SBT Ngữ Văn 8 (Chân trời sáng tạo) Bài 2: Những bí ẩn của thế giới tự nhiên

251

Toptailieu.vn biên soạn và giới thiệu lời giải SBT Ngữ Văn 8 (Chân trời sáng tạo) Bài 2: Những bí ẩn của thế giới tự nhiên hay, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời câu hỏi SBT Ngữ văn 8 từ đó học tốt môn Ngữ văn 8.

SBT Ngữ Văn 8 (Chân trời sáng tạo) Bài 2: Những bí ẩn của thế giới tự nhiên

I. Đọc (trang 19 SBT Ngữ Văn 8)

Câu 1 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Trình bày khái niệm của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên.

Trả lời:

Văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên là loại văn bản thông tin nhằm giới thiệu những hiểu biết khoa học cơ bản về hiện tượng đó.

Câu 2 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Cấu trúc của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên thường gồm mấy phần? Nội dung chính của từng phần là gì?

Trả lời:

Cấu trúc của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên thường gồm 3 phần:

+ Phần mở đầu: giới thiệu khái quát về hiện tượng hoặc quá trình xảy ra hiện tượng trong thế giới tự nhiên.

+ Phần nội dung: giải thích nguyên nhân xuất hiện và cách thức diễn ra của hiện tượng tự nhiên.

+ Phần kết thúc (không bắt buộc): thường trình bày sự việc cuối của hiện tượng tự nhiên hoặc tóm tắt nội dung giải thích.

Câu 3 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Nhận định nào sau đây KHÔNG PHẢI là đặc điểm về cách sử dụng ngôn ngữ của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên?

a. Thường sử dụng từ ngữ thuộc một chuyên ngành khoa học cụ thể.

b. Thường sử dụng động từ miêu tả hoạt động hoặc trạng thái.

c. Thường sử dụng câu khiến để chỉ hành động hoặc yêu cầu thực hiện.

d. Thường sử dụng từ ngữ miêu tả trình tự của một hoạt động.

Trả lời:

Đáp án C

Câu 4 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Trình bày khái niệm và dấu hiệu nhận biết cách trình bày thông tin theo cấu trúc so sánh và đối chiếu trong văn bản thông tin.

Trả lời:

- Cách trình bày thông tin theo cấu trúc so sánh và đối chiếu trong văn bản thông tin là trình bày điểm giống và khác nhau giữa hai hay nhiều sự vật theo các tiêu chí so sánh cụ thể.

- Dấu hiện nhận biết:

+ So sánh và đối chiếu các đối tượng theo từng tiêu chí.

+ So sánh tổng thể các đối tượng: Người viết lần lượt trình bày biểu hiện của tất cả các tiêu chí ở từng đối tượng.

Câu 5 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên thường mang đến những hiệu quả biểu đạt như thế nào?

Trả lời:

Hiệu quả biểu đạt của việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên:

- Minh họa trực tiếp cho nội dung thông tin được trình bày trong văn bản, giúp người đọc dễ hiểu, dễ hình dung hơn về thông tin của văn bản.

- Có thể cung cấp thêm (những) thông tin mới về đối tượng, những thông tin ấy có thể chưa được đề cập bằng những phương tiện ngôn ngữ trong văn bản.

Câu 6 trang 19 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi:

Vì sao bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn thường có màu sắc đẹp?

Bình minh và hoàng hôn thường là hai thời điểm bầu trời có màu sắc đẹp nhất trong ngày. Vì sao lại như vậy? Nói ngắn gọn, vẻ đẹp kì diệu ấy có được là nhờ ánh sáng và ánh sảng lại có màu. Dù bạn tin hay không thì sự thật là ánh sảng xung quanh bạn chính là sự kết hợp của tất cả màu sắc trên thế giới này.

Nếu ánh sáng xung quanh ta có màu thì vì sao chúng ta chỉ nhìn thấy một số màu trên bầu trời vào những thời điểm nhất định chứ không phải tất cả các màu? Và vì sao màu sắc bầu trời lúc bình minh, hoàng hôn lại thường có vẻ đẹp huyền diệu, mê hoặc đến như vậy? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc ấy. Trước tiên, chúng ta cần biết ngày chuyển sang đêm như thế nào.

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi: Vì sao bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn

Trái Đất di chuyển trong không gian

Hành tinh của chúng ta di chuyển trong không gian cùng với bảy hành tinh khác ở gần. Tất cả các hành tinh này vừa tự xoay quanh mình vừa xoay quanh Mặt Trời. Nếu Mặt Trời lặn hay hoàng hôn ở đâu thì nơi đó đang khuất dần khỏi ánh sáng Mặt Trời và quay lưng lại với Mặt Trời. Còn nếu Mặt Trời mọc hay bình minh ở đâu thì nơi đó lại chuyển sang hướng mặt về phía Mặt Trời. Đêm khuya là khi chúng ta hoàn toàn quay lưng lại Mặt Trời. Còn ban ngày là khi chúng ta đối diện trực tiếp với Mặt Trời và các chùm tia Mặt Trời chiếu (cực nhanh) thẳng vào chúng ta.

Mặc dù chúng ta quan sát bằng mắt thường không thể phân biệt được, nhưng các chùm tia sáng từ Mặt Trời đến Trái Đất có kich thước khác nhau. Các nhà khoa học đo kích thước các chùm tia này bằng “bước sóng”. Mỗi bước sóng ánh sáng có một màu sắc riêng của nó.

Trái Đất được bao bọc bởi khí quyển của mình

Như vậy, chúng ta đã biết vì sao bầu trời lại sáng vào ban ngày và tối vào ban đêm, các chùm tia sáng Mặt Trời có kích thước khác nhau hay có bước sóng khác nhau.

Tuy nhiên, làm sao mà chúng ta nhỉn thấy những màu sắc rực rỡ vào lúc bình minh và hoàng hôn? Đó là nhờ một “tầm chăn” không khí rất quan trọng luôn bao bọc lấy Trái Đất, tấm chăn đó chính là khí quyển. Khí quyển của Trái Đất được tạo nên bởi rất nhiều vật thể bé li ti gọi là các phân tử. Trên thực tế, tất cả mọi vật đều có cấu tạo từ các phân tử, kể cả cơ thể chúng ta. Một phân tử nhỏ hơn rất nhiều so với một hạt cát. Phân từ nhỏ đến nỗi chúng ta không thể nhin bằng mắt thường mà phải nhờ đến kính hiển vi mới có thể quan sát dược, còn mắt thường chỉ nhìn thấy những vật được tạo thành từ các phân tử.

Khí quyển “chơi đùa" với ánh sáng

Khi các chùm sáng Mặt Trời đến Trái Đất, chúng gặp các phân tử trong khí quyển của Trái Đắt. Các phân từ này bắt đầu kết hợp với ánh sáng, đấy ánh sáng qua lại giữa các phân tử. Hiện tượng này gọi là “phân tán ánh sáng”.

Ánh sáng có bước sóng càng dài thì nó cảng phân tán được lâu giữa các phân tử trong khí quyển của Trái Đất trước khi nó yếu đi và quay trở lại không gian. Ánh sáng xanh dương có bước sóng ngắn hơn ánh sáng đỏ hoặc ánh sáng hồng. Điều đó có nghĩa là ánh sáng xanh dương chỉ có thể va đập giữa các phân tử trong một khoảng cách ngắn hơn ánh sáng hồng hoặc đỏ. Nơi nào đang đối diện trực tiếp với Mặt Trời (vào ban ngày) thì nơi đó ánh sáng sẽ đi qua lớp khí quyền ít hơn, mông hơn. Vì vậy, ánh sáng xanh dương có thể dễ dàng lọt qua phía bên kia, nhở đó mà chúng ta có được bầu trời màu xanh.

Màu sắc lúc bình minh và hoàng hôn

Chúng ta biết rằng Trái Đất tự xoay quanh mình. Hoàng hôn ở nơi nào thì nơi đó đang quay mặt dần khởi Mặt Trời và không đối diện trực tiếp với Mặt Trời nữa. Điều này có nghĩa là ánh sáng Mặt Trời phải đi qua một lát cắt khi quyển dày hơn để chiếu đến nơi đó. Hiện tượng này cũng xảy ra vào lúc bình minh khi nơi đó hướng dần về phía Mặt Trời.

Để đi qua quãng đường dài hơn đó của khí quyển, ánh sáng xanh dương “mệt mỏi” và không thể trụ vững được nữa, do đó hầu hết ánh sáng xanh này quay trở lại vũ trụ. Tuy nhiên, ánh sáng đỏ, cam và vàng lại có bước sóng dài hơn, nghĩa là chúng có thể phân tán lâu hơn và đi qua lớp khí quyển dày hơn để đến được với mắt người quan sát trên bề mặt Trái Đất. Chính vì thế, chúng ta thường nhìn thấy bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn có màu sắc rực rỡ, đẹp mắt.

Đặc biệt, vào những lúc không khí khô, các phân tử khói, bụi trong không khí dày đặc hơn khiến cho ánh sáng bị tán xạ nhiều hơn. Lúc đó, bình minh và hoàng hôn có màu sắc đỏ rất huyền diệu và kì bí.

(Theo Phạm Hường, Bảo Tuấn, https: //dantri.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/vi-sao-bau-troi-luc-binh-minh-va-hoang-hon-thuong-co-mau-sac-dep-20210118154633532.htm; https: //tienphong vn/vi-sao-binh-minh-va-hoang-hon-co-mau-do-post1046434.tpo)

a. Vẽ sơ đồ cấu trúc của văn bản trên và tóm tắt nội dung từng phần đã xác định.

b. Xác định (những) thông tin cơ bản của văn bản. Các chi tiết trong văn bản đã góp phần hỗ trợ thể hiện (những) thông tin cơ bản ấy ra sao? Hãy lí giải.

c. Đặc điểm của cách sử dụng ngôn ngữ trong văn bản có cho thấy đây là văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên không? Vì sao?

d. Xác định cách trình bày thông tin của đoạn trích sau và cho biết tác dụng của cách trình bày ấy: “Hành tinh của chúng ta di chuyển trong không gian cùng với bảy hành tinh khác ở gần ... Còn ban ngày là khi chúng ta đối diện trực tiếp với Mặt Trời và các chùm tia Mặt Trời chiếu (cực nhanh) thẳng vào chúng ta.”

đ. Văn bản đã sử dụng (những) loại phương tiện phi ngôn ngữ nào? Hiệu quả biểu đạt của chúng là gì?

e. Việc hiểu biết về những thông tin trên đem đến cho em cảm nhận gì về thế giới tự nhiên? Từ đó, em có suy nghĩ gì về quan niệm cho rằng con người có thể chế ngự, kiểm soát và khai thác thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình?

Trả lời:

a.

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi: Vì sao bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn

 

b.

(Những) thông tin cơ bản của văn bản

Các chi tiết góp phần hỗ trợ thể hiện những thông tin cơ bản

Cách thức Trái Đất di chuyển trong không gian và tạo ra ngày – đêm

- Chi tiết về cách trình bày đề mục “Trái Đất di chuyển trong không gian”

- Chi tiết về cách Trái Đất vừa tự xoay quanh mình vừa xoay vòng quanh Mặt Trời.

- Chi tiết ánh sáng từ Mặt Trời đến Trái Đất có bước sóng khác nhau.

- Chi tiết hình ảnh minh họa về thứ tự sắp xếp bước sóng của các loại ánh sáng

Trái Đất được bao bọc bởi bầu khí quyển xung quanh mình.

- Chi tiết về cách trình bày đề mục “Trái Đất được bao bọc bởi khí quyển của mình”.

- Chi tiết về sự cấu tạo bầu khí quyển của Trái Đất.

Cách thức diễn ra hiện tượng “phân tán ánh sáng” khi các chùm sáng từ Mặt Trời đến Trái Đất.

- Chi tiết về cách trình bày đề mục “Khí quyển “chơi đùa” với ánh sáng”.

- Chi tiết về cách thức các phân tử trong khí quyển của Trái Đất kết hợp với ánh sáng và đầy ánh sáng qua lại giữa các phân tử, tạo nên hiện tượng “phân tán ánh sáng”.

- Chi tiết về các ánh sáng có bước sóng ngăn và bước sóng dài, minh họa về bước sóng của ánh sáng xanh dương.

Nguyên nhân bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn thường có màu sắc rực rỡ và đẹp mắt.

- Chi tiết về cách trình bày đề mục “Màu sắc lúc bình minh và hoàng hôn”.

- Chi tiết về quãng đường của ánh sáng từ Trái Đất đến Mặt Trời vào lúc bình minh và hoàng hôn.

- Chi tiết về sự phân tán ánh sáng xanh dương và ánh sáng đỏ, cam, vàng vào lúc bình minh và hoàng hôn.

- Các chi tiết của văn bản ở cả phương diện hình thức (cách trình bày đề mục, sử dụng hình ảnh minh họa) và nội dung (các chi tiết được trình bày cụ thể trong từng phần của văn bản) cùng tập trung, hướng đến việc làm rõ và nổi bật các thông tin cơ bản. Ngược lại, các thông tin cơ bản cũng góp phần định hướng việc lựa chọn, sử dụng các chi tiết trong văn bản.

c. - Đặc điểm của cách sử dụng ngôn ngữ trong văn bản Vì sao bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn thường có màu sắc đẹp? cho thấy đây là văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên.

- Lí giải:

+ Một số từ ngữ thuộc chuyên ngành khoa học thiên văn như: hành tinh, không gian, Mặt Trời, Trái Đất, khí quyển,….; chuyên ngành quang học như: ánh sáng, bước sóng, phân tán ánh sáng,….

+ Động từ/ cụm động từ miêu tả hoạt động hoặc trạng thái như: xoay, lặn, mọc, khuất, quay, bao bọc, phân tán, va đập,…

d. - Cách trình bày thông tin của đoạn trích: so sánh, đối chiếu.

- Tác dụng của trình bày thông tin ấy: giúp người đọc hình dung rõ hơn sự khác nhau về cách di chuyển của Trái Đất trong không gian và vị trí của người đứng trên Trái Đất so với Mặt Trời vào thời điểm hoàng hôn và bình minh.

đ. - Loại phương tiện phi ngôn ngữ mà văn bản sử dụng: hình ảnh.

- Hiệu quả biểu đạt trong văn bản: làm cho thông tin của văn bản trở nên trực quan, rõ ràng hơn, giúp người đọc để hình dung hơn nội dung văn bản.

e. - Việc hiểu biết về những thông tin đã cho em những thông tin bổ ích và thú vị về thế giới tự nhiên.

- Quan niệm cho rằng con người có thể chế ngự, kiểm soát và khai thác thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình là quan niệm đúng. Bởi con người đã có thể sử dụng những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ nhu cầu sống của con người.

II. Tiếng Việt (trang 23 SBT Ngữ Văn 8)

Câu 1 trang 23 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Thế nào là đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp, đoạn văn song song và đoạn văn phối hợp?

Trả lời:

- Đoạn văn diễn dịch là đoạn văn có câu chủ đề mang ý khái quát đứng đầu đoạn; các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề.

- Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát và câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn.

- Đoạn văn song song là đoạn văn trong đó các câu triển khai nội dung song song nhau. Mỗi câu nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đoạn văn.

- Đoạn văn phối hợp là đoạn văn kết hợp diễn dịch với quy nạp. Kiểu đoạn văn này có câu chủ đề đứng ở đầu và ở cuối đoạn.

Câu 2 trang 23 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Vẽ sơ đồ phác hoạ mô hình của đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp và đoạn văn song song.

Trả lời:

- Sơ đồ phác họa mô hình của đoạn văn diễn dịch

Vẽ sơ đồ phác hoạ mô hình của đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp và đoạn văn song song

- Sơ đồ phác họa mô hình đoạn văn quy nạp

Vẽ sơ đồ phác hoạ mô hình của đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp và đoạn văn song song

- Sơ đồ phác họa mô hình đoạn văn song song

Vẽ sơ đồ phác hoạ mô hình của đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp và đoạn văn song song

Câu 3 trang 23 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Nêu đặc điểm của câu chủ đề trong một đoạn văn. Trình bày ít nhất hai kinh nghiệm mà em có được về việc viết câu chủ đề của đoạn văn.

Trả lời:

- Câu chủ đề là câu mang nội dung khái quát của toàn đoạn văn, có thể đứng đầu hoặc cuối đoạn.

- Kinh nghiệm khi viết câu chủ đề:

+ Đối với đoạn văn diễn dịch chúng ta hãy viết luôn câu chủ đề

+ Đối với đoạn văn quy nạp thì chúng ta sẽ viết các ý phụ trước rồi mới đến câu chủ đề của đoạn văn.

Câu 4 trang 23 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Xác định cấu trúc của các đoạn văn sau và tìm câu chủ đề của mỗi đoạn văn (nếu có):

a. Cũng như các dân tộc trên toàn cầu, lửa trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống

- xã hội các dân tộc Tây Nguyên. Theo quan niệm truyền thống, Yang Apui (thần Lửa) thường ngự trị trong bếp lửa gia đình - ngài là vị thần hiện thân cho sự may mắn, cho sự sinh sôi nảy nở, cho sự phát triển. Đặc biệt hơn, thần Lửa trong những ngôi nhà dài trở thành sợi dây liên kết cuộc đối thoại vĩnh hằng của con người qua nhiều thế hệ, là sức mạnh thiêng liêng cho sự khởi nguồn của mọi câu chuyện đời thường, của tình yêu đôi lửa, của hôn nhân gia đình, của ước mơ khát vọng, của buồn vui hờn dỗi. Thần Lửa như một nhân chứng quan trọng chứng kiến sự hiện diện của con người từ khi lọt lòng mẹ trong nghi lễ thổi tai cho đến lễ thành đinh, lễ trưởng thành, cưới hỏi, kết nghĩa, ... và đến thời khắc con người từ giã trung giới về với thể giới thần linh.

(Tuyết Nhung Buôn Krông, Bếp lửa - Linh hồn của nhà đài Tây Nguyên, https://heritagevietnamairlines.com/bep-lua-linh-hon-cua-nha-dai-tay-nguyen/)

b. Theo kết quả của nhiều cuộc khảo sát lớn, người Phần Lan rất thích tham gia những hoạt động giải trí liên quan đến thiên nhiên. 58% người Phần Lan hay đi hải dâu, 35% trượt tuyết xuyên quốc gia, thường là trong bóng đêm của vùng cực, dưới ánh sảng của những công viên thành phố rộng lớn. 70% thường xuyên đi bộ leo núi, trong khi trung bình chỉ có 30% người châu Âu và người Mỹ tham gia hoạt động này. 50% người Phần Lan đạp xe đạp, 20% chạy bộ, 30% dắt chó đi dạo. Và một hoạt động nữa mà tôi đặc biệt yêu thích: 5% dân số nước này, tức khoảng 250 000 người, tham gia trượt tuyết đường đài. Tổng cộng lại, có hơn 95% người Phần Lan thường xuyên chơi đua ngoài trời.

(Theo Florence Williams, Tinh thần sống xanh, Phạm Mây Mây (dịch), NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2019, tr. 162, 163)

c. Trong những năm gần đây, lượng rác thải nhựa tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Nếu như năm 2014, con số này la khoang 1,8 triệu tần/ năm, thì đến năm 2016 tăng lên khoảng 2,0 triệu tấn/ năm và hiện nay khoảng 3,27 triệu tấn/ năm. Khối lượng rác thải nhựa đổ ra biển mỗi năm khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn/ năm (chiếm gần 6% tổng lượng rác thải nhựa xả ra biển của thế giới). Ở Việt Nam, bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1kg tủi nilon/ tháng. Riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trung bình mỗi ngày thải ra mồi trường khoảng 80 tần rác thải nhựa và tủi nilon. Tất cả những số liệu trên cho thấy Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa.

(Theo Mạnh Hùng, Rắc thải nhựa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/bao-ve-moi-truong/-/2018/826009/rac-thai-nhua-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.aspx)

d. Hoa mai no là lúc báo hiệu một mùa xuân nữa lại về. Loài hoa vàng óng khoe sắc rực rỡ dưới những tia nắng ấm của ngày xuân làm cho lòng người hân hoan, phấn khởi. Dân gian quan niệm rằng, nhà nào có mai nở càng nhiều cánh thì nhà đó càng may mắn và sung túc trong năm mới. Chính vì thế, hoa mai luôn được yêu thích và là loài hoa không thể thiếu trong những ngày Tết.

(Theo Quỳnh Như, Ý nghĩa hoa Tết, https://laodong.vn/gia-dinh-hon-nhan/y-nghia-hoa tet-873076.Ido)

đ. Nón là là vật che nắng, che mưa trong đời sống thường nhật của người Việt. Nón lá đã đi vào thơ ca, hội hoạ và nhiếp ảnh để tạo ra nhiều tắc phẩm nghệ thuật đặc sắc. Nón lá là vật trang sức làm nên nét duyên của người con gái: "Gió cầu vương nắng nàng thôn nữ/ Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ" (Đông Hồ). Không chỉ vậy, vật dụng này còn để lại dấu ấn của mình qua những điệu múa nón thướt tha, mang đậm tình thần Việt. Ngày nay, chính sách toàn cầu hóa, mở cửa giao luu về kinh tế và văn hóa với các nước đã đưa chiếc nón lá Việt Nam vươn mình ra ngoài biên giới và trở thành món quà ý nghĩa dành cho du khách quốc tế.

(Theo Phương Linh, Nón lá góp phần lan toả văn hóa Việt, https://laodongthudo.vn/non-la-gop-phan-lan-toa-van-hoa-viet-130752.html)

Trả lời:

a. Cấu trúc đoạn văn: diễn dịch, câu chủ đề: Cũng như các dân tộc trên toàn cầu, lửa trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống – xã hội các dân tộc Tây Nguyên.

b. Cấu trúc đoạn văn phối hợp, câu chủ đề:

Theo kết quả của nhiều cuộc khảo sát lớn, người Phần Lan rất thích tham gia những hoạt động giải trí liên quan đến thiên nhiên (câu chủ đề ở đầu đoạn)

Tổng cộng lại, có hơn 95% người Phần Lan thường xuyên chơi đua ngoài trời (câu chủ đề ở cuối đoạn).

c. Cấu trúc đoạn văn: phối hợp, câu chủ đề:

Trong những năm gần đây, lượng rác thải nhựa tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng (câu chủ đề ở đầu đoạn).

Tất cả những số liệu trên cho thấy Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa (câu chủ đề ở cuối đoạn).

III. Viết (trang 25 SBT Ngữ Văn 8)

Câu 1 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Hoàn thành nội dung sau để xác định khái niệm của kiểu bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên.

Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên thuộc kiểu ..........., được viết để ..............................................

Trả lời:

Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên thuộc kiểu văn bản thông tin, được viết để giới thiệu những hiểu biết khoa học cơ bản về hiện tượng đó.

Câu 2 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Xác định yêu cầu của kiểu văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên.

Trả lời:

Yêu cầu của kiểu văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên:

- Xác định hiện tượng tự nhiên cần giới thiệu, giải thích. Lưu ý chọn những hiện tượng tự nhiên gần gũi với cuộc sống, hấp dẫn và phù hợp với trình độ hiểu biết của lứa tuổi,…

- Tìm hiểu về hiện tượng tự nhiên đã xác định thông qua sách, báo, tài liệu khoa học, Internet; đặc biệt, cần vận dụng các hiểu hiết từ những môn học khác như: Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lí,…

- Dựa vào thông tin thu được từ các tài liệu tin cậy, tổng hợp thành bài viết của cá nhân. Những thông tin, số liệu và nội dung dẫn nguyên văn cần ghi rõ nguồn trích và có thể nêu tên các tài liệu đã tham khảo ở cuối văn bản.

- Tìm ý và lập dàn ý cho bài thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên.

Câu 3 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Trong quá trình trải nghiệm viết văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên, em nhận thấy bản thân và bạn cùng nhóm/ lớp cần phải lưu ý (những) vấn đề gì?

Trả lời:

Những vấn đề cần lưu ý trong quá trình trải nghiệm viết văn bản thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên:

- Các thông tin phải khoa học, đảm bảo đúng sự thật.

- Không nên sử dụng quá nhiều những từ ngữ chuyên ngành gây khó hiểu cho người đọc.

- Tập trung vào một vấn đề để thuyết minh.

Câu 4 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Thực hiện đề bài sau:

Đề bài: Viết một bài văn thuyết minh giải thích về một hiện tượng tự nhiên xảy ra ở địa phương em để cung cấp thông tin về hiện tượng ấy cho mọi người xung quanh được biết.

Trả lời:

Bài viết tham khảo: Thuyết minh giải thích về hiện tượng mưa

Mưa là những giọt nước xinh đẹp mà bầu trời ban tặng cho con người. Có thể chúng chỉ là những hạt nước nhỏ bé, nhưng khi nhiều hạt như thê tập hợp lại thì chúng tạo ra một sức mạnh ghê gớm. Mưa là một hiện tượng thời tiết có ích, nhưng nó cũng có thể tạo ra những cơn lũ lụt giết chết nhiều sinh mạng và tàn phá hơn bất kì một thiên tai nào khác. Đó chính là sức mạnh đáng sợ của những cơn mưa.

Châu Âu vào đầu những năm 1985 bị ảnh hưởng bởi những cơn mưa như trút nước. Phần lớn người dân Hà Lan bị ngập trong nước và họ phải chống chọi cật lực để bảo vệ nhà cửa và tài sản của họ, một cuộc chiến mà con người luôn phải đối mặt từ xưa đến nay. Cách đây không lâu, dòng sông Mi-xi-xi-pi vỡ bờ dẫn đến một trận lụt tồi tệ nhất nước Mĩ trong vòng 66 năm qua. Những trận lũ lụt như thế sẽ làm thiệt hại rất lớn, nhất là khi con người không được cảnh báo.

Một trận lũ bất ngờ đã xảy ra tại một hẻm núi ở bang Cô-lô-ra-đô vào ngày 31-7-1976, khi mà mọi người đang tập trung ở đó nghỉ ngơi nhân dịp 100 năm ngày thành lập bang này. Khi đó dự báo cho biết sẽ có mưa vào buổi chiều, nhưng hầu như không ai chuẩn bị gì để đối phó với tin thời tiết xấu này. Hơn 3000 người rải rác dọc các hẻm núi, họ vui chơi và ca hát một cách vô tư. Vào lúc chiều tôi, một cơn bão xuất hiện, trút xuồng hẻm núi một lượng nước cao hơn 250mm so với mức trung bình. Nước nhanh chóng dâng lên, tạo nên những dòng thác lũ. Chỉ trong 5 phút, những căn lều, những quán cà phê, những ngôi nhà bị cuốn theo dòng nước đang cuồn cuộn gào thét, va vào cây cối rồi vỡ tung thành những mảnh vụn. Khi trời sáng, những chiếc trực thăng vẫn tiếp tục tìm kiếm những người mất tích hay bị kẹt trên các hẻm núi. Hơn 145 người chết, hơn 400 ngôi nhà bị phá hủy, 300 ngôi nhà bị hỏng nặng. 13 ô tô bị chìm sâu dưới đáy sông, mức thiệt hại lên đến 35,5 triệu đô la.

Lũ lụt vẫn tiếp tục hoành hành ở khắp nơi trên đất Mĩ. Năm 1997, ỏ' Têch-dát, một cơn lũ đã cuốn trôi một trường Tiểu học khiến cho 10 em bị chết đuối dù những đội cứu hộ đã hết sức cố gắng.

Sức mạnh của nước nằm ở trọng lượng của nó. Chỉ cần dòng lũ cao 60cm là có thể cuốn trôi một chiếc ô tô dễ dàng. Hơn 60% số người chết trong những trận lũ là do họ mắc kẹt trong xe và bị lũ cuốn đi..

Mưa không chỉ đem lại cho con người tai họa mà nó cũng là yếu tố mang lại sự sống trên trái đất. Không có mưa, trái đất sẽ trở thành sa mạc. Câu chuyện của mưa bắt đầu từ mặt đất, từ những đại dương. Chúng ta biết rằng nước chiếm % bề mặt diện tích của trái đất và dưới ánh nắng mặt trời, nước bốc hơi bay lên cao. Những cơn sóng bắn những hạt nước nhỏ vào không khí góp phần tạo ra hơi nước nhiều hơn. Hơi nước khi lên cao gặp lạnh tạo thành những mảng mây và ngưng tụ thành hạt rồi rơi xuống mặt đất. Nếu chúng ta tập hợp những giọt nước từ một cơn mưa thì một đám mây bình thường cũng có thể nặng khoảng 500 tấn. Trong mỗi đám mây là những hạt nước nhỏ, hàng triệu giọt li ti đó mới tạo thành một giọt nước mưa.

Đo kích thước của một giọt nước mưa từng là một thách thức đối với các nhà khí tượng học khi nghiên cứu về mưa cho đến khi họ tìm ra một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả. Họ sàng phấn hoa vào một cái khay, để nó dưới mưa trong vài giây và sau đó làm khô trong 20 phút với nhiệt độ 177 độ c. Cuối cùng họ sàng lọc một lần nữa để thu lây những hạt mưa hoàn hảo. Những hạt mưa đạt 0,5mm mới được công nhận là mưa còn nếu nhỏ hơn thì được xem là mưa phùn. Mưa phùn có xu hướng hình thành từ những đám mây mỏng. Những hạt mưa lớn thường hình thành trong vùng nhiệt đới khi mà những đám mây ở độ cao nhất và nơi có thể những cơn bão mạnh nhất trên trái đất. Hệ thống rừng nhiệt đới phụ thuộc vào những cơn mưa. Có những vùng mưa suốt 365 ngày trong một năm, nhưng cũng có những nơi không bao giờ mưa hàng trăm năm.

Tuy mưa nhiều, nhưng lũ lụt thì lại rất hiếm khi xảy ra vì mặt đất và những cánh rừng nhiệt đới tựa như những miếng xốp hút nước nhanh chóng. Mưa chỉ là một trạng thái tạm thời của nước. Những hạt mưa thâm qua đất rồi tạo thành những dòng suối đổ ra các đại dương, những giọt nước bốc hơi để bắt đầu một cuộc đời mới.

Mưa có ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, mưa không phân biệt văn hóa, tôn giáo và xã hội. Nó có sức mạnh khủng khiếp, nó có thể tạo ra sự sống nhưng cũng chính là kẻ hủy diệt. Mưa là món quà tuyệt vời nhất nhưng cũng là mối nguy hiểm lớn nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người.

IV. Nói và nghe (trang 25 SBT Ngữ Văn 8)

Câu 1 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Trình bày các bước cần thực hiện khi nghe và nắm bắt nội dung chính trong thảo luận nhóm, trình bày lại nội dung đó.

Trả lời:

Khi nghe và nắm bắt nội dung chính trong thảo luận nhóm, trình bày lại nội dung đó, chúng ta cần thực hiện theo 3 bước sau:

- Bước 1: Chuẩn bị nghe

- Bước 2: Lắng nghe và nắm bắt nội dung chính

- Bước 3: Trình bày lại những nội dung chính đã trao đổi, thảo luận

Câu 2 trang 25 SBT Ngữ Văn 8 Tập 1: Cho tình huống sau:

Em được nhóm bạn mời tham gia thảo luận về vấn đề “Tác hại của rác thải nhựa và những giải pháp cấp thiết để giảm thiểu, xử lí hiệu quả rác thải nhựa trong trường học” và có trách nhiệm ghi chép nội dung thảo luận để trình bày lại cho nhóm mình nghe.

Dựa trên những gì đã học về kĩ năng nghe và nắm bắt nội dung chính trong thảo luận nhóm, trình bày lại nội dung đó, em hãy thực hiện nhiệm vụ của mình trong tình huống trên.

Trả lời:

Bài viết tham khảo

Nội dung ghi chép nội dung thảo luận vấn đề “Tác hại của rác thải nhựa và những giải pháp cấp thiết để giảm thiểu, xử lí hiệu quả rác thải nhựa trong trường học”

1. Khái niệm

Rác thải nhựa là những chất không được phân hủy trong nhiều môi trường bao gồm nhiều loại chai lọ, túi đựng hay đồ chơi cũ…

2. Các nguồn tạo rác thải

Chất thải nhựa sinh hoạt phát sinh từ hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con người từ các nguồn sau:

- Các chợ, tụ điểm buôn bán, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, giải trí, khu văn hóa…

- Khu dân cư, khách vãng lai, các địa điểm du lịch…

- Các thực phẩm dư thừa nilong, nhựa, chai nước nhựa, các chất thải nguy hại…

- Các viện nghiên cứu, cơ quan, trường học…

- Từ sinh hoạt của công nhân trong các công trình xây dựng, cải tạo và nâng cấp, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp…

3. Mối nguy hiểm từ chất thải nhựa

Không thể phủ nhận độ tiện dụng mà đồ nhụa mang lại cho cuộc sống con người nên chúng đã hiện diện ở mọi nơi xung quanh chúng ta. Từ những vật dụng nhỏ bé hàng ngày như: túi nilon, ống hút , hộp đựng thực phẩm... Thế nhưng, đằng sau sự tiện dụng đất là một mối nguy hại cho cả thế giới loài người.

- Do tính chất khó phân hủy nên ngay cả khi được thu gom đưa đi chôn lấp vào đất, chúng vẫn tồn tại hàng trăm năm làm thay đổi tính chất vật lý của đất, đồng thời gây ô nhiễm môi trường đất, làm đất không giữ được nước dẫn đến tình trạng xói mòn, thiếu dinh dưỡng và oxi, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng.

- Nếu xử lý rác thải nhựa không đúng cách. Ví dụ như đốt nhựa không đúng quy chuẩn còn là nguy cơ gây ô nhiễm môi trường không khí, tạo ra hiệu ứng nhà kính và làm ảnh hưởng một cách tiêu cực đến đời sống con người và các sinh vật sống.

- Việc xả thải rác thải nhựa tràn lan trên biển đã gây ra hiện tượng "ô nhiễm trắng" và làm ảnh hường nghiêm trọng đến các loài thủy, hải sản như: Có gần 300 loài sinh vật biển bị vướng hay ăn phải các mảnh rác thải nhựa trên biển, gây phá hủy tế bào, tác động xấu tới hệ tiêu hóa… hoặc làm tắc khí quản gây ngạt thở. Theo thống kê, bình quân trong mỗi con cá chứa khoảng 2,1 mảnh vi nhựa. Đây chính là nguyên nhân gây tử vong cho nhiều loài động vật. Việc trong sinh vật biển chứa nhiều mảnh vi nhựa các rác thải nhựa trôi nổi trên biển cũng là nguyên nhân gây phá huỷ hay suy giảm đa dạng sinh học và làm thay đổi cấu trúc, thành phần của hệ sinh thái biển.

- Rác thải nhựa bị thải ra môi trường hoặc bị chôn lấp, theo thời gian sẽ bị phân rã thành những mảnh nhựa với rất nhiều kích cỡ khác nhau như: micro, nano, pico... Những mảnh vi nhựa này sẽ lẫn vào đất, môi trường và không khí... khiến cho các loài sinh vật biển, chính con người ăn phải, đưa chúng vào cơ thể đe dọa đến sức khỏe.

Còn riêng với những loại rác thải nhựa đốt để xử lý, sẽ sinh ra các loại khí độc bao gồm: khí dioxin, furan… ảnh hưởng rất lớn đến tuyến nội tiết, giảm khả năng miễn dịch, thậm chí gây ung thư.

Trong một số loại túi nilon có thể lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất... vì thế khi đốt cháy gặp hơi nước sẽ tạo thành các loại axit sunfuric gây ra mưa axit vô cùng nguy hiểm đối với sức khỏe con người và sinh vật.

Hiện nay còn có rất nhiều sản phẩm nhựa kém chất lượng được sản xuất với số lượng lớn, trong quá trình sử dụng sẽ sản sinh ra BPA - đây là chất độc hại và gây ra nhiều bệnh lý nguy hiểm ở người như vô sinh, tiểu đường thậm chí gây ung thư…

4. Các biện pháp hạn chế rác thải nhựa trong nhà trường:

- Tuyên truyền, nâng cao ý thức của mỗi học sinh về chất thải nhựa nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung.

- Phân loại rác tại nguồn. Để phân loại rác tại nguồn hiệu quả cần phân biết đúng các loại rác như sau:

+ Rác hữu cơ: thường là loại rác dễ bị thối rữa trong điều kiện tự nhiên sinh mùi hôi thối như thức ăn thừa, vỏ trái cây, rau củ,…

+ Rác vô cơ: gồm loại tái chế và không tái chế. Rác tái chế là loại rác có khả năng được tái sử dụng, có thể dùng lại nhiều lần trực tiếp hoặc chế biến lại như giấy, bìa cát tông,… Rác không tái chế là loại rác thải đã qua sử dụng và không còn khả năng tái chế, chỉ có thể tiến hành xử lý và đưa ra ngoài môi trường.

+ Chất thải nguy hại: loại rác chứa đặc tính gây nguy hại trực tiếp như dễ cháy, gây ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ nổ, lây nhiễm (pin hỏng, acquy, đèn huỳnh quang,…)

- Thay thế túi nilong bằng túi giấy vì sử dụng túi nilon để đựng đồ, đựng thực phẩm đã thành thói quen khó bỏ của đại bộ phận người dân. Túi ni lông thường được làm từ nhựa PE và PP tái chế. Chính vì vậy, để phân hủy được 1 túi nilon phải mất hàng trăm năm, thậm chí ngàn năm. Nếu yêu môi trường hãy loại bỏ túi nilon bạn nhé. Khi đi chợ bạn có thể sử dụng túi xách, làn, thực phẩm có thể bọc từ lá chuối, sử dụng túi bằng giấy…đó là những phương pháp mà rất nhiều siêu thị lớn đang áp dụng.

- Hạn chế sử dụng đồ ăn nhanh, đồ uống sử dụng cốc nhựa ống hút 1 lần. Những cốc nhựa, ống hút sử dụng một lần sẽ phải mất hàng trăm năm mới phân hủy hết. Hạn chế sử dụng đồ ăn nhanh không chỉ đảm bảo sức khỏe mà còn là cách chung tay bảo vệ môi trường. Chúng ta hãy thay thế bằng bộ đồ thìa, muỗng, nĩa làm từ bã mía, việc này góp phần hạn chế rác thải nhựa, giữ gìn sự sống xanh của trái đất.

Xem thêm lời giải SBT Ngữ văn 8 sách Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá