TOP 10 mẫu Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long (2024) HAY NHẤT

227

Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 10 mẫu Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long (2024) HAY NHẤT sách Cánh diều gồm dàn ý, các bài văn mẫu và video hướng dẫn chi tiết giúp học sinh lớp 8 viết các bài tập làm văn hay hơn. Mời các bạn đón xem:

TOP 10 mẫu Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long (2024) HAY NHẤT

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 1

Năm 1009, sau khi vị vua cuối cùng của triều Tiền Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều Tiền Lê sụp đổ, lúc bấy giờ Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn đã viết Chiếu dời đô chiếu cáo triều thầnđể dời đô về Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển thịnh vượng của nhà Lý suốt 216 năm.

Lý Công Uẩn (974 – 1028) hay còn gọi là Lý Thái Tổ, quê ở Bắc Ninh, là người nhân ái, có chí lớn, lập được nhiều chiến công và khai sinh ra nhà Lý. Tác phẩm thuộc thể loại chiếu, là thể văn do vua viết dùng để ban bố các mệnh lệnh cho triều thần hoặc thần dân, thể hiện những tư tưởng lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước.

Mở đầu bài chiếu Lý Thái Tổ đưa các dẫn chứng “nhà Thương đến vưa Bàn Canh năm lần dời đô”, “nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”, nhằm khẳng định việc dời đô vốn đã xuất hiện từ xa xưa, không phải chỉ riêng mình nước ta mới có, không phải do ông thích mà “tự tiện chuyển dời”. Để khẳng định việc dời đô là hoàn toàn đúng đắn Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra hàng loạt các mục đích cùng với lợi ích mà việc dời đô về Đại La đem lại. Lý do dời đô là để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” chứ không vì tư lợi, hay hứng thú nhất thời. Lý Thái Tổ khéo léo dựa vào thiên mệnh “trên vâng mệnh trời”, sau là trưng cầu ý dân, nếu thuận lòng cả hai thì mới thay đổi để “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Ông chỉ ra rằng hai nhà Đinh, Lê vì “khinh thường mệnh trời”, không noi theo “dấu cũ” của hai nhà Thương, Chu nên mới có kết quả là vận nước ngắn ngủi, gây hao phí, nhân dân không được an cư lạc nghiệp. Hơn thế nữa cũng nói lên rằng thế lực hai nhà Đinh, Lê không đủ mạnh phải dựa vào địa hình đồi núi hiểm trở, nhưng nay nhà Lý thế nước đã lớn mạnh, Hoa Lư không còn thích hợp làm kinh đô nữa. Kết lại Lý Thái Tổ thể hiện lòng đau xót, thương cảm và lần nữa khẳng định “không thể không dời đổi” kinh đô về nơi khác phù hợp hơn. Sau phần lý lẽ chặt chẽ, sắc bén, giàu sức thuyết phục, về nguyên do và mục đích dời đô, Lý Công Uẩn đi vào phân tích về vùng đất Đại La nơi ông định dời đô về. Đầu tiên ông lật lại sử cũ, Đại La vốn là kinh đô của Cao Vương, một viên quan nhà Đường, giữ chức Đô hộ sứ ở Giao Châu (nước ta thời xưa) từ năm 864 đến năm 875. Về địa hình, Đại La là “trung tâm trời đất”, lại được cái hướng phía trước nhìn sông, phía sau được núi yểm trợ bao bọc, đất đai cao và thoáng. Xét về phong thủy thì “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, đúng ngôi nam, bắc, đông, tây theo ngũ hành. Xét về văn hóa, chính trị thì là nơi “chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”, là đầu mối giao thông, huyết mạch cho cả nước. Chung quy lại Đại La hầu như đã hội tụ đủ mọi yếu tố thuận lợi cho quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, để trở thành “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Phần này vừa thể hiện được tình cảm nguyện vọng của nhà vua, vừa thấy được tầm nhìn chiến lược, rộng lớn có sự quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ của một vị vua anh minh lỗi lạc. Ông không đưa ra các ý kiến chủ quan nửa vời, mà ý nào cũng chính xác, lý luận sắc bén, hợp tình, hợp lý, giàu sức thuyết phục.

Cuối bài nhà vua kết lại “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”, đây là lời trưng cầu ý kiến thể hiện sự anh minh, không áp đặt suy nghĩ cá nhân mà luôn lấy nhân dân xã tắc làm trọng, phải đủ cả ba yếu tố “thiên thời – địa lợi – nhân hòa” thì mới thành sự được, một đức tính cẩn thận, tỉ mẩn vô cùng đáng quý ở bậc minh quân.
Nghệ thuật chủ yếu của bài nằm ở việc tác giả đưa ra các dẫn chứng chính xác từ lịch sử, từ thực tế khách quan, thêm vào đó là lý luận chặt chẽ, sắc bén, cùng với cảm xúc của nhà vua được đưa vào một cách hợp lý, kết hợp hài hòa giữa lý và tình, điều đó giúp tăng thêm sức thuyết phục cho bài chiếu.

Chiếu dời đô phản ánh khát vọng dân tộc về một đất nước cường thịnh, tự do, độc lập. Đây là một áng văn cổ đầy độc đáo, sáng tạo của ông cha ta, ngôn ngữ của bậc đế vâng được thể hiện với đầy đủ sự uy nghi, trang trọng, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng thương yêu nhân dân, luôn dồn hết tâm tư vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc của Lý Công Uẩn – vị minh quân có công sáng lập ra nhà Lý, và dời đô về Thăng Long, mở ra một trang sử phồn thịnh của dân tộc.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 2

Lí Công Uẩn là người thông minh, tài trí, có tầm nhìn xa trông rộng. Với tài năng lỗi lạc và tấm lòng vì nước vì dân, Lí Công Uẩn đã hết lòng dựng xây đất nước, mở ra thời ki thái bình, thịnh trị bậc nhất trong lịch sử nước ta. Sự việc Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La xuất phát từ nhiều lí do đúng đắn, có mục đích rõ ràng và tiến bộ. Sự kiện ấy được trình bày rõ trong bản Chiếu dời đô.

Xưa nay, việc dời đô là sự kiện trọng đại, không phải muốn là làm được. Việc dời đô phải đảm bảo vận mệnh của đất nước và cuộc sống ấm no của nhân dân. Bởi thế, việc Lí Công Uẩn vừa lên ngôi đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La là hành động dũng cảm, thể hiện ý chí quyết đoán và tầm nhìn xa trong rộng của bậc minh quân. Theo Chiếu dời đô, đến thời nhà Lí, đất nước đã được mở rộng, dân số đông hơn, cần có một kinh đô đủ lớn đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước. Kinh đô Hoa Lư nằm ở nơi đất chật hẹp, gần núi, sông cạn, khó mở rộng được thêm. Đất đai lại cằn khô, nông nghiệp phát triển khó khăn. Nếu duy trì lâu dài sẽ khiến kinh đô ngày thêm nghèo khó, sức mạnh của đất nước cũng vì thế mà suy giảm dần.

Trong khi đó, thành Đại La, nơi Lí Công Uẩn dự định chọn làm nơi đặt kinh đô mới, có địa thế thuận lợi hơn gấp nhiều lần. Không những đó là nơ bằng phẳng, bốn mặt thông thoáng, sông ngòi rộng lớn, nước sâu, địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng, phì nhiêu, muôn vật phát triển tốt tươi, khí hậu ôn hòa, hết sức thuận lợi để phát triển nông nghiệp lớn. Dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt, mọi vật phong phú, tốt tươi, đích thực là mảnh đất thịnh vượng. Lại thêm, Thành Đại La có địa thế phong thủy rất tốt, vượng khí cao, là vùng đất có nhiều huyệt kết. Xưa kia, Cao Vương (tức Cao Biền – một bậc thầy phong thủy học) đã chọn vùng đất này để định đô cũng là có lí do cả. Thành Đại La xứng đáng là nơi định đô bền vững, là nơi phù hợp để phát triển, đưa đất nước phát triển phồn thịnh. Kinh đô được đặt ở một nơi trung tâm của đất trời, phù hợp địa thế phong thủy và khẳng định vị thế của đất nước. Nơi đây là chốn hội tụ của bốn phương đất nước, không những buôn bán thuận lợi mà muôn sự đều tiện lợi cả. Đây quả thực là nơi thuận lợi cho sự nghiệp, mưu toan việc lớn, là nơi thích hợp để có thế tồn tại đất nước, tính kế muôn đời cho con cháu. Dời đô là việc làm chính nghĩa, vì nước vì dân, nghe theo mệnh trời, thể hiện thực lực của nước ta lớn mạnh, biểu lộ của ý chí tự cường dân tộc. Bài Chiếu dời đo của Lí Công Uẩn bên cạnh tính chất mệnh lệnh còn có tính chất tâm tình khi nhà vua hỏi qua ý kiến các quần thần. Luận cứ có tính thuyết phục vì được phân tích trên nhiều mặt. Chọn Đại La làm kinh đô là một lựa chọn đúng đắn, nơi đây xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn năm.

Bài chiếu như một lời tâm sự của nhà vua với nhân dân, quần thần, cho thấy sự thấu tình đạt lí, thể hiện sự anh minh của nhà vua trong sự nghiệp gây dựng đất nước. Học tập tích cực, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để kế tục sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 3

“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.

Vua Lý Công Uẩn được biết đến là vị vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, có giá trị to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước. Đương thời, ông nhận thấy kinh thành Hoa Lư không còn phù hợp cho việc giao thương buôn bán, vì thế nhà vua đã đưa ra quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư tới Đại La, nay là Thăng Long, Hà Nội.

Và “Chiếu dời đô” khi được ban hành xuống đã trở thành một tác phẩm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc.

Chiếu là loại văn thể hiện tư tưởng lớn lao có sự ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước; mang nội dung thông báo một mệnh lệnh, một quyết định của vua chúa cho dân chúng được biết. Với “Chiếu dời đô”, ta thấy nó mang đặc trưng chung của thể chiếu, tuy nhiên có những nét rất riêng với sự kết hợp giữa tâm tình và chất mệnh lệnh.

Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia.

Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.

Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: “Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.

Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại La sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.

“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 8 (Cánh diều) hay khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá