác thì viên quản ngục với những phẩm chất đáng quý cũng là một nhân vật rất đáng được quan tâm.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” được trích từ tập “Vang bóng một thời”. Ban đầu, truyện có tên là “Dòng chữ cuối cùng” và đã được in trên tạp chí Tao Đàn vào năm 1938. Đến khi được in trong tập “Vang bóng một thời” tác phẩm đã được đổi tên thành “Chữ người tử tù”. Truyện kể về cuộc gặp gỡ éo le giữa hai con người với hai thân phận hoàn toàn đối lập nhau, một bên là người tử tù Huấn Cao còn một bên là viên quản ngục. Trước sự đối đãi tử tế cùng tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý trước lời xin chữ của quản ngục. Câu chuyện đã tái hiện lại một khung cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có trong buồng giam chật hẹp, bẩn thỉu để rồi kết lại với những dư vị thấm thía trong lòng độc giả.
Để nói về nhân vật quản ngục, trước hết đó là một người trung niên “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Khuôn mặt ông được Nguyễn Tuân miêu tả vô cùng điềm đạm, bình tĩnh, phúc hậu với “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có thể thấy rõ ông đã được miêu tả với một ngoại hình vô cùng ưa nhìn. Cái vẻ nền nã của ông còn được thể hiện ở vẻ mặt đăm chiêu “nghĩ ngợi” sau khi biết tin về sáu tên tử tù trong đó “người đứng đầu bọn phản nghịch” là Huấn Cao lại “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Với tất cả sự từng trải cùng “tính cách dịu dàng” quản ngục đã biến trở thành một nhân vật đặc biệt giữa trốn lao tù, khác hẳn với những bọn “sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc” nơi đây.
Bên cạnh là một người có “tính cách dịu dàng”, viên quản ngục còn có đời sống nội tâm vô cùng sâu sắc. Khi biết Huấn Cao không chỉ nổi tiếng với tài cho chữ mà còn là một bậc trượng phu đầy nghĩa khí nhưng lại là một trong những trọng phạm triều đình ông đã vô cùng đau khổ. Nguyễn Tuân đã có một so sánh hết sức thú vị rằng nếu xã hội lao tù là “một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” thì viên quản ngục được ví như một thanh âm trong trẻo “chen vào giữa bản đàn ấy”.
Và cái đáng quý nhất ở viên quản ngục là tình yêu dành cho cái đẹp và tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Sự xuất hiện của Huấn Cao dù là trong trại giam nhưng vẫn khơi lên khao khát muốn “được treo ở nhà riêng một đôi câu đối” do ông Huấn viết. Yêu quý cái đẹp cũng là yêu quý, kính trọng người tạo ra cái đẹp bởi vậy “hằng ngày vẫn cho thầy thơ lại mang rượu thịt vào khoản đãi ông Huấn… càng ngày càng hậu hĩnh”. Vì yêu cái đẹp, kính trọng người tạo ra cái đẹp, ông đã “biệt đãi” đối với một tử tù – hành động có thể làm nguy hại đến địa vị, thậm chí là tính mạng của ông. Ông “biệt đãi” với Huấn Cao ngày cả khi bị người ta xua đuổi “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Bị xua đuổi ông không hề than trách, cũng không gắt phạt Huấn Cao, thậm chí đồ ăn được mang đến còn hậu hĩnh hơn trước.
Viên quản ngục luôn mong muốn có được chữ ông Huấn, chỉ mong ông Huấn dịu bớt tính cách để ông có thể trình bày sở nguyện của mình. Mặc dù đã chọn sai nghề, nhưng trên đời này làm gì còn viên coi ngục nào lại có một tâm hồn trong sáng, có một tình yêu với cái đẹp đến thế? Tình yêu cái đẹp càng được thể hiện ở sự “khổ tâm” của ông trước khi Huấn Cao sắp bị đưa ra pháp trường mà ông không kịp xin chữ thì ông sẽ “ân hận suốt đời”. Nhưng thật may rằng, qua lời kể của thầy thơ lại, ông Huấn đã hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục và đồng ý cho chữ. Chính nhân cách cao quý ấy đã làm cho Huấn Cao cảm động: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Từ tấm lòng của viên quản ngục, từ sự cảm động của ông Huấn mà cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có đã xuất hiện. Đó là nơi trại giam bẩn thỉu, tăm tối nhưng người ta đã ví nó như cuộc gặp gỡ giữa người khách anh hùng tài tử với một tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Vẻ đẹp tâm hồn cao quý và tình yêu, sự say mê cái đẹp đã kết nối hai phía đối lập lại với nhau. Cảnh tượng xưa nay chưa từng có này chính là chìa khóa làm nổi bật chủ đề của truyện rằng cái đẹp, cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác, cái xấu dù trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa.
Việc khắc họa thành công vẻ đẹp khác thường, mới lạ của viên quản ngục giữa chốn ngục tù tăm tối đã cho thấy tâm hồn “suốt đời đi tìm cái đẹp” của Nguyễn Tuân. Xuyên suốt tác phẩm ta không chỉ bắt gặp thủ pháp tương phản đối lập mà còn thấy cả nghệ thuật hội họa, điêu khắc được Nguyễn Tuân sử dụng vô cùng khéo léo và chính điều này đã làm nên sức hút cho tác phẩm. Chỉ bằng một vài nét phác họa độc đáo, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa một nhân vật với tấm lòng biệt nhỡn liên tài cùng sở nguyện cao quý trong mắt người đọc.
Có thể nói, cùng với nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục cũng góp phần thể hiện chủ đề của truyện cũng như điều mà Nguyễn Tuân luôn muốn hướng đến đó là cái đẹp và cái đẹp luôn đủ sức đánh bại mọi sự xấu xa, bẩn thỉu trong cuộc sống này.
"Chữ người tử tù" là một tác phẩm hay của tác giả Nguyễn tuân, đây là một tác phẩm yêu thích của tôi. Và tôi hoàn toàn phản đối bài viết của tác giả Trần Hà Nam khi nhận xét về tác phẩm này và nhân vật viên quan coi ngục. Có lẽ về tuổi đời và kiến thức của tôi chưa bằng tác giả trên, nhưng tôi cũng xin đưa ra một vài ý kiến của riêng mình. Theo như tác giả đã giới thiệu, viên quản ngục vốn là người đã từng "đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", là người có cái tâm, là "một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ" - đó là điều tác giả đã khẳng định.
Viên quản ngục không phải là người đứng đầu bộ máy đàn áp, nếu nói ông đại diện cho chế độ phong kiến lúc bấy giờ còn chấp nhận được. Vì thế khi nghe thầy thơ lại buột miệng nói, ông đã vội lên tiếng: "Chuyện triều đình quốc gia... nhỡ lại vạ miệng thì khốn", đó là vì ông sợ người ngoài biết sẽ mang tội chết, bởi ông chỉ là một viên quan coi ngục - phận hèn chức mọn. Ông đối xử với những người tù khác như thế nào ta chưa biết vì tác giả không nhắc đến chuyện đó. Nhưng có thể đoán ra phần nào qua chức vụ của ông, của một viên quản ngục, buộc ông phải làm thế.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã nói rằng viên quan này là "người có tính cách dịu dàng và biết giá người, biết trọng người ngay". Đối xử với Huấn Cao, khi nghe bọn lính lệ nhắc đến hai từ "để tâm", ông hiểu, nhưng ông không làm thế, không phải vì "người đó là Huấn Cao - người sở hữu báu vật", mà Huấn Cao còn là người ông hằng kính trọng, ông làm sao dám giở những trò tiểu nhân bỉ ổi đó ra, chứ thực sự ông không có mưu mô thủ đoạn gì. hành động ngày ngày dâng rượu thịt của viên quản ngục cũng chỉ là xuất phát từ tấm lòng của ông, không muốn trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mà Huấn Cao lại phải chịu cực khổ. Hành động này cũng đã vượt qua phép tắc của triều đình phong kiến. Và có lẽ một phần ông cũng muốn tiếp cận Huấn Cao.
Việc ông muốn có chữ của Huấn Cao, đó không phải là sự thèm khát, mà là ước nguyện của ông. Phải nói cho rõ, "ước nguyện" và "thèm khát", hai từ này khác xa nhau về ngữ cảnh, ít nhất là đối với bài "Chữ người tử tù". Tác giả đã xây dựng được một hình tượng người quản ngục giữa chốn ngục tối mà nung nấu được cái sở nguyện cao quý như vậy.
Ông là quản ngục, nhưng không có nghĩa là trong nhà tù ông có toàn quyền sinh sát. Cho nên khi trải lụa cho Huấn Cao viết chữ, ông đã không mở cùm gông, thêm nữa, nhà lao là nơi tai mắt rất nhiều, nếu sự việc có bị bại lộ thì sẽ mang thêm trọng tội cho cả ba người. Chi tiết mà tác giả nói đến: "Huấn Cao cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ" là muốn khẳng định sự bất tử của cái tài cái đẹp dù ở bất cứ đâu. Nét chữ ra đời trong khi "cổ vướng gông, chân vướng xiềng" và nét chữ ra đời trong tư thế mà tác giả Trần Hà Nam gọi là "thể hiện trọn vẹn thần thái khí phách người viết chữ", suy cho cùng, cũng giống nhau cả thôi, có khác chăng là tư thế viết chữ, bởi nét chữ đều đẹp, đều ý nghĩa.
Nét chữ ra đời trong cảnh gông cùm kìm kẹp, thực tế mà nói thì tất nhiên là không thể "thỏa chí tung hoành". Nhưng trong tư tưởng, đó vẫn là con người tự do với những hoài bão tung bay. Chả thế mà tác giả cũng đã nói rằng khi Huấn Cao ngồi từ, ông vẫn nghĩ đến cái "chí lớn không thành". Huấn Cao đã dành những giây phút cuối cùng của cuộc đời để sáng tạo cái đẹp, để cái đẹp bất tử, nói những lời khuyên cuối cùng dành cho người mà ông coi như người bạn tri kỉ.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn , là một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những sáng tác tiêu biểu để lại tiếng vang trong sự nghiệp hành văn của Nguyễn Tuân là truyện ngắn" Chữ người tử tù". Trong truyện ngắn " Những người tử tù", Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật đặc sắc đi vào lòng độc giả. Ngoài Huấn Cao - con người tài hoa, khí phách hiên ngang, bất khuất và thiên lương trong sáng thì ta không thể không nhắc đến một nhân vật đặc biệt khác - viên quản ngục.
Quản ngục: không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu, tham lam lợi lộc , vinh hoa , phú quý. Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn dễ nhìn. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Bộ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc, cả nghĩ. Sau khi nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao "người đứng đầu bọn phản nghịch" lại "có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp", ngục quan đăm chiêu "nghĩ ngợi".
Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya khi đĩa dầu sở đã "vợi lần mực dầu", lúc đầu thì "tự hỉ" càng về khuya thì trên mặt ông "chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ". Việc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiều xao động ghê gớm trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một người từng trải, có tính cách dịu dàng khác hẳn với những kẻ sống bằng tàn nhẫn bằng lừa lọc trong chốn đề lao. Và điều ta thấy rõ ở con người này chính là tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp, trọng người tài.
Đối đãi với Huấn Cao, quản ngục hết sức tôn trọng kính cẩn, thể hiện rõ thái độ biệt nhỡn nhân tài. Ngày nhận tù nhân , viên quản ngục đã làm trái với phong tục nhận tù mọi ngày," hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào bằng cặp mắt hiền lành". Ngay từ ánh nhìn đầu tiên mà viên quản ngục đã bày tỏ kín đáo tấm chân tình của mình đối với người sáng tạo ra cái đẹp - Huấn Cao. Mặc kệ cho những tên tay sai bên dưới nhắc khéo ngài có phải dùng đến những tiểu sảo trong nhà lao để ép cung , tra tấn thì viên quản ngục vẫn lặng thinh làm lơ đi điều đó.
Bởi lúc này đây, quản ngục biết mình đã gặp đúng người rồi, người mà từ thủa đọc vỡ nghĩa chữ sách thánh hiền hắn hằng đêm mong có được chữ của người. Suốt nửa tháng ở trong tù, ngày nào Huấn Cao cũng nhận được rượu thịt trước bữa cơm tù thành ra là chuyện lạ nhưng người vẫn cứ điềm nhiên nhận lấy hưởng thụ như thú vui lúc bình sinh chưa bị giam cầm. Và người đứng đằng sau những bữa rượu thịt ngon ấy, không ai khác chính là viên quản ngục sắp xếp đối đãi đặc biệt với Huấn Cao. Rồi đến một hôm quản ngục đích thân xuống hỏi thăm tên tù ngục ta lại càng thêm thấy rõ tấm chân tình của hắn dành cho Huấn Cao.
Thế nhưng trước những lời lẽ kính cẩn , tôn trọng của hắn, Huấn Cao lại một mực phũ phàng , coi thường: " Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây". Trước tình huống ấy, người nắm quyền uy trong tay rất bình tĩnh. Không nổi trận lôi đình để trả thù. Không giở trò tiểu nhân thị oai. Ngục quan chỉ lui ra lễ phép với một câu: "Xin lĩnh ý", Huấn Cao và năm đồng chí của người vẫn được "biệt đãi", cơm rượu lại có phần "hậu hơn trước". Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? về vị thế, hắn chỉ tự coi mình là "là kẻ tiểu lại giữ tù", còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử "chọc trời quấy nước", nổi danh trong thiên hạ về cái tài "viết chữ rất nhanh và rất đẹp". Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao "dịu bớt tính nết" để xin chữ. Nếu được tử tù cho chữ thì hắn ta "mãn nguyện". Qua đó, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm chất của ngục quan: bình tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục.
Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài, rất yêu thích cái đẹp. Mặc dù đã "chọn nhầm nghề", nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có "cái sở nguyện" cao quý như hắn ? Cái ao ước của hắn thật là thanh cao, thật là một thú vui tao nhã nhân văn. Quản ngục ao ước là có một ngày nào đó "được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Hắn say mê, hắn khao khát vì "chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Với quản ngục thì có vinh hạnh nào hơn nếu "có được chữ ông Huấn Cao mà treo, là có một báu vật trên đời". Vì thế, khi chưa xin được chữ Huấn Cao thì ngục quan sống trong tâm trạng đầy bi kịch.
Nỗi "khổ tâm" của hắn là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không dám giáp lại mặt vì quản ngục cảm thấy nhân cách tử tù xa cách ông nhiều quá!. Hơn thế nữa, hắn càng "khổ tâm" lo lắng, mai mốt đây, Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ông "ân hận suốt đời". Có thể nói, đó là một bi kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hoá nghệ thuật. Sự giày vò tâm trạng của quản ngục đem đến tình tiết cao trào cho tác phẩm khi Huấn Cao đồng ý cho chữ ngay trước đêm người phải ra pháp trường lãnh án tử hình.
Điều gì đến rồi cũng phải đế , giấy báo tử được gửi đến nhà lao nơi giam giữ Huấn Cao, quản ngục gọi thầy thơ lại đến tâm sự rõ sự tình của mình như một tiếng thở dài than vãn sao thời gian nhanh quá, còn chưa kịp xin chữ Huấn Cao mà đã nhận giấy án chém... Thầy thơ lại nghe xong thì vô cùng cảm động nên đã tìm đến người tù đang bị giam trong nhà lao kia kể lại sự tình và báo luôn tin tử hình cho Huấn Cao nghe. Nghe xong tên tử tù liền mỉm cười. Đó là một nụ cười chứ không phải sự sợ hãi trước cái chết đang cận kề. Phải là một kẻ đã đối mặt với bao hiểm nguy, thân quen với cái chết trong gang tấc thì nụ cười đó mới nở trên môi như vậy, con người này đúng là anh hùng bất khuất, hiên ngang bảo sao mà quản ngục không kiêng nể, lại thêm mến phục, yêu con chữ thể hiện hoài bão cả một kiếp người tung hoành bốn phương trời. Huấn Cao như thấu hiểu nỗi lòng của quản ngục, đã nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Nhân cách văn hoá cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài, một cảnh đẹp hiếm có trong nhân gian. Kẻ có quyền lại khúm núm trước một kẻ tử tù, còn kẻ tử tù áy lại thong dong, viết nên bức thư pháp ngàn người nể phục, yêu quý, săn tìm , cầu mong có được như bảo vật quý trên đời.
Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri âm, tri kỉ của tử tù. Ngục quan "khúm núm" cất những đồng tiền kẽm đánh dấu trên ô chữ... Ngục quan lắng nghe lời khuyên của tử tù "nên lui về quê nhà" để giữ lấy thiên lương rồi hãy "nghĩ đến chuyện chơi" chữ... Ngục quan vái tử tù một vái và nói qua dòng nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Tất cả đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.
Hình ảnh quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tâm hồn tính cách của ngục quan. Từ ngoại hình, ngôn ngữ, tâm tư tình cảm đến cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân miêu tả với tất cả sự chắt lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm hiện lên một con người có cốt cách rất đẹp.
Quản ngục với nghề nghiệp của mình trên phương diện xã hội là hoàn toàn trái ngược nhau, đối lập với Huấn Cao, nhưng trên phương diện nghệ thuật thì quản ngục là người biết yêu , biết say mê, tôn thờ cái đẹp và với nhân vật này chủ đề của tác phẩm càng thêm được thể hiện rõ nét: Cái duy nhất đang được tôn vinh và kính trọng là cái đẹp.
Nhắc đến Nguyễn Tuân những năm 1930-1945, người đọc sẽ nhớ tới truyện ngắn lãng mạn nổi tiếng của ông: " Chữ người tử tù". Một cuộc kì ngộ diễn ra nơi chốn nhà tù chật chội với những điều trái ngang. Nổi bật ở đó là hình ảnh nhân vật Huấn Cao - một người anh hùng một người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng nhắc đến Huấn Cao thì không thể thiếu viên quản ngục : " một thanh âm trong trẻo" giữa chốn lao tù.
Quản Ngục được giới thiệu ngay ở phần đầu tác phẩm trong cuộc trò chuyện với thầy thơ lại. Cái tên Huấn Cao xuất hiện trong phiến trát khiến Quản Ngục ngờ ngợ, ông hỏi thầy thơ lại về Huấn Cao với thái độ quan tâm, mến mộ một cách kín đáo. Nhân vật quản ngục với chức danh là quan coi ngục chức không cao, bổng không lộc nhưng cũng có thể coi là người có danh có phận, là người thay mặt cho luật lệ triều đình. Từ cách giới thiệu ban đầu, nhà văn đã giúp ta hiểu rõ hơn về nhân vật này.
Trong đêm đầu tiên hình ảnh Quản Ngục được khắc hoạ với dáng ngồi tư lự "khuôn mặt băn khoăn ngồi bóp thái dương...". Có lẽ trong lòng viên quản ngục có một tâm sự kín đáo. Quản Ngục băn khoăn bởi sự xuất hiện của Huấn Cao trong nhà ngục cũng có nghĩa là một kẻ tài hoa sắp phải chịu án tử hình. Một nỗi tiếc nuối mơ hồ trước một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ. Nhưng là người có danh có phận, quản ngục lại sống trong nghịch cảnh, cô đơn. Ông có ước nguyện muốn xin chữ mà lại không dám nói. Thân phận " cá chậu chim lồng".
Một viên quan coi ngục, một cái tên khi được nhắc đến ngay cả ngày nay huống chi thời kì phong kiến, luôn có những định kiến nhất định về họ: những kẻ xảo quyệt, ham tiền,.... Nhưng Nguyễn Tuân lại xây dựng một hình tượng mới về quan coi ngục: một quản ngục có lòng biệt nhỡn người người tài.
Viên Quản ngục có sở nguyện cao quý là xin được chữ Huấn Cao để treo ở nhà. "Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất". Một sở nguyện tao nhã thật cùng. Ông quan tâm đến Huấn Cao. Nghe tin Huấn Cao đến trại giam, ông sai Thơ lại dọn dẹp lại chu đáo " cần dùng đến".
Rồi khi Huấn Cao đến, viên quản ngục tiếp đón bằng biệt lệ. Lính áp giải hỏi viên quan ngục, ý nhắc những biện pháp tra tấn như mọi khi, nhưng viên quan coi ngục trả lời đầy ung dung, khác hẳn mọi ngày khiến chúng giật mình, ngơ ngác. Ông nhìn Huấn Cao bằng ánh mắt "hiền lành" và thái độ khiêng nể không thể có của một người coi ngục với người bị tù đày. Viên quản ngục còn biệt đãi Huấn Cao khi ngày nào cũng cho Thơ lại bữa bữa dâng rượt thịt, không chỉ với Huấn Cao mà với cả bạn bè của Huấn Cao.
Rồi một hôm quản ngục khép nép đến thăm Huấn Cao, bị Huấn Cao xẵng giọng mắng và tỏ ra khinh bạc: "Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây." Quản ngục lễ phép, nhã nhặn, một mực thành kính đáp: "Xin lĩnh ý." Cách cư xử điềm đạm, thái độ nghiêm cung, mục đích bày tỏ tấm thị tình đúng mực này soi sáng một tâm hồn cao quý và sẵn lòng quỳ gối trước hoa mai.
Khi biết Huấn Cao đồng ý cho chữ, viên quản ngục chuẩn bị chu đáo lụa trắng, thỏi mực, mực thơm. Sự chuẩn bị đó cho thấy viên quản ngục trân trọng cái đẹp vô cùng. Xin chữ Huấn Cao bằng thái độ " khúm núm" để thấy viên quản ngục coi trọng Huấn Cao, coi trọng cái đẹp. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri âm, tri kỉ của tử tù. Ngục quan "khúm núm" cất những đồng tiền kẽm đánh dấu trên ô chữ... Ngục quan lắng nghe lời khuyên của tử tù "nên lui về quê nhà" để giữ lấy thiên lương rồi hãy "nghĩ đến chuyện chơi chữ... Ngục quan vái tử tù một vái và nói qua dòng nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Viên quản ngục coi Huấn Cao như đấng thiêng liêng, người đi truyền đạo. Tất cả đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương, ánh sáng của cái đẹp.
Nguyễn Tuân thành công sử dụng bút pháp lãng mạn xây dựng hình tượng nhân vật Quản ngục khác hoàn toàn với những định kiến trước giờ. Đó là viên quản ngục yêu cái đẹp, trân trọng người tài, trân trọng ánh sáng thiên lương. Một con người "sống gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Nguyễn Tuân với những trang anh hùng dũng liệt hiện lên dưới một 1 lớp ngôn ngữ dân tộc thuần khiết và chuẩn mực, luôn cố gắng hết sức mình để làm sống dậy một thời quá khứ rực rỡ. Và dường như cảm thấy mình không đủ sức. Nguyễn Tuân kéo cả những nhân vật của mình theo khuynh hướng ấy. Đó là trường hợp của viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” (trong tập Vang bóng một thời).
Quản ngục: không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao, lại càng không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ khát máu (Bữa rượu máu). Con người đó là một hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp. Dưới ngòi bút tài hoa của một bậc thầy về ngôn ngữ, hình ảnh trung gian ấy cũng mập mờ, không có ranh giới rõ rệt.
Thoạt nhiên, viên quản ngục có vẻ như là một con người cam chịu, yên phận và cũng chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương thời: “Chuyện triều đình quốc gia chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời". Cái khuôn khổ phong kiến, cái “phép nước” đã khiến quản ngục quen với việc nhận tù, với "những mánh khóe hành hạ thường lệ”. Những lúc ấy, viên quản ngục cứ lạnh lùng như một cỏ may, ngoan ngoãn như một tên nô lệ trung thành với vai trò của mình.
Nhưng có ai ngờ, bên trong con người đó vẫn luôn tồn tại một mầm sống tươi xanh của cái đẹp. Cái mầm ấy bị đè bẹp nhưng vẫn khắc khoải sống như chờ đợi một lúc nào đó được vươn lên. Rồi thời điểm đó cũng đến. Huấn Cao, con người văn võ song toàn xuất hiện với “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Quản ngục bắt đầu rơi vào một tâm trạng hết sức khó xử. Một sự đấu tranh âm thầm trở thành nét tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện mà cũng chính là biểu hiện tiêu biểu cho quản ngục suốt truyện mà cùng chính là biểu hiện tiêu biểu cho tính “hướng nội” mỗi chúng ta thường bắt gặp trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng thì niềm đam mê cái đẹp cũng đã chiến thắng. Tuy cái chiến thắng đó chưa phải là tuyệt đối nhưng vẫn đủ biến viên quản ngục thành một con người khác. “Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Ngôi sao chính trị" dĩ nhiên là ám chỉ Huấn Cao. Còn “thanh âm phức tạp” ngầm chỉ ai? Con người ấy chính là quản ngục. Quản ngục muốn nâng niu cái đẹp nhưng lại sợ. Vì thế nên Nguyễn Tuân đã để cho nhân vật này hóa thân thành một cái gì đó vô hình, hư ảo. Chi tiết đó vừa bộc lộ nét mạnh của Vang bóng một thời lãng mạn và khao khát đánh thức cái đẹp, vừa để lộ thấp thoáng điểm yếu và sự yếu đuối của Nguyễn Tuân trong cái nhìn hoài vọng xa xôi. Nó khiến Nguyễn Tuân như tránh né, đem ông trời ra mà trách: '‘Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết giữa một đống cặn bã”.
Cũng từ ý niệm ấy, quản ngục nghĩ mình “chọn nhầm nghề mất rồi", Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp và đã tìm ra cái đẹp long lanh, mong manh giữa một vùng trời đen tối.
Việc miễn những mánh khóe hành hạ, biệt đãi những người tử tù, rồi bạo dạn xin chữ, một cách khéo léo từng chút từng chút gắn thêm nét đẹp vào con người quản ngục bởi vì: “Biết người tài, không phải là kẻ xấu". Mặc dù vậy khi đã biệt đãi, đã toan tính cách xin chữ, quản ngục vẫn còn sợ, vẫn dặn viên thơ lại nói với Huấn Cao: “Miễn là ngài giữ kín cho”. Một chi tiết nhỏ nhưng chắc là không thể thiếu. Một chi tiết vừa lãng mạn vừa hiện thực. Mến cái tài của Huấn Cao nhưng sợ “phép vua”. Phải tinh tế lắm. Nguyễn Tuân mới phát hiện ra điều đó. Phải tài hoa lắm Nguyễn Tuân mới thể hiện được điều đó. Nếu không viết về nỗi sợ ngấm ngầm thì là không thật, mà Nguyễn Tuân lại là con người luôn vươn tới cái đẹp, cái thật. Nếu viết quá nhiều thì sẽ làm ngắt quãng mạch chuyển biến đang cuồn cuộn, sôi sục trong nhân vật hình tượng.
Mến cái tài của Huấn Cao, khát khao “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”, đến lúc này, quản ngục dường như không còn là quản ngục mà là hóa thân của Nguyễn Tuân với nhịp tim và hơi thở dành trọn cho sự nâng niu cái đẹp. “Một buổi chiều lạnh, viên quản ngực tái nhặt người đi sau khi tiếp đọc công văn”. Không còn là thương tiếc, xót xa mà đã đạt đến đỉnh điểm của niềm đau xót, thẫn thờ. Việc nhận công văn, quản ngục biết trước nhưng vẫn thấy đột ngột, hụt hẫng. Thiên lương vừa sóng dậy trong một con người đã thúc giục quản ngục hành động. Một. hành động trái ngược với những gì quản ngục nói: “Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép trước”.
Tình yêu cái đẹp đến đam mê đã đánh thức khí phách tiềm tàng nằm im suốt bao nhiêu năm.
Trong cảnh cho chữ hùng vĩ, có một chi tiết đáng nhớ: “Người tù viết xong một chữ viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền xèng đánh dấu ô chữ đặt lên phiến lục ông”, “khúm núm” không phải chỉ vì nịnh bợ mà là vì cảm phục. Khi sự cảm phục lên đến đỉnh điểm cũng là lúc kết thúc truyện. “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Một nghệ thuật tài hoa, kết thúc truyện ở cao trào. Chính nghệ thuật độc đáo đó đã nêu bật cái đẹp toàn diện, toàn mỹ và rất đặc sắc của cả người xin chữ và người cho chữ.
Dọc theo suốt chiều dài của truyện, nhân vật quản ngục luôn tồn tại với một ý nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là một hình tượng độc đáo mà còn là nhân vật hội đủ những đặc điểm chung nhất của Vang bóng một thời, của quan niệm và phong cách Nguyễn Tuân: lãng mạn mà vẫn hiện thực, là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc, là biểu hiện của sự “yêu mến và luyến tiếc những cái đã qua và có sức làm sống lại một thời xưa cũ”.
Nguyễn Tuân - nhà văn suốt một đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng tháng Tám nhân vật trong trang văn của đều là những người hiện thân của cái đẹp. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể quên một ông Huấn Cao tài hoa tài tình, thiên lương cao đẹp mà anh dũng, bất khuất. Bên cạnh đó nhân vật viên quản ngục được tác giả khắc họa là một người trọng nghĩa khí, biết yêu và trân trọng cái đẹp càng làm nổi bật lên nhân cách cao đẹp của nhà văn.
Xét về địa vị xã hội viên quản ngục là người đại cho quyền lực, pháp luật của triều đình và đại diện cho cái xấu cái ác lúc bấy giờ. Tuy nhiên xét về phương diện nghệ thuật ông lại là người ham mê, yêu thích cái đẹp và say đắm nét chữ của Huấn Cao vô cùng.
Viên quản ngục là một người có tâm hồn nghệ sĩ biết yêu và trân trọng cái đẹp. Điều đó được thể hiện trước tiên là ở sở thích chơi chữ. Xưa nay khi nhắc quan lại người ta thường nghĩ ngay đến những tên “đầu trâu mặt ngựa” hống hách, thị uy chứ nào ai biết vẫn có một viên quan có tâm hồn nghệ sĩ với thú chơi tao nhã như viên quản ngục. Ông say mê điều đó vô cùng, ông luôn khao khát có được chữ ông Huấn treo trong nhà riêng của mình bởi “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”, ông coi đó là một vật báu trên đời. Sở nguyện đó còn được thể hiện ở tâm trạng hồ hởi vui mừng của ông khi biết tin trong số phạm nhân được áp giải về có Huấn Cao. Ông vừa băn khoăn không biết làm thế nào để xin được chữ ông Huấn, vừa tiếc nuối vô cùng cho người tài mà lại chịu cảnh ngục tù đao phủ cũng vừa day dứt khổ tâm khi sở nguyện chưa thành. Ông chỉ lo một mai ông Huấn bị hành hình mà chưa kịp xin chữ thì thật đáng tiếc và ân hận suốt đời. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận nét đẹp nhân cách của nhân vật ở phương diện văn học nghệ thuật thật sâu sắc và đáng trân trọng.
Viên quản ngục là người có con mắt tinh tường biết nhìn nhận và đánh giá người tài năng đồng thời cũng là người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Trong phần đối thoại với thầy thơ lại ông luôn thể hiện sự thành kính chân thành của mình đối với Huấn Cao. Hằng ngày biệt đãi ông Huấn và những người bạn tù bằng rượu thịt thơm ngon. Khi bị Huấn Cao khinh miệt, coi thường ông không hề trách móc tức giận hay tìm cách trả thù mà vô cùng kính cẩn, lễ độ và thấu hiểu “Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Quả là một viên quan có tấm lòng đáng kính.
Ông còn là người có thiên lương trong sáng, biết cúi mình trước cái đẹp. Trong buổi tối đêm đầu tiên khi Huấn cao ở trong ngục ông băn khoăn, trăn trở suy nghĩ về cái nghề của mình với “bộ mặt suy tư lự” vì “chọn nhầm nghề mất rồi”. Nguyễn Tuân đã nhận xét viên coi ngục là “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Khi được Huấn Cao đồng ý cho chữ ông vô cùng hạnh phúc. Ông cúi mình trước cái đẹp thể hiện trong tư thế, tâm thế khi nhận chữ trong không gian tăm tối, bẩn thỉu chốn ngục tù. Viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên mặt phiến lụa óng”. Cái khúm núm ấy không phải là hèn hạ mà càng tôn lên sự thanh cao của một nhân cách đẹp đẽ. Đặc biệt khi được Huấn Cao cho lời khuyên để giữ được thiên lương thì hãy thoát khỏi cái nghề này đi thì cảm động vái người tù và rỉ nước mắt vào kẽ miệng thốt lên lời chân thành “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” cho thấy thiên lương trong sáng của viên quan coi ngục đáng được trân trọng ở “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”.
Với tài năng kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và tả thực. Ngôn ngữ nghệ thuật sinh động có sử dụng từ Hán Việt xen lẫn từ thuần Nôm, những câu văn chừng mực, nhẹ nhàng sâu lắng đã khắc họa được hình tượng nhân vật viên quản ngục trọng nghĩa trọng tài để sánh ngang với ông Huấn anh dũng tài hoa, làm nên những hình tượng nhân vật hiện thân cho cái đẹp của “một thời vang bóng” trong trang văn Nguyễn Tuân.
Qua nhân vật viên quản ngục cho ta thêm bài học về cách nhìn nhận, quan niệm về con người. Trong mỗi chúng ta luôn có một tâm hồn nghệ sĩ biết yêu cái đẹp và trân trọng người tài, không phải ai cũng xấu, bên cạnh những con người chưa tốt vẫn có những tấm lòng cao cả, thiên lương trong sáng. Điều đó cũng cho thấy quan niệm mới mẻ về nghệ thuật là cái đẹp có thể nảy sinh trong môi trường cái xấu cái ác nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại càng bừng sáng rực rỡ và mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, bên cạnh nhân vật Huấn Cao, ta còn thấy hiện lên nhân vật quản ngục biết trọng người và biết quý người ngay thẳng, viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng đặc sắc, đầy ấn tượng.
Quản ngục là một người đã lớn tuổi, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt luôn tự lự, nhăn nheo chứng tỏ ông có một đời sống nội tâm sâu sắc, phong phú. Sau khi nhận được phiến trát gửi về, trong sáu tên tử tù có ông Huấn Cao, người mà ông hằng ngưỡng mộ về tài viết chữ đẹp, điều đó làm ông vô cùng băn khoăn, nghĩ ngợi.
Quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông là người “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Nhưng tính cách đó, con người đó lại bị đặt trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa dối, tàn nhẫn. Hoàn cảnh sống và phẩm chất của nhân vật hoàn toàn trái ngược nhau: quản ngục tâm điền tốt và thẳng thắn nhưng lại phải ăn ở đời đời, kiếp kiếp với một lũ cặn bã. Đó chính là bi kịch của cuộc đời ông.
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng quản ngục vẫn giữ được cho mình một tâm hồn và cốt cách cao đẹp. Nhận được phiến trát, biết được trong số tử tù có Huấn Cao điều đó đã làm ông suy nghĩ cả đêm, việc nhận tù sắp tới gây xáo động lớn trong tâm từ của ông: khuôn mặt “tư lự” dần thay thế bằng “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có phải chăng trong đêm thanh tĩnh đó, ông đã suy nghĩ, đã cất nhắc để quyết định sẽ có biệt đãi riêng với người tư tù mang tên Huấn Cao này, cũng bởi vậy từ khuôn mặt tư lự, lo lắng chuyển sang sự thanh thản, bình lặng.
Niềm say mê nghệ thuật, lòng trân trọng người tài chính là yếu tố đã khiến ông quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Nhưng đi đến quyết định này, chính bản thân quản ngục cũng phải đối mặt với nguy hiểm. Nhưng bằng tình yêu cái đẹp, bằng khí phách của chính mình viên quản ngục vẫn quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Biệt đãi Huấn Cao, quản ngục cũng mang trong mình niềm hi vọng sẽ xin được chữ của ông, nhưng đó chỉ là hi vọng mong manh, bởi tính ông Huấn vốn khoảnh, điều này quản ngục hiểu rất rõ. Ngày cả khi đem tất cả dũng khí vào gặp Huấn Cao, nhận được thái độ coi thường từ Huấn Cao, nhưng quản ngục chỉ lễ phép lui ra và nói: “Xin lĩnh ý” và mọi sự biệt đãi vẫn diễn ra như cũ. Hành động đó, cử chỉ nhún nhường đó là cả tấm lòng của quản ngục dành cho Huấn Cao, cũng chính ông đã tự bộc bạch: “những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Sự biệt đã và thái độ nhún nhường đó cho thấy thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao.
Trong những ngày Huấn Cao dưới sự cai quản của mình, quản ngục còn mang trong mình hi vọng: ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết khi ấy ông sẽ xin ông Huấn chữ lên chữ lần lụa vuông vắn, trắng tinh đã được ông chuẩn bị từ lâu. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì cả đời này của ông coi như đã thỏa ý, đã mãn nguyện. Điều ông đau lòng nhất là ông Huấn dưới quyền mình nhưng chẳng biết làm cách nào để có thể xin chữ. Ông sợ một mai ông Huấn bị giải đi thì ông sẽ ân hận cả đời.
Ngày nhận được công văn, quản ngục “tái nhợt người đi”, nốt đêm nay thôi, ngày mai ông Huấn Cao đã bị giải đi để hành hình, vậy là sở nguyện xin chữ của ông có lẽ sẽ mãi mãi không thể thực hiện. Nhưng bên cạnh ông còn có một thầy thơ lại cũng mang trong mình tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nghe lời tâm sự của quản ngục, thầy thơ lại đã tìm ông Huấn và kể về nỗi lòng sâu kín của quản ngục. Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng viên quản ngục: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chính nhân cách, phẩm chất của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao cảm phục và xúc động. “Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù và sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài”. Trong không gian nhà tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp đã diễn ra cảnh cho chữ chưa từng có. Tấm lụa bạch trắng còn nguyên vẹn lần hồ, những đồng tiền kẽm đánh dấu ô, mùi mực thơm đều đã được viên quản ngục cẩn trọng chuẩn bị với tất cả lòng thành kính. Dưới ánh đuốc tỏa ra đỏ rực, ba chiếc đầu chụm lại chăm chú từng nét chữ người tù đang viết. Mỗi chữ Huấn Cao viết xong, viên quản ngục đều “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ” thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Trên lần lụa trắng, những nét chữ được viết ra, viên quản ngục lắng nghe lời khuyên chân thành của tử tù, lui về quê nhà, bỏ nghề để giữ vững thiên lương trong sạch của mình. Cảm về tài năng, cảm về nhân cách, viên quản ngục vội vái người tù một vái, trong hàng nước mắt nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Ông tự nhận mình là kẻ mê muội, bao lâu nay sống trong cảnh đề lao, thiếu chút nữa đã làm hoen ố nhân cách và thiên lương của chính mình. Nhờ có ánh sáng của cái đẹp, của nhân cách Huấn Cao, quản ngục mới được khai sáng, mới có thể sống nốt phần đời còn lại trong sự thanh tĩnh, trong sạch.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt, đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ độc đáo, kết hợp với nghệ thuật cường điệu, phóng đại, tương phản giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nhân vật được khắc họa thiên về chiều sâu tâm lí thể hiện qua các lời độc thoại nội tâm.
Bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ lên chân dung của một quản ngục thật đẹp đẽ, cao cả về nhân cách. Đồng thời ông cũng cho thấy trong mỗi một con người luôn có một phần con người nghệ sĩ, tâm hồn yêu cái đẹp, trọng cái tài.
“Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Mang trong mình niềm đam mê cái đẹp, các sáng tác của ông luôn tập trung khám phá, khai thác con người ở khía cạnh tài hoa, nghệ sĩ. Viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một nhân vật điển hình cho bút pháp sáng tạo và tư duy nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“Chữ người tử tù” kể về một người tử tù có tài viết chữ đẹp tên Huấn Cao. Khi bị đưa vào tù, người quản ngục thay vì đối xử với người tù tàn bạo, độc ác thì lại vô cùng trân trọng, ngưỡng mộ Huấn Cao vì cái tài, khao khát được Huấn Cao viết cho dòng thư pháp. Trước ngày Huấn Cao bị hành hình, trong nhà ngục tối tăm, ẩm thấp cảnh cho chữ được diễn ra đầy xúc động. Hình tượng viên quản ngục được tác giả xây dựng với những đặc điểm nổi bật, một tâm hồn thánh thiện, khát khao và trân quý cái đẹp.
Viên quản ngục được giới thiệu theo cách trực tiếp trong cuộc đối thoại với thơ lại. Nguyễn Tuân miêu tả viên quản ngục với một vài nét đặc trưng về ngoại hình: "băn khoăn ngồi bóp thái dương", "đều đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu", "bộ mặt tư lự", bộc lộ hình ảnh của một con người từng trải, giàu trải nghiệm. Những nét miêu tả ấy không chỉ mang đến cho người đọc những hình dung về diện mạo, tuổi tác, phong thái của viên quản ngục mà còn góp phần khắc sâu thế giới nội tâm nhân vật. Bên trong con người có vẻ đăm chiêu kia dường như đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự day dứt. Hình ảnh con người điềm tĩnh, kín đáo, có phần khắc khổ, hoàn toàn khác với vẻ ngoài hống hách, tàn ác của viên quan coi ngục thông thường. Người đọc bỗng đặt ra câu hỏi rằng, tại sao một con người có gương mặt suy tư như thế lại làm một cái nghề đi ngược với thiên lương của mình như vậy?
Nhân vật làm nghề coi ngục, đại diện cho giai cấp thống trị, biểu tượng của cái ác, của sự hà khắc trong giai cấp phong kiến nhưng lại có tình yêu cháy bỏng cho cái đẹp. Dưới góc độ nghề nghiệp, vị thế của quản ngục khác hoàn toàn so với Huấn Cao. Nhưng nhà văn đã chú trọng miêu tả cái tâm, một nhân cách đẹp đẽ tỏa sáng nơi ngục tù tăm tối. Điều này thể hiện qua thái độ tiếp nhận tù nhân và sự biệt đãi đối với Huấn Cao như "bảo ngục tốt quét dọn lại buồng giam tươm tất, sạch sẽ", những ngày Huấn Cao ở tù cũng ngày ngày dâng rượu thịt với thái độ cung kính. Đây quả là một sự đối đãi quá sức đặc biệt đối với một tù nhân. Mặc dù lúc đầu bị Huấn Cao khinh bỉ đuổi đi, nhưng người quản ngục vẫn đều đặn tỏ lòng kính trọng, vẫn dâng rượu thịt, thậm chí còn hậu hĩnh hơn trước.
Lạ kì thay, kẻ tử tù thì ra oai, khinh bạt, kẻ coi tù lại nhịn nhục, hạ thấp mình. Sự đối lập giữa vị thế và cách ứng xử của nhân vật đã khẳng định cai ngục là người hết mực trân trọng cái tài, cái đẹp. Chính bản thân quản ngục cũng không hề oán than thái độ của Huấn Cao mà còn tự ý thức rằng:" Mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù". Ông ý thức sâu sắc về mình, về vị thế của bản thân. Thật nghịch lý khi một kẻ thống trị lại tự nhận mình thấp kém. Phải chăng, cái nghịch lý ấy đã lý giải được tấm lòng nhân vật trước cái tài, cái đẹp cốt lõi trong tâm hồn con người. Không phải ai cũng có những hiểu biết về Huấn Cao nổi tiếng viết chữ đẹp. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, quản ngục là người có vẻ đẹp "Thiên lương trong sáng", một bản chất lương thiện trời phú. Nguyễn Tuân cũng từng có những liên tưởng rất thú vị về nhân vật này, một :nốt nhạc đẹp, một nốt sáng vút cao giữa bản đàn hỗn loạn, xô bồ".
Viên quản ngục còn là một người có nhân cách đẹp, biểu tượng của cái đẹp đặt trên cái trần tục tầm thường. Nguyễn Tuân từng khẳng định: "Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã". Phải chăng, giữa đống cặn bã của ngục tù, hình ảnh viên quản ngục chính là viên ngọc trong trẻo, sáng rỡ. Vẻ đẹp nhân cách được thể hiện ở việc nhân vật này luôn lấy cái tài hoa, khí phách và nhân cách để làm thước đo giá trị con người. Đối với thầy thơ lại, viên quản ngục nghĩ rằng "hắn cũng như mình, cũng chọn nhầm nghề mất rồi". Một kẻ kính mến khí phách, con mắt nhìn người sâu sắc, lấy tiêu chí từ vẻ đẹp tài hoa chứ không xuất phát từ xuất thân hay vẻ ngoài. Vẻ đẹp tâm hồn còn được thể hiện qua khát vọng xin chữ, "sở nguyện" của cả đời người.
Đó là hoài bão, khát vọng làm sao để xin được chữ của Huấn Cao. Trong lòng viên quản ngục chỉ băn khoăn rằng mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất. Chơi chữ là một nghệ thuật, người chơi chữ phải là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt thẩm mĩ vượt lên trên cái tầm thường. Với quản ngục, nét chữ của Huấn Cao giống như một báu vật, trân trọng nét chữ hay chính là trân trọng nhân cách và giá trị con người. Tấm lòng của quản ngục với Huấn Cao là tấm lòng trân trọng cái tài. Chừng nào vẫn có những con người sáng tạo ra cái đẹp, chừng đó vẫn có những con người khát khao nâng giữ và vinh danh cái đẹp đó.
Tài năng xây dựng nhân vật với những nét đặc trưng điển hình, ngôn từ mĩ miều và cách thức để nhân vật tự bộc lộ tính cách qua lời nói và hành động, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng một nhân vật thứ chính nổi bật với những đức tính tốt đẹp. Đặc biệt, nhân vật này cũng yêu cái đẹp, tôn sùng cái đẹp như chính cái cách mà Nguyễn Tuân quan niệm về đời sống, văn chương và xã hội.
Một nền văn học lớn là một nền văn học có nhiều phong cách, một nhà văn lớn là một nhà văn xây dựng cho mình một phong cách riêng độc đáo. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Phong cách nghệ thuật nổi bật của ông chính là tài hoa uyên bác và là một người suốt đời đi tìm cái đẹp. Chính bởi phong cách ấy mà những tác phẩm của ông mang đậm sự tài hoa uyên bác. Đặc biệt là chữ người tử tù, trong tác phẩm ấy ngoài nhân vật Huấn Cao ta cũng không thể nào không nhắc đến nhân vật Viên quản ngục. Dưới ngòi bút tài hoa uyên bác, một bậc phù thủy ngôn ngữ chẻ sợi tóc làm tư nhân vật ấy hiện lên cũng thật đáng chú ý.
Chữ người tử tù là một trong những truyện trong tập vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn tuân. Tập truyện viết về những thói quen xưa cũ nay chỉ còn vang bóng mà thôi. Trong đó chữ người tử tù kể về một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ giữa nhân vật viên quản ngục và Huấn Cao. Không gian gặp gỡ là nhà tù nơi ngự trị của bóng tối và là kẻ thù của cái đẹp. Thời gian là những ngày cuối cùng của tử tù Huấn Cao. Ta thấy được cái tình huống éo le ấy nhưng còn thấy được sự éo le hơn trong chính thân phận của họ. Viên quản ngục là đạo diện cho triều đình còn Huấn Cao thì lại chống lại triều đình. Những trên bình diện nghệ thuật thì họ không còn là kẻ thù của nhau nữa. Huấn Cao viết chữ đẹp còn viên quản ngục thì lại yêu thích say đắm cái đẹp. Chính vì thế mà trên bình diện nghệ thuật họ là những người tri kỉ. Và đồng thời xuất phát từ tình huống truyện ấy ta cảm nhận được vẻ đẹp của viên quản ngục như những nốt nhạc thánh thót thanh cao trong một bản nhạc xô bồ.
Viên quản ngục là một người có sở thích sở nguyện cao quý. Đó chính là thích chữ đẹp của Huấn Cao. Nếu như sở thích của những viên quan tầm thường là vàng bạc hư danh, quyền quý an nhàn thì viên quản ngục trong tác phẩm này thì lại hoàn toàn ngược lại. Ông là một người có những sở thích và sở nguyện cao quý. Ông có tầm nhìn xa trông rộng và tâm tưởng thì hoàn toàn thoát khỏi những cám dỗ của vật chất cũng như những bóng tối của ngục tù. Ông làm quan nhưng không hề hống hách mà chỉ biết làm tròn nhiệm vụ của bản thân mình. Ông giống như một âm thanh trong trẻo trong bản nhạc xô bồ ấy. Sở nguyện của ông là một ngày kia có một bức tranh chữ của Huấn Cao viết mà treo trong nhà thì quả thật là nhất.
Cái sở nguyện yêu chuộng những giá trị văn hóa truyền thống ấy cho thấy được cái tâm hồn trong trẻo của ông. Mặc dù làm một tên quan cai ngục nhưng ông không đánh mất đi cái sự lương thiện trong bản thân mình. Ông không hề phụ thuộc vào triều đình. Khi biết Huấn Cao đến thì ông đã tìm mọi cách để xin chữ của ông dẫu biết rằng một khi bại lộ ra thì ông sẽ có thể mất đầu. Ta cảm nhận được ở con người ông những giá trị tôn vinh cái đẹp, tâm hồn ông không bị nhà ngục kia vấy đen. Trong cái nơi chỉ có sự đánh đập trả thù tra tấn đến dã man ấy mà tâm hồn ông vẫn sáng lấp lánh như một viên ngọc quý trong đêm. Kể cả khi việc xin chữ ấy gặp khó khăn khi Huấn Cao không hiểu được nỗi lòng của ông nhưng ông vẫn giữ niềm hi vọng và sở nguyện cao quý ấy. Có biết đến viên quản ngục chúng ta mới có thể hiểu hết được con người chúng ta. Nhiều khi cái chức vụ hay thân phận kia không quyết định đến lối sống và tâm hồn của họ.
Không chỉ là một người yêu chuộng cái đẹp và có sở nguyện cao quý mà viên quản ngục còn là một người rất biết trân trọng những con người tài giỏi như Huấn Cao nữa. Khi có phiến tráp báo rằng tên tội phạm nguy hiểm của triều đình sẽ được đưa đến đây trong vài ngày sau đó mới mang ra xử trảm thì viên quản ngục đã tỏ ra rất vui mừng khi gặp được người mà mình nể phục. những đồng thời ông cũng thấy tiếc cho con người tài giỏi ấy mà lại phải chuốc lấy cái chết. Được biết Huấn Cao có tài bẻ khóa vượt ngục nhưng viên quản ngục không mấy quan tâm về điều đó mà cái ông quan tâm là làm sao có thể tiếp cận được con người anh hùng ấy để xin chữ mà thôi. Ông trân trọng Huấn Cao thiết đãi Huấn Cao và những người bạn của Huấn Cao thịt rượu hàng ngày. Điều đó thể hiện sự trân trọng những con người tài giỏi của viên quản ngục. Thế rồi ông lân la hỏi Huấn Cao có cần gì thì cứ nói viên quản ngục sẽ thiết đãi. Mặc dù ở đó viên quản ngục là chủ nhưng khi muốn xin chữ và trân trọng người tài cho nên viên quản ngục hạ mình xuống xưng hô như một người bề dưới. Khi Huấn Cao quát mắng ông thì ông cảm thấy buồn nhưng ông không trách vì ông nghĩ rằng những kẻ chuyên chọc trời khuấy nước chỉ quen ngồi trên đầu người ta thôi.
Không những thế những hành động ấy của viên quan coi ngục chính là thể hiện sự trân trọng và đề cao những giá trị văn hóa của ông. Thái độ trân trọng nghệ thuật thư pháp chính là trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong nhà tù ấy bóng tối không nhuốm đen tâm hồn của viên quản ngục. Sức mạnh của cái đẹp làm cho tâm hồn của viên quản ngục vẫn thiên lương trong sáng lắm. Chính vì thế mà ông nhất định phải xin bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao quyết định cho chữ viên quản ngục cảm thấy rất vui, ông như nhận ra nhiều điều, nhận thấy cả cái cách chọn nghề sai của mình nữa. Ông thể hiện thái độ kính trọng trước những lời dặn dò cuối cùng của một người tử tù. Viên quan ấy hứa rằng sau khi nhận được chữ của Huấn Cao thì sẽ trở về quê sống để giữ cái thiên lương trong sáng của bản thân mình. Hai dòng nước mắt của ông khẽ rơi như thể hiện sự hối hận của mình. Qua đó ta thấy được viên quản ngục đúng là một người có thiên lương trong sáng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà quên đi cả sự an toàn của bản thân.
Một lần nữa ta phải trầm trộ tài năng uyên bác của Nguyễn Tuân. Ông không những xây dựng được một nhân vật chính chuẩn mực mà đến một nhân vật phụ như viên quản ngục cũng để lại rất nhiều giá trị con người. Vẻ đẹp trong con người viên quản ngục cũng sáng lấp lánh. Cánh cửa nhà tù không thể nào cướp đi cái thiên lương trong sáng cùng sở nguyện cao quý của ông. Chuyện kết thúc cũng là lúc viên quản ngục tay nải về quê sống với thiên lương trong sáng của mình.
Viên quản ngục là người làm nghề coi ngục, một công cụ của bộ máy thống trị lúc bấy giờ. Cuộc sống trong nhà tù thường gắn liền với tội ác, gắn liền với sự nhem nhuốc, xấu xa. Vậy tại sao tác giả lại ví viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ? Để hiểu được điều đó, trước hết ta phải biết thế nào là “âm thanh trong trẻo”, thế nào là “bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Về nghĩa đen, ta thấy “thanh âm trong trẻo” là thanh âm cao, trong, vút lên trong bản đàn mà người ta dễ nhận biết. “Bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” là âm sắc phát ra từ tiếng đàn không hòa hợp với nhau để tạo nên vần điệu cho bản nhạc. Về nghĩa bóng thì “âm thanh trong trèo” chỉ cái tâm trong sáng, thiên lương của viên quản ngục. Viên quản ngục biết quý trọng người tài, biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Còn “bản đàn mà nhạc luật hỗn loạn, xô bồ” ý muốn nói đến nhà tù mà viên quản ngục đang canh giữ. Là nơi thường diễn ra những đòn roi tra tấn, những hành vi chà đạp lên đạo đức xã hội. Tóm lại nơi đây làm cho tâm hồn con người trở nên mục ruỗng đi.
Giữa môi trường xấu xa như vậy nhưng viên quản ngục lại là người có những phẩm chất đáng quý. Trước hết, viên quản ngục là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Viết chữ đẹp và thưởng thức chữ đẹp là thú chơi thanh tao của người xưa. Ngay từ thời còn trẻ, viên quản ngục đã có thú chơi thanh tao đó. “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Rõ ràng phải là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp, viên quản ngục mới ước muốn có được chữ của ông Huấn Cao để treo trong nhà. Trong những ngày Huấn Cao ở trong nhà ngục do mình trông coi, viên quản ngục luôn nhẫn nhục để xin cho bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao trả lời câu hỏi của mình với thái độ khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”, viên quản ngục không nổi trận lôi đình mà lại còn lễ phép lui ra với một câu “Xin lĩnh ý!”. Một điều đáng nói nữa là “Viên quản ngục mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết cho… mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện”. Việc mua sẵn mấy vuông lụa trắng cũng đã đủ chứng minh viên quản ngục rất mong có được chữ của ông Huấn Cao. Viên quản ngục rất lo lắng. “Y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà. không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Khi có công văn, ngày mai tinh mơ, ông Huấn Cao và các bạn tù của ông phải giải về kinh chịu án tử hình thì “viên quản ngục tái nhợt người đi”, cho gọi viên thơ lại lên và kể rõ tâm sự của mình cho thầy thơ lại biết. Sự trân trọng cái đẹp còn thể hiện qua thái độ của viên quản ngục khi nhận được chữ của ông Huấn Cao cho. “Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Việc giữ lại những vuông lụa trắng có chữ viết của Huấn Cao chính là ý thức muốn lưu.giữ cái đẹp, bảo vệ cái đẹp.
Không chỉ là người biết yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp và giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người biết quý trọng người tài. Mới nghe tin trong những người tử tù ngày mai đến ở có Huấn Cao, viên quản ngục đã cho người lo chu đáo chỗ ở cho những người tù. Điều đó được thể hiện qua ý nghĩ của viên quản ngục khi chuẩn bị đón tù. Viên quản ngục nghĩ về thầy thơ lại “Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn là không phải kẻ xấu hay là người vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao. Ta muốn cho Ông ta đỡ cơ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, bao giờ viên quản ngục cũng cho viên thơ lại đem rượu đến và lễ phép dâng rượu với đồ nhắm cho Huấn Cao. Không những vậy, “năm bạn đồng chí” của ông Huấn Cao “cũng đều được biệt đãi như thế cả”. Đặc biệt khi nhận được công văn ngày mai, vào sáng sớm những người tử tù phải giải về kinh thì viên quản ngục “tái nhợt người đi”. Thái độ đó thể hiện sự tiếc thương của viên quản ngục đối với người tài đức như Huấn Cao.
Biết yêu cái đẹp, biết trân trọng giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người có thiên lương trong sáng. Thiên lương chính là bản tính tốt của con người do trời phú cho. Vậy viên quản ngục là người có bản tính tốt. Sống giữa chốn lao tù, đầy rẫy tội ác mà tâm hồn viên quản ngục không hề bị nhuốm bẩn. Ông biết nhận rõ đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tốt và đâu là xấu. Quả thực “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tự mình ông cũng đã biết mình chọn “nhầm nghề”. Vì vậy, khi Huấn Cao có lời khuyên “Ở đây lẫn lộn cả. Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người (…) Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” thì viên quản ngục đã kính cẩn tiếp nhận lời khuyên “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Qua phân tích, ta thấy viên quản ngục đúng là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều xô bồ.
Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật viên quản ngục. Lấy cái nền là nhà tù, Nguyễn Tuân muốn gửi đến độc giả một thông điệp quý giá: con người phải luôn vượt lên trên hoàn cảnh sống, vượt lên chính mình. Nguyễn Tuân thành công khi xây dựng nhân vật này còn bởi ông am hiểu thấu đáo về hiện thực cuộc sống, về diễn biến tâm trạng của con người. Qua nhân vật viên quản ngục, người đọc rút ra rằng: muốn yêu cái đẹp, muốn thưởng thức cái đẹp, muốn lưu giữ bảo vệ cái đẹp trước hết phải biết sống đẹp, sống tốt.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.