Top 50 mẫu Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài văn Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo sách cánh diều hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo

 

Dàn ý Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo.

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm đại cáo bình Ngô

- Dẫn dắt vấn đề: Đại cáo bình Ngô có nghệ thuật lập luận vô cùng đặc sắc, khiến tác phẩm mang giá trị văn chương chứ không khô khan, cứng nhắc.

2. Thân bài

* Đối tượng và mục đích sáng tác

- Xét về nội dung: Đối tượng sáng tác hướng tới toàn thể nhân dân để khẳng định độc lập chủ quyền, tuyên bố thắng lợi, tuyên bố hòa bình

- Tuy nhiên, trong một tác phẩm chính luận như đại cáo bình Ngô, đối tượng và mục đích sáng tác có ý nghĩa quan trọng trong lập luận: Đối tượng hướng tới là giặc Minh, mục đích tạo nên cơ sở lí luận và thực tiễn xác đáng, ngăn chặn tận gốc mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, đây là đòn quan trọng trên mặt trận ngoại giao để giặc không còn lí do để quay lại.

* Bố cục, kết cấu.

- Bài cáo được chia làm 3 phần, mỗi phần mang một nội dung và có mối liên hệ mật thiết với nhau:

·        Phần 1 là cơ sở lí luận được tạo nên từ tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập, tự chủ.

·        Phần 2 là cơ sở thực tiễn tạo nên từ bản cáo trạng về tội ác của giặc và sự thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc chiến từ đó đi đến kết luận quân ta chính nghĩa giành thắng lợi, địch phi nghĩa và thất bại.

·        Phần 3 là kết luận niềm tin về một tương lai đất nước vững bền

- Kết cấu: Chặt chẽ, rõ ràng

Mở đầu là những cơ sở lí luận không thể chối cãi được, từ đó lí luận được soi chiếu vào thực tiễn hơn 20 năm chiến đấu chống giặc Minh, và cuối cùng là lời tuyên bố hòa bình.

* Cách lập luận.

- Khẳng định chân lí về độc lập, chủ quyền, tác giả đã sử dụng thủ pháp liệt kê, so sánh để đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục về văn hiến, cương vực lãnh thổ phong tục tập quán, lịch sử, nhân tài,..... Đó là những chân lí, là cơ sở lí luận không ai có thể chối cãi được

→Lập luận chặt chẽ bằng bằng việc kết hợp giữa những lí lẽ và dẫn chứng.

- Để làm nên bản cáo trạng về tội ác của giặc: Tác giả đã đưa ra một loạt các lí lẽ, dẫn chứng về tội ác xâm lược và tội ác đô hộ của giặc. Các tội ác đi từ khái quát đến cụ thể đó là tội ác khủng bố, sát hại đến bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động,...

→Lập luận thuyết phục với những dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, sâu sắc, từ đó khẳng định sự phi nghĩa của địch

- Từ bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác không thể dung tha của giặc Minh khiến lòng dân căm phẫn, oán hận vì thế cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nổ ra. Mạch lập luận vô cùng phù hợp.

- Cuộc chiến đấu ban đầu gặp nhiều khó khăn, sau đó nhờ dựa vào sức dân, tinh thần đoàn kết, đồng lòng đã chiến thắng kẻ thù xâm lược

→Cách lập luận cho thấy sự trưởng thành của nghĩa quân, khẳng định sự đồng tâm đồng lòng của quân và dân sẽ đem lại những thành quả tốt đẹp, chính nghĩa luôn chiến thắng phi nghĩa.

* Giọng điệu.

- Nói về tư tưởng nhân nghĩa và độc lập, chủ quyền dân tộc bằng giọng điệu khẳng định chắc nịch, hùng hồn.

- Nói về tội ác dã man của giặc Minh giọng điệu căm phẫn, nhức nhối, đau đớn, uất hận.

- Nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giọng điệu đanh thép, hùng hồn, mạnh mẽ

- Nói về những chiến công của quân ta giọng điệu tự hào, nói về sự thất bại nhục nhã, thảm hại của kẻ thù giọng điệu mỉa mai châm biếm.

- Nói về niềm tin, ý chí về một tương lai vững bền, giọng điệu trang trọng, sâu lắng

→Mỗi giọng điệu cho thấy thái độ, cảm xúc của tác giả khi nói về mỗi vấn đề. Từ đó có thể lan tỏa những cảm xúc tới người đọc một cách dễ dàng

→Sự kết hợp nhiều giọng điệu cho thấy sự đa dạng, linh hoạt trong nghệ thuật lập luận của tác phẩm.

* Ngôn ngữ, hình ảnh

- Sử dụng rất nhiều các điển tích điển cố: Trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, cỗ xe cầu hiền,...

→Tạo nên sự trang trọng trong cách nói, cách lập luận.

- Ngôn ngữ cá nhân gần gũi, bình dị: từng nghe, vừa rồi, ta đây, thế mà,...

→Tạo nên sự gần gũi, giản dị, dễ nghe, dễ hiểu, dễ thuyết phục người khác

- Các hình ảnh khái quát một cách chân thực hiện thực: Nói về tội ác của giặc (nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ dưới hầm tai họa), nói về sức mạnh của nghĩa quân (đánh một trận sạch không kình ngạc, tan tác chim muông,...),...

→Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh vừa đem lại hiệu quả nghệ thuật vừa khiến người đọc dễ dàng hình dung vấn đề được nói tới.

III. Kết bài

- Khái quát lại các yếu tố làm nên thành công của nghệ thuật lập luận trong đại cáo bình Ngô

- Khẳng định nghệ thuật lập luận chính là yếu tố quan trọng làm nên đặc sắc của đại cáo bình Ngô.

Video Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo.

 Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 1

 

Một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo:

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

 Voi uống nước, nước sông phải cạn

Đánh một trận, sạch không kinh ngạc

 Đánh hai trận, tan tác chim muông”

- Hình ảnh gợi sự hùng vĩ, mạnh mẽ: gươm, đá, núi, voi, sông, chim muông

- Ngôn từ mạnh, dứt khoát, quyết liệt: mài – cũng mòn, uống – phải cạn, đánh – sạch không kinh ngạc – tan tác chim muông

- Nghệ thuật đối giữa 2 vế trong 1 câu và giữa 2 câu với nhau

- Nhịp điệu: nhanh, dồn dập, gấp gáp

=> Tác dụng: làm nổi bật sức mạnh của quân ta và những chiến thắng hào hùng của dân tộcTop 50 mẫu Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo (ảnh 1)

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 2

Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở Bình Ngô đại cáo, đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm. Tác giả đã lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng tự tự hào, căm thù giặc sâu sắc qua đoạn thơ.

Tác giả đã xem “nhân nghĩa" không chỉ là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của con người mà còn nâng lên một ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn, “việc nhân nghĩa” ở đây chính là việc làm mà hành động vì nhân dân, mong nhân dân được yên bình, an ổn, được hưởng thái bình, hạnh phúc, ấm no. Việc nhân nghĩa là phải lo cho dân, cho nước, phải làm việc nghĩa trên lợi ích của nhân dân, lấy dân làm gốc, hành sự cũng vì dân. Vậy nên làm gì để đúng theo tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại lúc bấy giờ? Trước nhất là phải lo trừ bạo, phải lo diệt giặc xâm lăng “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", bờ cõi có yên, lãnh thổ có không còn bóng giặc xâm lăng thì nhân dân mới yên lòng mà lao động, mà sản xuất để phát triển đất nước. Đó là một tinh thần lớn, tinh thần dân tộc cao nhất, một tinh thần chính nghĩa xuất phát từ sự yêu thương và tấm lòng thiết tha cho con dân đất Việt.

Sau tư tưởng nhân nghĩa ấy, tác giả Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến tốt đẹp được gây dựng từ bao đời của con người nước Việt:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, liệt kê kết hợp với những câu văn song hành. Nước ta có truyền thống văn hiến từ xa xưa, nước ta có phong tục, tập quán riêng, nét đẹp của truyền thống, văn hóa được người Việt gây dựng từ bao đời “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần”. Không chỉ khẳng định nền văn hiến lâu đời trong niềm tự hào mà Nguyễn Trãi còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của con người, đất nước ta với các triều đại phương Bắc “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Truyền thống đấu tranh đầy anh dũng, bất khuất của các triều đại Đinh Lý Trần Lê có thể sánh ngang với các triều đại Hán ,Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt ta tuy nhỏ bé về lãnh thổ mà tinh thần không nhỏ, vẫn xưng vương, bờ cõi độc lập, mạnh mẽ, không chịu nhún mình dưới quyền uy kẻ khác, tấm lòng Đại Việt cũng vì thế mà rộng lớn biết bao. Đất Việt cũng có hào kiệt bốn phương, vang danh sử sách, nhân tài giỏi giang cả về mưu cơ, chiến lược, văn võ song toàn. Những yếu tố đó đã góp phần dựng xây nên một Đại Việt hùng hồn, trên mọi chiến trận luôn giành thắng lợi:

“Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”

Bằng ngôn ngữ đanh thép, những hình ảnh cụ thể, rõ ràng, Nguyễn Trãi kể ra chứa chan những cảm xúc tự hào. Những kẻ tự xưng lớn mạnh, huênh hoang tự đắc, làm điều phi nghĩa sau cùng cũng phải gặm nhấm lấy từng thất bại mà thôi, từ Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, … đều phải nhận lấy những thất bại cay đắng. Qua câu thơ, tác giả Nguyễn Trãi cũng thể hiện được niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa trước những hành động bạo tàn, vô nhân tính của kẻ thù. Cuối cùng, chính nghĩa mãi mãi là nguồn ánh sáng cao đẹp soi sáng con đường đấu tranh của dân tộc.

Đoạn thơ tuy ngắn mà không chỉ nêu lên được tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời mà còn khẳng định nền độc lập, tổng kết lại được những chiến công hào hùng của dân tộc. Ngôn ngữ đầy khảng khái, tứ thơ hùng hồn, mạnh mẽ cùng một trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc, trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.

 

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 3

Đoạn mở đầu trong bài Đại cáo bình Ngô với em được coi là đoạn tiêu biểu nhất vì trong đoạn này ta thấy được tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa.  Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. 

8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào. 

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập.  

=> Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng.

Top 50 mẫu Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo (ảnh 2)

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 4

Đại cáo bình gô được coi là áng “thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

       Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia

Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước

 

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 5

Đoạn mở đầu trong bài Đại cáo bình Ngô với em được coi là đoạn tiêu biểu nhất vì trong đoạn này ta thấy được tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa.  Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. 

8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào. 

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.

  Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập.  

=> Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng.

Nghệ thuật lập luận thứ hai của Bình Ngô đại cáo nằm ở cách tác giả phân chia và thiết lập bố cục của tác phẩm một cách vô cùng chặt chẽ và logic. Trong phần đầu tiên từ "Từng nghe...chứng cứ còn ghi", Nguyễn Trãi đã khéo léo đưa ra luận đề chính nghĩa với hai nội dung chính là tư tưởng nhân nghĩa gắn với tấm lòng yêu nước, thương dân, yêu chuộng hòa bình, một lòng vì nhân dân điều đó gói gọn trong câu "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Nội dung thứ hai cũng nằm trong luận đề chính nghĩa đó chính là việc tác giả khẳng định chủ quyền dân tộc từ trước đến nay thông qua năm yếu tố: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử các triều đại và công cuộc chống giặc ngoại xâm, chủ quyền riêng. Và trong việc khẳng định chủ quyền ấy Nguyễn Trãi luôn đặt nước ta trong vị thế ngang bằng với cường quốc ở phương Bắc, càng khẳng định nước ta là một nước độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ một quốc gia nào khác. Việc đưa ra hai luận đề chính nghĩa như vậy đã trở thành đòn bẩy khiến tội ác, cũng như những hành động bất nghĩa của giặc Minh trở nên nổi bật và sâu sắc hơn trong phần hai - cơ sở thực tiễn của tác phẩm. Trong phần cơ sở thực tiễn thứ nhất tác giả đã đứng trên lập trường dân tộc để tố cáo những âm mưu cướp nước của giặc Minh "Nhân họ Hồ chính sự phiền hà...Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn". Sau đó tác giả đứng trên lập trường nhân nghĩa để tố cáo tội ác của chúng với nhân dân ta trong suốt những năm tháng chúng giày xéo Đại Việt "Nướng dân đen...nghề canh cửi". Sau khi tố cáo tội ác của giặc Minh, tác giả bắt đầu đi vào tiến trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, việc viết theo trình tự như thế có tác dụng khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa là vì đất nước, vì nhân dân mà nổi lên dẹp loạn, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa với mục đích không chính đáng. Cuộc khởi nghĩa trong tác phẩm được Nguyễn Trãi dựng lại một cách chân thực và vô cùng sâu sắc, từ giai đoạn khó khăn thiếu thốn, đến giai đoạn giành chiến thắng, giai đoạn phản công và cuối cùng là kết thúc cuộc khởi nghĩa với tư tưởng nhân nghĩa cấp thuyền ngựa lương thực cho giặc trở về nước. Tất cả đều được nhắc đến trong bài cáo một cách vô cùng rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ liên kết với nhau khiến quân Minh không còn lý do nào để quay lại nước ta lần nữa, bởi nếu quay lại chính là phạm vào tội bất nghĩa, trời đất không thể dung thứ. Trong phần cuối của tác phẩm, để kết lại bài cáo Nguyễn Trãi đã lần lượt tuyên bố kết quả thắng lợi, một lần nữa khẳng định lại tư tưởng nhân nghĩa cùng với chủ quyền độc lập dân tộc. Đồng thời rút ra những bài học lịch sử về sự thịnh vượng suy thoái của một quốc gia dân tộc, kết hợp với tư tưởng mệnh trời, ý dân vô cùng sâu sắc và thuyết phục.

Về cách thức lập luận, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau một cách linh hoạt, chặt chẽ và vô cùng thuyết phục phù hợp với từng nội dung trong từng phần. Ví như trong phần đầu tiên nêu lên luận đề chính nghĩa cách thức chủ yếu bao gồm liệt kê, so sánh khi khẳng định chủ quyền đất nước của ta so với cường quốc phương Bắc về cách phương diện văn hiến, lịch sử triều đại, kháng chiến, phong tục tập quán, chủ quyền riêng. Đi kèm với luận điểm là các luận cứ xác thực mang tính thuyết phục cao, giọng điệu hùng hồn, mạnh mẽ, tự hào. Tiếp theo trong phần hai cơ sở thực tiễn, khi tố cáo tội ác của giặc tác giả đã liệt kê ra hàng loạt các hành động phi nghĩa, vô nhân tính của chúng trên đất Đại Việt không chỉ tàn hại nhân dân mà còn phá hoại môi trường. Kết hợp với bản cáo trạng ấy là giọng điệu thê lương, đau đớn, phẫn uất, căm hận đến tột cùng, làm tăng giá trị biểu cảm cũng như sự thuyết phục về cuộc chiến tranh phi nghĩa của giặc Minh. Trong phần nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì lại tiếp tục sử dụng giọng điệu hùng hồn, mạnh mẽ, tự hào, nhắc đến chiến thắng với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, phấn khởi, nói đến thất bại của địch thì là giọng điệu mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Cách lập luận ở đoạn này mang hơi hướng tự sự, kể lại quá trình hình thành, phát triển và chiến thắng của nghĩa quân, cho thấy tinh thần đoàn kết một lòng, sự trưởng thành của nghĩa quân theo thời gian, từ đó càng khẳng định chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà dù trong điều kiện khó khăn gian khổ như thế nào. Trong phần kết của bản cáo thì tác giả lại dùng giọng điệu trầm ngâm, suy nghĩ để rút ra bài học lịch sử cho dân tộc, sử dụng những kiến thức về âm dương ngũ hành, kinh dịch, tư tưởng mệnh trời để làm cho chiến thắng của quân dân ta càng trở nên thiêng liêng cao cả, hợp lòng người, làm tăng độ tin cậy và sức thuyết phục.

Về nghệ thuật sử dụng hình ảnh ngôn ngữ, tác giả dùng nhiều điển tích điển cố (trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, Tấm lòng cứu nước vẫn chăm chăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền vẫn chăm chăm còn dành phía tả), làm tăng tính trang trọng, uy nghiêm cho bài cáo. Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, tính biểu cảm khi nói về tội ác của giặc và khi nói về trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn. Bên cạnh đó còn có nghệ thuật sử dụng câu văn ngắn, dài linh hoạt, chiến thắng của ta thì sử dụng những câu văn ngắn gọn thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ oai hùng, thất bại của giặc dùng những câu văn dài để diễn tả sự khôn cùng, kéo dài, thê thảm. 

Như vậy Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn chương mẫu mực trong thể loại cáo, là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc với phần nội dung sâu sắc, khẳng định chủ quyền tuyệt đối của dân tộc, nêu bật được tư tưởng nhân nghĩa vì nhân dân, khẳng định nền hòa bình mới giành lại của đất nước. Nghệ thuật lập luận độc đáo, chặt chẽ và linh hoạt, phối hợp nhiều phương thức biểu đạt, cách sắp xếp bố cục nội dung, cách lập luận, giọng điệu, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh đã làm cho bài cáo trở nên vô cùng thuyết phục, sâu sắc đi vào lòng người bởi sự uyển chuyển của văn chươngTop 50 mẫu Chọn một đoạn tiêu biểu trong bài Đại cáo, phân tích để thấy được tác dụng của nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo (ảnh 3)

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 6

Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở Bình Ngô đại cáo, đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm. Tác giả đã lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng tự tự hào, căm thù giặc sâu sắc qua đoạn thơ.

Tác giả đã xem “nhân nghĩa" không chỉ là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của con người mà còn nâng lên một ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn, “việc nhân nghĩa” ở đây chính là việc làm mà hành động vì nhân dân, mong nhân dân được yên bình, an ổn, được hưởng thái bình, hạnh phúc, ấm no. Việc nhân nghĩa là phải lo cho dân, cho nước, phải làm việc nghĩa trên lợi ích của nhân dân, lấy dân làm gốc, hành sự cũng vì dân. Vậy nên làm gì để đúng theo tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại lúc bấy giờ? Trước nhất là phải lo trừ bạo, phải lo diệt giặc xâm lăng “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", bờ cõi có yên, lãnh thổ có không còn bóng giặc xâm lăng thì nhân dân mới yên lòng mà lao động, mà sản xuất để phát triển đất nước. Đó là một tinh thần lớn, tinh thần dân tộc cao nhất, một tinh thần chính nghĩa xuất phát từ sự yêu thương và tấm lòng thiết tha cho con dân đất Việt.

Sau tư tưởng nhân nghĩa ấy, tác giả Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến tốt đẹp được gây dựng từ bao đời của con người nước Việt:

"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, liệt kê kết hợp với những câu văn song hành. Nước ta có truyền thống văn hiến từ xa xưa, nước ta có phong tục, tập quán riêng, nét đẹp của truyền thống, văn hóa được người Việt gây dựng từ bao đời “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần”. Không chỉ khẳng định nền văn hiến lâu đời trong niềm tự hào mà Nguyễn Trãi còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của con người, đất nước ta với các triều đại phương Bắc “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Truyền thống đấu tranh đầy anh dũng, bất khuất của các triều đại Đinh Lý Trần Lê có thể sánh ngang với các triều đại Hán ,Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt ta tuy nhỏ bé về lãnh thổ mà tinh thần không nhỏ, vẫn xưng vương, bờ cõi độc lập, mạnh mẽ, không chịu nhún mình dưới quyền uy kẻ khác, tấm lòng Đại Việt cũng vì thế mà rộng lớn biết bao. Đất Việt cũng có hào kiệt bốn phương, vang danh sử sách, nhân tài giỏi giang cả về mưu cơ, chiến lược, văn võ song toàn. Những yếu tố đó đã góp phần dựng xây nên một Đại Việt hùng hồn, trên mọi chiến trận luôn giành thắng lợi:

“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”

Bằng ngôn ngữ đanh thép, những hình ảnh cụ thể, rõ ràng, Nguyễn Trãi kể ra chứa chan những cảm xúc tự hào. Những kẻ tự xưng lớn mạnh, huênh hoang tự đắc, làm điều phi nghĩa sau cùng cũng phải gặm nhấm lấy từng thất bại mà thôi, từ Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, … đều phải nhận lấy những thất bại cay đắng. Qua câu thơ, tác giả Nguyễn Trãi cũng thể hiện được niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa trước những hành động bạo tàn, vô nhân tính của kẻ thù. Cuối cùng, chính nghĩa mãi mãi là nguồn ánh sáng cao đẹp soi sáng con đường đấu tranh của dân tộc.

Đoạn thơ tuy ngắn mà không chỉ nêu lên được tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời mà còn khẳng định nền độc lập, tổng kết lại được những chiến công hào hùng của dân tộc. Ngôn ngữ đầy khảng khái, tứ thơ hùng hồn, mạnh mẽ cùng một trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc, trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.

Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: "Quân trung từ mệnh tập", các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.

Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

"Nhân nghĩa" là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" là "yên dân", "trừ bạo", cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.

Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có".

Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.

Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:

"Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi".

Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.

Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:

"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh".

Quân Minh đã lợi dụng "chính sự phiền hà" của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.

Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi".

Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem "nướng", "vùi" nhân dân ta trên ngọn lửa và "dưới hầm tai vạ". Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.

Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:

"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt".

Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen "xuống biển dòng lưng mò ngọc", "vào núi đãi cát tìm vàng", bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.

Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Do quân Minh "máu mỡ bấy no nê chưa chán", xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:

"Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi".

Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được"?

Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.

Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng "Gây binh kết oán trải hai mươi năm".

 

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 7

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.

Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.

Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục - hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.

Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cứ còn ghi.

Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

 

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 8

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn - Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.

Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thuơng dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.

Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.

“Đem đại nghĩa để tháng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đà lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cùng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ" mà rất đáng tự hào.Có nền văn hiến đã lâu, Có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, Có thuần phong mĩ tục, Có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng để một phương”,Có nhân tài hào kiệt.

Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.

“Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.

Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.

 

Nghệ thuật lựa chọn hình ảnh, ngôn từ, nghệ thuật đối và nhịp điệu của câu văn biền ngẫu đã tạo nên âm hưởng của Bình Ngô đại cáo – Mẫu 9

Kì thực trong lịch sử văn học dân tộc, có không nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt đến trình độ mẫu mực, đỉnh cao cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Muốn có được điều đó phải dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó chắc chắn phải dựa vào tài năng trác việt của tác giả. Nguyễn Trãi là nhà văn như vậy và Bình Ngô đại cáo là tác phẩm kiệt xuất của văn học dân tộc. Tài năng, tâm sức và nhiều khát vọng được ông dồn tụ vào áng văn chính luận bất hủ này. Và một trong những điểm sáng lớn nhất của bài cáo chính là ở nghệ thuật lập luận tài tình của nhà văn.

Cáo vốn là một thể văn chính luận trung đại, thường dùng cho mục đích hành chính quan phương của vua chúa. Ít ai nghĩ rằng thể loại vốn khô khan, khó có “đất diễn” này có thể trở thành một tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Nhưng Bình Ngô đại cáo lại khác, có nhiều yếu tố để Nguyễn Trãi đã biến nó trở thành một tác phẩm giàu chất văn chương, mà trước hết là ở nghệ thuật lập luận. Một tác phẩm văn chính luận (dù ở hình thức thể loại nào) đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao phải xác định được đối tượng, mục đích rõ ràng, có kết cấu chặt chẽ, cách lập luận sắc bén, giọng điệu hùng hồn, đanh thép, ngôn ngữ giàu tính luận chiến, có độ khái quát cao. Nếu xét ở tất cả các phương diện này, Bình Ngô đại cáo là một áng văn chính luận bất hủ, kiệt xuất.

Nói tới đối tượng và mục đích sáng tác văn chương không phải là nói đến yếu tố nghệ thuật mà là nội dung. Nhưng đối với văn chính luận hai điều này lại vô cùng quan trọng chi phối đến kết cấu và cách thức lập luận của tác phẩm. Nếu xét ở bề nổi, đối tượng của Đại cáo bình Ngô chính là nhân dân bá tánh, mà vua Lê Lợi và Nguyễn Trãi muốn thông báo rộng rãi về nền hòa bình độc lập sau hơn hai mươi năm chịu ách đô hộ và kháng chiến chống giặc Minh. Nhưng tính chiến đấu của văn chính luận luôn ẩn chứa ngay từ đối tượng và mục đích mà văn bản đó được sáng tác. Việc tuyên bố độc lập, hòa bình với nhân dân đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi là điều bình thường, nhưng nó cũng chính là đòn cuối cùng trên mặt trận ngoại giao để kẻ thù không còn có cớ nào quay trở lại xâm lược nữa. Vì vậy, bản đại cáo đã tạo nên những cơ sở lí luận và thực tiễn đầy xác đáng, chân thực như gọng kìm cuối cùng để khóa chặt mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Kết cấu của bản đại cáo rất chặt chẽ, bao gồm bốn phần rõ ràng và được tạo từ hai cơ sở rất quan trọng để đi đến việc có thể tuyên bố hòa bình. Mở đầu Nguyễn Trãi đã tạo một căn cứ pháp lí không gì có thể chối cãi được, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và những yếu tố để xác lập chân lý chủ quyền dân tộc. Trong đó tư tưởng nhân nghĩa đóng vai trò cốt lõi, xuyên suốt của tác phẩm.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Chưa kể cách Nguyễn Trãi đề xuất đầy mới mẻ, nhân văn trong quan điểm nhân nghĩa này, mà nó còn giữ vai trò chủ đạo để thực thi, phán xét mọi hành động của kẻ thù và quân ta. Nhân nghĩa là yên dân, muốn cho dân được yên thì phải lo trừ bạo ngược, mà trước mắt là diệt trừ họa xâm lăng. Vì vậy bao đời nay, trên tinh thần nhân nghĩa dân ta đã và luôn là một quốc gia độc lập, bất khả xâm phạm tới chủ quyền. Bất cứ kẻ nào đem quân đi xâm lược nước ta là trái với nhân nghĩa, chà đạp lên quyền độc lập tự do của dân tộc mình đều bị trừng trị thích đáng.

Nền móng vững trãi đó đã giúp ông soi chiếu vào lịch sử hơn hai mươi năm giặc Minh đô hộ và xâm lược nước ta. Những dẫn chứng thực tiễn đẫm máu và nước mắt trong những ngày tháng đó được bài cáo đưa ra một cách chân thực. Đó là những nhân chứng, vật chứng đanh thép mà nhà văn – vị “luật sư” thiên tài đệ ra trước “tòa án nhân nghĩa”. Hơn nữa, lãnh tụ Lê Lợi cùng tướng sĩ của mình đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đồng sức chung lòng để làm nên thắng lợi. Chiến thắng ấy là chiến thắng của tinh thần đại nghĩa – chí nhân. Kết cấu của bài cáo vì thế mà vô cùng chặt chẽ.

Bản Đại cáo bình Ngô còn được coi là đỉnh cao của nghệ thuật văn chính luận phải kể đến cách lập luận đầy sắc bén của nhà văn Nguyễn Trãi. Ngay ở phần mở đầu khi đưa ra chân lý độc lập, tác giả không đơn thuần khẳng định một cách chung chung mà từ các lí lẽ đến dẫn chứng đều khiến mọi người tỏ ra tâm phục khẩu phục. Ông liệt kê, so sánh rất chính xác qua các yếu tố xác lập chủ quyền độc lập như nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt giữa hai quốc gia Đại Việt và Đại Hán. Vừa là thể hiện niềm tự hào về một quốc gia đã độc lập từ lâu đời, vừa là cách khẳng định vị thế ngang hàng với một đất nước lớn như Trung Quốc. Đó cũng chính là lời răn đe đối với mục đích, âm mưu xâm lược nước ta của kẻ thù. Chưa bao giờ trong lịch sử, tính tới thời điểm đó, vấn đề độc lập chủ quyền của nước ta lại được khẳng định một cách chắc chắn và vững trãi như vậy. Không những thế để chặt chẽ hơn ông còn đưa ra những dẫn chứng mà năm xưa quân xâm lược phương bắc đã làm và phải chịu thất bại như thế nào. Bởi vậy, mở đầu bài cáo một cơ sở pháp lí không còn gì thuyết phục hơn được đặt ra.

Trong khi đó, đến cơ sở thực tiễn ông cũng luận tội kẻ thù bằng những dẫn chứng đanh thép. Cách luận tội vừa xác thực vừa chứa đựng nhiều cảm xúc đã phơi bày tất cả những gì đau thương nhất mà nhân dân phải trải qua:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Cách sử dụng hình ảnh tuy có tính chất ước lệ, khái quát nhưng vẫn lột tả được hết thảy tội ác man rợ của quân cuồng Minh. Điều đó càng chứng thực cho những gì thuộc về nhân nghĩa bọn chúng đều vi phạm hết. Bởi vậy lập luận tăng phần thuyết phục, cuộc phản công lại của quân khởi nghĩa Lam Sơn vì thế mà ở trong thế chính nghĩa. Sự kết hợp nhịp nhàng giữa lí luận và thực tiễn đã tạo sức nặng rất lớn trong cách lập luận của Đại cáo bình Ngô.

Song bên cạnh đó bút pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị đỉnh cao của tác phẩm này. Ở bài cáo có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa các yếu tố hiện thực và trữ tình, tả thực và ước lệ tượng trưng. Trong đó, bút pháp tương phản, đối lập được vận dụng một cách tài tình và linh hoạt nhất. Ngay ở đoạn văn luận tội kẻ thù, Nguyễn Trãi đã phơi bày một bức tranh đen tối của dân tộc dưới ách đô hộ của bè lũ cướp nước. Nhân dân ta phải chịu cảnh đàn áp dã man, còn kẻ thù hiện lên chân dung của những kẻ khát máu, man rợ. Hay khi tái hiện lại quá trình phản công đầy gian khổ và tất thắng của quân dân ta cũng đầy sự trái ngược. Sự lớn mạnh và liên tiếp thắng lợi của tướng sĩ Lam Sơn lại hoàn toàn đối lập với chân dung biếm họa của bọn quân tướng giặc Minh khi thua cuộc. Có thể nhận thấy, tác giả không sử dụng một bút pháp nào độc tôn, mà linh hoạt, mới mẻ trong từng đoạn, từng phần. Bởi vậy đọc bài cáo người đọc mới không thấy sự nhàm chán, khô khan như một văn bản hành chính thông thường. Hơn thế bút pháp trong bài cáo còn được thăng hoa nhờ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa yếu tố tâm lý và chất anh hùng ca. Bài cáo vì thế như một lời tự sự từ tận trái tim nhưng là hơi thở của cả một thời đại hào hùng.

Chưa dừng lại ở đó, việc sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ đến âm hưởng, giọng điệu cũng tạo nên giá trị nghệ thuật lớn lao cho bài cáo này. Chắc chắn ai đọc Đại cáo bình Ngô không thể quên được những hình ảnh vừa khái quát vừa chân thực như nướng dân đen, vùi con đỏ, đứa há miệng, thằng nhe răng, hay khí thế hừng hực của đội quân chính nghĩa:

Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông

Ngôn ngữ giàu tính sáng tạo giữa việc sử dụng những điển cố văn chương với cách vận dụng ngôn ngữ cá nhân rất gần gũi, thân thuộc, khiến người đọc khó mà phân biệt được đâu là những ngôn từ sách vở, đâu là ngôn ngữ của chính nhà văn.

Nhưng chất chính luận rất riêng của tác phẩm này còn phải kể đến âm hưởng, giọng điệu. Là một văn kiện lịch sử tuyên bố sự nghiệp quan trọng của nước nhà chắc chắn giọng điệu hào hùng, âm hưởng mạnh mẽ, khí thế là điều tất yếu. Nhưng Đại cáo bình Ngô còn mang đến nhiều cảm xúc hơn thế. Có sự đanh thép, cứng rắn trong việc luận bàn việc nhân nghĩa; có sự đau đớn, xót xa, uất nghẹn khi luận tội kẻ thù; có sự suy tư, cảm thông trong lời kể về chủ tướng Lê Lợi và những ngày đầu còn khốn khó của cuộc khởi nghĩa; nhưng đến khi hồi tưởng lại cuộc phản công oanh liệt của ta lại rất hùng hồn, quyết liệt. Và hồi kết thúc bài cáo, giọng điệu thư thái, nhẹ nhàng mà hảo sảng, sướng vui vang lên để tuyên bố độc lập. Cả bài cáo là sự hòa quyện của muôn vàn giọng điệu, chỉ có thể được tạo ra bởi một trí tuệ tài năng, một trái tim say mê, một thực tế đã từng trải. Vì thế nghệ thuật lập luận của bài cáo đạt đến mức độ đỉnh cao là điều dễ hiểu.

Nguyễn Trãi, không ai có thể phủ nhận nhân cách, đức độ và tài năng của ông. Cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước là điều mà ai cũng thấy được ở bậc vĩ nhân này. Thế nhưng trong sáng tác văn chương Nguyễn Trãi cũng thể hiện sự đa tài hiếm có. Ở thể loại nào ông cũng thành công. Và một trong số những đặc điểm dễ nhận thấy là ông luôn có những tìm tòi, sáng tạo, phá vỡ tính quy phạm vốn có trong văn chương trung đại. Chưa kể đến những yếu tố về thời đại, về hoàn cảnh lịch sử chống quân Minh, về những bức thư đầy tính luận chiến trong Quân trung từ mệnh tập và ngay cả sự bạo ngược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đem đến một bài cáo rất đặc biệt trong cách lập luận mà trước nay chưa từng có.Vì thế ông xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, Bình Ngô đại cáo trở thành áng văn chính luận mẫu mực, có giá trị cổ điển đưa Nguyễn Trãi trở thành cây bút bậc thầy ở thể loại này.

 

Tài liệu có 22 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.2 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
636 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
715 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
567 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống