TOP 10 mẫu Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam hay, ngắn gọn (Kết nối tri thức 2024)

103

Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 10 mẫu Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam hay, ngắn gọn (Kết nối tri thức 2024) giúp học sinh lớp 8 nắm được trọng tâm văn bản Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam từ đó học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:

TOP 10 mẫu Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam hay, ngắn gọn (Kết nối tri thức 2024)

Video Bài giảng Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam (Chân trời sáng tạo) Ngữ văn 8

Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Mẫu 1

Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam. Chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh là tiêu biểu cho ngòi bút của ông khi viết về quê hương làng cảnh Việt Nam. Ba bài thơ ấy là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam.

Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Mẫu 2

Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh... Được nhớ được thuộc, truyền tụng vì đây là ba bài thơ hay và điển hình nhất chi mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta.

Bố cục Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam (Kết nối tri thức) CHÍNH XÁC NHẤT (ảnh 1)

Tóm tắt Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Mẫu 3

- Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh...

- Thu ẩm: đọc lên như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở.

- Thu vịnh: bài thơ mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao.

- Thu điếu: thú vị ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sống, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...

Bố cục Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

- Phần 1 (từ đầu đến “Thu điến, Thu ẩm, Thu vịnh. […]”): Giới thiệu Nguyễn Khuyến và 3 bài thơ nức danh

- Phần 2 (tiếp đến “nghệ thuật ngôn ngữ”): Nét đặc sắc của ba bài thơ

- Phần 3 (còn lại): Đánh giá chung về ba bài thơ

Nội dung chính Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Thông qua chùm thơ thu và những câu thơ thấm đẫm hình và tình người chúng ta một lần nữa có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ làng cảnh Việt Nam. Sự giản dị và lối sống thanh cao của ông cũng phần nào thấm nhuần vào những câu thơ mang màu sắc của nông thôn.

Tác giả tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

I. Tác giả Xuân Diệu

Tác giả tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Ngữ văn 8 (Kết nối tri thức) (ảnh 1)

- Xuân Diệu, tên khai sinh Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1916 và qua đời năm 1985.

- Ông quê gốc ở Can Lộc, Hà Tĩnh, nhưng sống cùng mẹ tại Quy Nhơn.

- Năm 1937, Xuân Diệu đến Hà Nội để học luật và bắt đầu sự nghiệp viết báo, đồng thời trở thành thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

- Vào cuối năm 1940, ông đi làm viên chức tham tá thương chánh tại Mĩ Tho (nay là Tiền Giang). Năm 1942, Xuân Diệu quay trở lại Hà Nội và tập trung vào công việc viết văn. Vào năm 1944, ông tham gia phong trào Việt Minh.

- Trong giai đoạn kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc và tiếp tục hoạt động văn nghệ cách mạng.

- Sau khi hòa bình được thiết lập, Xuân Diệu trở về Hà Nội sinh sống và làm việc cho đến khi qua đời.

- Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu mang đậm tính cá nhân và sáng tạo, đem lại sức sống mới cho thơ ca đương đại.

- Ông tập trung vào tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ, và trong thơ của mình, ông truyền tải những cảm xúc sôi nổi, đắm say và yêu đời.

- Xuân Diệu sử dụng ngôn ngữ tươi mới, ưa thích những hình ảnh tươi sáng, tươi mát, và khéo léo xây dựng những bức tranh tình cảm sâu lắng.

- Ông cũng thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc thông qua những đường nghệ thuật, từ những câu thơ ngắn gọn, súc tích đến những bài thơ dài hơn.

- Phong cách của Xuân Diệu không chỉ thể hiện sự sáng tạo và cá nhân hóa, mà còn đánh dấu sự đột phá, cách tân trong nghệ thuật thơ ca Việt Nam.

II. Tìm hiểu tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

1. Thể loại

Văn bản thuộc thể loại nghị luận văn học

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam được trích trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, NXB Văn học, Hà Nội.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt chính là nghị luận

4. Giá trị nội dung

- Giá trị nội dung: làm rõ phong cách thơ của Nguyễn Khuyến qua các chùm thơ.

5. Giá trị nghệ thuật

- Các luận điểm chính và lý lẽ, cùng với các dẫn chứng, được sử dụng để làm rõ và minh chứng cho quan điểm và ý kiến đã được đề cập.

- Ngôn ngữ nghị luận của tác giả đơn giản, gần gũi và dễ hiểu. Phân tích được thực hiện một cách logic, mạch lạc, đồng thời so sánh với một số tác phẩm khác, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt được vấn đề được trình bày.

- Giọng văn của tác giả mang tính nhẹ nhàng, tinh tế và dẫn dắt người đọc theo từng bước, từng giai đoạn để tìm hiểu ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến.

Đọc tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. […]

Được nhớ, thuộc, và truyền tụng, vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá):

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác). […]

THU ẨM

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gic. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:

Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua

Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.

Mặt nữa, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt trước ao sáng lóe ra, bốn chữ khá nặng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khử thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ảnh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xie), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.

THU VỊNH

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khỏi phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần cảu cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật. cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cũng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai cây kết: - Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan quy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?

Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiên rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoẻo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

đối với:

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.

Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề:

Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch,

đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam.

Xem thêm các bài Tóm tắt tác phẩm Ngữ văn 8 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá