TOP 15 mẫu Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (2024) HAY NHẤT

Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 15 mẫu Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (2024) sách Cánh diều hay nhất gồm dàn ý, các bài văn mẫu và video hướng dẫn chi tiết giúp học sinh lớp 11 viết các bài tập làm văn hay hơn. Mời các bạn đón xem:

TOP 15 mẫu Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (2024) HAY NHẤT

Đề bài: Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (hay nhất)

Dàn ý Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và đoạn trích Chị em Thúy Kiều.

2. Thân bài

a. 4 câu thơ đầu

Giới thiệu chị em Thúy Kiều: là con gái đầu lòng, người chị tên Thúy Kiều, người em tên Thúy Vân.

Hai chị em mang vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành “mười phân vẹn mười” không ai sánh bằng.

b. 4 câu tiếp (Vân xem trang trọng… tuyết nhường màu da)

Nét đẹp của Thúy Vân khiến người ta phải ngưỡng mộ:

·        Một người con gái trang trọng, đoan trang.

·        “Khuôn trăng” tròn trĩnh, đầy đặn → nét đẹp đại diện cho người phụ nữ Á Đông.

·        Miệng cười tươi thắm như hoa, tiếng nói trong như ngọc.

·        Mái tóc bồng bềnh như mây, da trắng như tuyết.

·        Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến hoa, lá, ngọc, vàng, mây, tuyết - những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ đẹp của người con gái ấy.

→ Vẻ đẹp của nàng hoà hợp, êm đềm với xung quanh, được thiên nhiên yêu thương, nhường nhịn: “mây thua”; “tuyết nhường” dự báo nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, êm ấm và một tương lai tươi sáng đón chờ.

c. 4 câu tiếp (Kiều càng sắc sảo… liễu hờn kém xanh)

·        Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp của Kiều sau Vân càng làm nổi bật vẻ đẹp của nàng.

·        Kiều đẹp vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà” khiến người ta phải say đắm.

·        Vân vốn là cô gái tài sắc vẹn toàn thì Kiều cả tài và sắc “lại là phần hơn”, trong xã hội khó ai sánh bằng nàng.

·        Vẻ đẹp đằm thắm, xanh tươi mơn mởn: Mắt đẹp trong như sắc nước mùa thu, lông mày thanh tú xinh xắn như dáng núi mùa xuân khiến cho "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".

·        Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, thậm xứng với sự vận dụng tinh tế thi liệu cổ tạo nên những vần thơ đẹp gợi cảm.

d. 6 câu tiếp (Một hai nghiêng nước… hồ cầm một trương)

·        Hóa công như đã ưu đãi dành cho Kiều tất cả "Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Sắc đẹp của Kiều chỉ có một trên đời, còn phần tài năng, họa lắm mới có người thứ hai.

·        Thông minh bẩm sinh "tính trời", tài hoa lỗi lạc xuất chúng: thơ tài, họa giỏi, đàn hay; môn nghệ thuật nào nàng cũng tuyệt giỏi, cũng thành "nghề", "ăn đứt" thiên hạ.

·        Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi... làu bậc... nghề riêng ăn đứt…

e. 6 câu cuối

·        Sắc đẹp kiều diễm "hoa ghen... liễu hờn..." với bản đàn "Bạc mệnh" mà nàng sáng tác ra "lại càng não nhân" như gợi ra trong tâm hồn chúng ta một ám ảnh "định mệnh".

·        Thúy Kiều không chỉ có tài sắc mà còn có đức hạnh. Nàng được hưởng một nền giáo dục theo khuôn khổ của lễ giáo, của gia phong. Tuy sống trong cảnh "phong lưu rất mực hồng quần", đã tới "tuần cập kê" nhưng nàng là một thiếu nữ có gia giáo, đức hạnh.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 1)

Tác giả Nguyễn Du là một đại thi hào của nền văn học nước ta. Ông cũng là một trong bốn danh nhân văn hóa của Việt Nam được thế giới công nhận. Trong tác phẩm Truyện Kiều tác giả Nguyễn Du đã khắc họa nhân vật vô cùng thành công.

Thông qua tác phẩm của mình tác giả muốn thể hiện tinh thần nhân văn của mình với những thân phận, người con gái tài sắc nhưng chịu thiệt thòi khi phải sống trong xã hội phong kiến “trọng nam kinh nữ”

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện nét đẹp về dung mạo cũng như khắc họa tính cách của hai chị em nhà họ Vương, Thúy Kiều và Thúy Vân.

Qua lời lẽ ngôn ngữ của mình chúng ta thấy Thúy Kiều và Thúy Vân là hai bậc tài sắc, quốc sắc thiên hương, mặn mà, xinh đẹp đoan trang. Đặc biệt, là cô chị Thúy Kiều là người vô cùng thông minh lanh lợi, hoạt bát, tài sắc đều mười phân vẹn mười.

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Trong bốn câu thơ đầu tiên người đọc có thể thấy rằng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa lên hình ảnh của hai chị em họ Vương thể hiện cho sự thanh cao, sang trọng, thể hiện cho sự hoàn mỹ, trong trắng về tâm hồn cũng như thể xác.

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Trong những câu thơ này nét đẹp của Thúy Vân hiện lên thật khiến người ta phải ngưỡng mộ. Một người con gái trang trọng, thể hiện sự đoan trang, có gương mặt tròn và phúc hậu “Khuôn trăng” có những nét đẹp đại diện cho người phụ nữ Á Đông “nét ngài nở nang” thể hiện cho một người đoan trang, hiền thục, dáng người tròn lẳn “thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.

Một tướng phụ nữ tốt mang lại nhiều thuận lợi cho người chồng, cũng như thể hiện cuộc sống bình an của nàng sau này.

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Nguyễn Du không nhắc nhiều đến vẻ đẹp của Thúy Kiều, ông chỉ sử dụng nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật tài sắc của Kiều thông qua miêu tả Thúy Vân. Nhưng một chữ “hơn” đủ để làm người ta biết được Thúy Kiều tài sắc ghê gớm, mười phân vẹn mười gấp nhiều lần.

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Một vẻ đẹp sắc sảo, khiến cho liễu hờn, mây thua. Thúy Kiều đẹp tới mức mà mọi loài hoa phải ghen tị, phải ẩn mình đi vì nàng quá xinh đẹp, kiêu sa, tới mức làm mọi vật khi thấy nàng phải tự xấu hổ, ẩn mình đi không dám khoe sắc.

Một nét đẹp sắc sảo thông minh, nhưng cũng dự báo trước tương lai không mấy thuận lợi, gặp nhiều trắc trở của Thúy Kiều. Bởi một người con gái mà xinh đẹp tài sắc tới mức hoa nhường, nguyệt thẹn thì sẽ làm con người khó lòng mà yêu mến được, nhất là phụ nữ vì phụ nữ thường ghen ghét những ai xinh đẹp hơn mình.

Người ta thường nói gái xinh thì không thông minh. Nhưng Thúy Kiều là trường hợp ngoại lệ, tác giả Nguyễn Du đã vô cùng ưu ái khi cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm. Nàng không chỉ xinh đẹp, đoan trang, mà còn vô cùng thông minh, tài giỏi, cầm, kỳ, thi, họa nàng đều biết hết. Một cô gái đa tài.

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha mùi thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung Thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Tác giả Nguyễn Du đã vẽ lên một Thúy Kiều vô cùng hoàn mỹ, không có điểm gì khiếm khuyết để thể hiện tình yêu của tác giả dành cho nhân vật của mình. Một người con gái tốt như vậy đáng ra phải được hạnh phúc sống vinh hoa phú quý. Nhưng cuộc đời này lại gặp quá nhiều gian nan, trắc trở, ba chìm bảy nổi, lưu lạc tha phương suốt 15 năm, chịu nhiều cay đắng, tủi nhục.

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là đoạn trích hay thể hiện sự tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả Nguyễn Du.

Truyện Kiều

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 2)

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện kiều là kiệt tác của nguyễn Du và của nền thi ca cổ điển dân tộc, sáng ngời tinh thần nhân đạo. Cả trên phương diện nghệ thuật, áng thơ nảy là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sư,v..v.. .đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn tuyệt bút của thi hào Nguyễn Du. Mượn vật tả người, lấy ý họa hình quả thực là sức mạnh phi thường trong ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du.

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.

 

Hai chị em Thúy Kiều mang vẻ đẹp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như “tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thiện, toàn bích:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.

Tiếp sau vẻ đẹp của hai chị em, Nguyễn Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời”; rất quý phái. Nàng sở hữu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn mượt hơn mây, làn da trắng sáng hơn tuyết. Quả là mĩ miều xưa nay hiếm có.

Nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước, lệ tượng trưng, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Bức chân dung của Thúy Vân hiện lên cao khiết, trinh sạch và gần gũi trong ánh nhìn và tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy hòa hợp với trần thế, khiến cho vạn vật tôn vinh, ngưỡng mộ. Với cách miêu tả ấy, Nguyễn Du ngầm dự báo Thúy vân sẽ có một cuộc đời êm đẹp, hạnh phúc.

 

Không hề dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu tả tiếp vẻ đẹp của Thúy Kiều. Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiều hiện lên trên ngòi bút của bậc thiên tài:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trên cái nền vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều tỏa hiện với vẻ đẹp lộng lẫy có thể khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác với bức chân dung của Thúy Vân, ở bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ miêu tả hai đặc điểm. Mắt nàng trong như sắc nước mùa thu, Hàng chân mày thanh tú, diễm lệ như dáng núi mùa xuân. Chỉ hai thôi mà đã lộ rõ sắc đẹp phi thường của nàng rồi, thực là kì bút.

Đó là một vẻ đẹp vừa đằm thắm vừa sắc sảo, mặn mà, ẩn đầy nội lực tồn sinh. Phía sau vẻ đẹp hình thức là một nguồn sức mạnh huyền bí, có sức lôi cuốn và quyến rũ đến mê dại. Bởi thế, vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho đất trời phải “ghen”, phải “hờn”.

Ở đây, ngòi bút tả người của thi hào có sự biến hóa đa dạng. Kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, vận dụng tinh tế và hiệu quả thi liệu cổ điển tạo nên sức mạnh biểu đạt kì lạ. Cao hơn thé, thi hào còn mạnh mẽ khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp của Thúy Kiều là hiếm có thì tài năng và tuyệt kĩ của nàng là chưa từng có, chưa từng xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng, điều đó như dự báo rằng cuộc đời Thúy Kiều sẽ gặp nhiều trắc trở, tai ương bởi những phẩm chất và năng lực ngoại hạng của mình.

 

Sau bức chân dung tuyệt sắc của hai đại mĩ nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn để miêu tả tài năng của Thúy Kiều:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.

Trước hết, nàng là người rất thông minh. Vừa sở hữu vẻ đẹp trác việt, vừa thông minh tuyệt đỉnh, quả thực người như thế xưa nay hiếm lắm. Nguyễn Du có lẽ đã quá ưu ái cho nhân vật của mình chăng? Mọi thú tiêu dao của người xưa, nàng đều thông thuộc, thậm chí là đạt đến tuyệt kĩ tài hoa. Cầm, kì, thi, họa, âm luật, thi luật, kể cả tác thuật nàng đều sành sỏi. Người như thế, ai mà chẳng say mê. Bức chân dung của Thúy Kiều đã đạt đến mức toàn thiện, vượt qua tất cả ngưỡng hình dung của con người. Nàng chính là thần tiên trên mặt đất. Bởi là thần tiên nên nàng không thể nào hòa hợp với luật lệ của chốn trần gian vốn khắc nghiệt và giả dối nên cuộc đời mới trầm luân, dâu bể đến thế chăng?

Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong “Đoạn trường tân thanh”. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đao và tài nghệ thơ ca trác việt đã miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp đến nhuần nhị, thấu cảm lòng người. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ, tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là phép ẩn dụ, so sánh, lớp ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng gợi cảm, tài năng miêu tả người xuất chúng vẽ nên bức chân dung của bậc tuyệt thế giai nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cô nước nhà. Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 3)

Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.

 

Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.

Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.

Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.

Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.

 

Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng,

Truyện Kiều và người phụ nữ Việt Nam

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 4)

Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét về tác gia Nguyễn Du và “Truyện Kiều”: “Tuy Nguyễn Du đã sáng tạo nhân vật Thúy Kiều nhưng Kiều lại có thật với Nguyễn Du, Nguyễn Du đã sống rất lâu trong tâm tình của Kiều, đã nhập vào Kiều làm một”, giúp ta thấy tuyệt tác “Truyện Kiều” ghi dấu tâm huyết, tài năng của thi nhân.

Đại thi hào Nguyễn Du tên hiệu là Thanh Hiên, tên chữ là Tố Như. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, giàu truyền thống khoa bảng. Cơn lốc lịch sử đạp đổ lầu son gác tía đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, tha hương suốt mười lăm năm trời. Cuộc sống đó bóp nghẹt lí tưởng nhất quán khiến ông sống giữa cuộc đời như những người dân thường.

Con người thanh liêm, sống thầm lặng, khinh bỉ quan lại chỉ biết lo vinh hoa phú quý, không lo gì đến việc dân, việc nước, nay lại trực tiếp chứng kiến nỗi khổ của nhân dân nên ông có con mắt nhìn đời thông suốt sáu cõi. Những va đập cuộc đời khiến thi sĩ đồng cảm sâu xa với mọi kiếp người đày đọa, tạo nên chiều sâu tư tưởng tác phẩm “ Truyện Kiều” sau này. Vốn hiểu biết uyên bác làm cơ sở để tuyệt tác “Truyện Kiều” trở thành một viên ngọc sáng trong văn học Việt Nam về giá trị nghệ thuật.

Mộng Liên Đường cho rằng: “Những lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Tác phẩm ban đầu mang tên “Đoạn trường tân thanh” nhưng nhân dân gọi là “Truyện Kiều”. Áng truyện thơ lấy nội dung từ tiểu thuyết “ Kim Vân Kiều truyện” nhưng những sáng tạo của đại thi hào là rất lớn. Câu chuyện nói về mười lăm năm lưu lạc, tủi nhục của nàng Kiều sau khi gia biến, bán mình chuộc cha và em.

Chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp của Nguyễn Du biến một câu chuyện tình khổ thành khúc ca đớn đau, tri âm với kẻ bạc mệnh, những điều mắt thấy tai nghe trong xã hội bấy giờ cũng đi vào trang viết của thi sĩ. “ Truyện Kiều” ngợi ca tình yêu tự do và ước mơ công lí. Mối tình Kim- Kiều dám vượt lên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắt khe để thề nguyền cùng nhau, rung động đầu đời trong sáng, chân tình không chút vụ lợi. Hình ảnh nàng Kiều:

“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”

Còn khiến mỗi chúng ta ngạc nhiên bởi Nguyễn Du khuyến khích tinh thần chủ động ấy. Giữa phường gian trá, thi nhân khắc họa nhân vật Từ Hải không chỉ thể hiện ước nguyện xã hội công lí mà nhân vật phần nào phản ánh lí tưởng của thi sĩ từng bị giam hãm. Từ Hải là ngôi sao sáng bang qua cuộc đời Kiều, giúp nàng thực hiện màn báo ân, báo oán thích đáng. Đọc “Truyện Kiều” như vọng lại tiếng khóc đau thương cho thân phận con người. Nguyễn Du từng nói:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”

Người cho rằng: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” nên xoay quanh đời Kiều- người con gái tài hoa luôn phải gánh chịu bao giông tố. Tiếng khóc xót xa cho mối tình đằm thắm Kim- Kiều “đứt gánh tương tư”, mối tình tri kỉ của Từ Hải và nàng Kiều. Giọt nước mắt đắng chát khi nhân phẩm bị chà đạp, thân xác con người bị đánh đập tàn nhẫn. Sâu xa hơn, tiếng kêu khóc vang lên đòi quyền sống cho con người trong nỗi đau nhân thế.

Nguyễn Đình Thi nhận định: “Truyện Kiều” là ngọn roi sắt quất thẳng vào những sự bất công, độc ác, dối trá…”, có thể xem thi phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch trần sự mục ruỗng, thối nát của xã hội bấy giờ. Mọi tầng lớp đều bỉ ổi bị thế lực đồng tiền chi phối từ thằng bán tơ, lũ buôn thịt bán người như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, chức quan Hồ Tôn Hiến… Nguyễn Du bóc trần nhìn thẳng vào thực trạng, gọi tên những kẻ chà đạp lên quyền sống con người.

“Truyện Kiều” có sức sống trường tồn còn bởi những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Với học vấn uyên thâm, Nguyễn Du thành công xây dựng nhân vật sinh động, cá tính. Nàng Kiều không phải nhân vật minh họa mà nàng có đời sống nội tâm, lí tưởng cao đẹp của Từ Hải cũng được khắc tạc.

Với thể thơ lục bát giàu truyền thống, đại thi hào biến một tiểu thuyết thành thơ vừa mộc mạc vừa trang nhã, cổ điển. Điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng thay đổi linh hoạt, đặt vào từng nhân vật, khiến tác phẩm không khô khan. Ngôn ngữ trong “Truyện Kiều” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ bác học và dân gian tạo nên sức biểu cảm, sự trong sáng.

Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhớ tới áng thiên cổ kì bút “Truyện Kiều”. Ở đó hội tụ tất cả cái tài, tấm lòng và tầm vóc của thi nhân. Những giá trị đích thực của tác phẩm còn bất tử với nền văn học Việt Nam.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 5)

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với mỗi chúng ta.Tác phẩm được Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm với 3254 câu thơ lục bát dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân – tác giả nổi tiếng của văn học Trung Quốc.”Truyện Kiều” không chỉ mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội bất công, bạo tàn mà còn nổi bật bởi giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện thông qua nhân vật Thúy Kiều. Đây là nhân vật chính của “Truyện Kiều” và cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.

Giá trị nhân đạo là những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ đối với nhân vật của mình nói riêng và những tình cảm đối với con người nói chung. Đó là những sự đồng cảm, niềm cảm thương dành cho những số phận bất hạnh.Bên cạnh đó, tác giả cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào công lí xã hội và khát vọng về sự tự do trong tình yêu của con người.Những điều ấy đều được Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều – một hồng nhan bạc phận để lại biết bao nỗi xót thương nơi độc giả.

Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp của nàng bằng những câu thơ ước lệ đầy ấn tượng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là một người có cái nhìn tinh tế nên Nguyễn Du không thể bỏ qua chi tiết ấy.Đôi mắt của Thúy Kiều mang vẻ đẹp trong sáng của làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Vẻ đẹp hình thể ấy khiến thiên nhiên như hoa, liễu cũng nảy sinh lòng đố kị. Phải chăng chi tiết ấy đã dự báo cho cuộc đời về sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm trong “trướng rủ màn che” nữa mà sẽ gặp nhiều trắc trở, sóng gió?

Các động từ “ghen” và “hờn” đã bộc lộ sự ghen ghét của thiên nhiên đối với vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều. Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”không ai sánh nổi đó trong nhân gian chỉ có duy nhất nàng Kiều còn về tài năng thì may mắn có người thứ hai. Kiều là một người vẹn toàn cả về nhan sắc và trí tuệ:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.

Trời phú cho nàng sự thông minh, tài giỏi nên nàng am hiểu và có tài năng cả về bốn lĩnh vực: cầm, kì, thi, họa nhưng nàng giỏi nhất là đàn. Kiều thuộc lòng năm nốt: cung, thương, dốc, chủy, vũ trong âm giai của nhạc cổ. Tài đàn của nàng vượt xa, “ăn đứt” mọi người. Không những thế, nàng còn sáng tác “thiên Bạc mệnh” mang âm hưởng đau khổ, sầu não.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều trở nên toàn diện hơn bởi sự hiếu thảo với cha mẹ và lòng chung thủy với người yêu:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

Kiều đau đớn nhường nào khi phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Nàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.Ngay cả khi ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ cha mẹ lại càng da diết và khôn nguôi. Nàng thương cha mẹ đã về già mà nàng thì không thể ở bên cạnh chăm sóc:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”.

Giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” còn được thể hiện trong tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng. Đó cũng là quan niệm về một tình yêu tự do của đại thi hào Nguyễn Du. Mới gặp nhau lần đầu tiên trong tiết thanh minh nhưng cả “người quốc sắc” và “kẻ thiên tài” đều “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Để rồi từ đó, Kim Trọng thuê trọ gần nhà Thúy Kiều để được trông thấy nàng còn Thúy Kiều thì “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng để thề nguyền “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Tình yêu của họ là tình yêu tự do, chủ động, xuất phát từ sự tự nguyện của hai phía. Nó đã phá tan đi những lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ vào những quy tắc, luật lệ hà khắc. Họ hoàn toàn bị động và không có quyền chủ động trong tình yêu.Lòng thủy chung với chàng Kim đã khiến Thúy Kiều vô cùng đau đớn khi trao duyên lại cho Thúy Vân và mong em sẽ thay mình thực hiện lời thề nguyền với Kim Trọng.

Cuộc đời nàng là một chuỗi các bi kịch tiếp nối nhau.Tình yêu say đắm với Kim Trọng chưa được bao lâu thì “giữa đường đứt gánh tương tư” bởi biến cố bất ngờ mà gia đình Thúy Kiều gặp phải. Tình yêu tan vỡ, hai người phải chịu cảnh chia li, xa cách trong một thời gian dài và khi gặp lại nhau tuy tình cảm dành cho nhau vẫn còn nhưng hai người lại chọn cách ứng xử “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Song song với bi kịch tình yêu là bi kịch bị chà đạp lên nhân phẩm. Để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã bán mình cho Mã giám Sinh để làm vợnhưng kẻ lọc lừa, xảo trá ấy đã bán Kiều vào lầu xanh khiến nàng phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Nàng gặp phải những kẻ buôn thịt bán người đầy mưu mô như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,…

Thúy Kiều phải sống cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh nhơ nhớp. Đó là bức tranh hiện thực mà tác giả muốn tố cáo. Nguyễn Du đã lên án xã hội vì đồng tiền mà nhân phẩm con người bị chà đạp, sức mạnh của đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, khiến những con người vô tội phải chịu nỗi oan uổng.

Bàn về giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường đã đưa ra nhận định xác đáng: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng thấm thía ngậm ngùi”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Du viết về thân phận người phụ nữ bằng bao nhiêu sự xót xa, đồng cảm:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Ông đau đớn cho số phận của Thúy Kiều phải chịu sự vùi dập. Ông cũng trân trọng khát vọng về một tình yêu tự do, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của nàng. “Nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy” (Mộng Liên Đường).Nếu không phải một nhà thơ có tình yêu thương đối với những con người bất hạnh thì có lẽ Nguyễn Du đã không viết nên được tác phẩm “Truyện Kiều” nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.

Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm những tư tưởng nhân đạo của mình. Đồng thời, nàng cũng là nhân vật thể hiện giá trị nhân đạo của toàn bộ thiên kiệt tác. “Truyện Kiều” đã đánh thức trái tim của mỗi chúng ta, khiến chúng ta rơi lệ bởi sự thương xót cho nhân vật Thúy Kiều. “Truyện Kiều” là di sản vĩ đại, là linh hồn của dân tộc Việt Nam. “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh).

Truyện Kiều Nguyễn Du 5 I Ngâm Kiều toàn truyện | Kiều mắc lừa Sở Khanh -  YouTube

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 6)

Nhắc đến Nguyễn Du là nhắc đến một đại thi hào lỗi lạc của thơ ca trung đại Việt Nam. Không chỉ có đóng góp lớn cho văn học nước nhà ông còn được cả thế giới biết đến với thi phẩm “Truyện Kiều”.

Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên sinh năm 1765 mất năm 1820, quê tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân Tỉnh Hà Tĩnh. Sinh thời ông có một nền tảng gia đình vô cùng danh giá, cha làm quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng trong triều.

Tuy nhiên do mồ côi cha mẹ sớm (9 tuổi mất cha, 12 tuổi mất mẹ), tuổi thơ ông trải qua một cách đầy biến động, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình. Cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà có nhiều rối ren các thế lực phong kiến chém giết và tàn sát lẫn nhau, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi mà tiêu biểu là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo.

Những yếu tố đó đã tác động không nhỏ đến tình cảm cũng như nhận thức của nhà thơ. Bởi thế ông luôn nhận thức trung thành với triều Lê, căm thù sâu sắc với quân Tây Sơn, sau này làm quan thì rụt rè, u uất. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã là những thứ hồ để tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Ông cũng được coi như 1 trong năm người giỏi nhất nước Nam thời bấy giờ.

Nguyễn Du được coi là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ hán và chữ nôm. Trong đó chữ Hán có Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài, Bắc hành tạp lục 125 bài, Nam trung tạp ngâm 40 bài… chữ Nôm có văn chiêu hồn, Văn tế, và tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn có tên gọi khác là Đoạn trường Tân Thanh.

“Truyện Kiều” hay còn có tên gọi là “Đoạn trường Tân Thanh” được nhà thơ sáng tác vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 (1805 -1809). Đây là một tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) tuy nhiên đã được sáng tạo tài trình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Đây là câu truyện được kể bằng 3254 câu thơ chia làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ.

Truyện kể về một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con : Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Cả hai người con gái đều có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Trong lễ hội đạp thanh Thúy Kiều gặp Kim Trọng cả hai người nguyện thề sống chết. Kim Trọng về Liễu Dương chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều gặp nạn. Kiều phải bán mình chuộc cha, nhường mối tơ duyên cho em gái Thúy vân. Từ đây bắt đầu 15 năm lưu lạc đầy nước mắt của Kiều “thanh y mấy lượt, thanh lâu mấy lần”.

Sau đó Thúy Kiều may mắn gặp Từ Hải một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Kiều trả ân, báo oán. Kiều và Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải chết đứng. Kiều bị Hồ Tôn Hiến bắt gả cho viên thổ quan, vì quá nhục nhã Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường nhưng may mắn được sư vãi Giác Duyên cứu sống và đi tu. Sau đó Kim Trọng và Vương Quan đỗ đạt làm quan lớn, may mắn gặp sư vãi Giác Duyên và đoàn tụ gia đình sau 15 năm lưu lạc.

Có thể nói ngoài việc thể hiện được tài năng và nghệ thuật điều khiển ngôn từ cao tay của Nguyễn Du, Truyện Kiều còn mang giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng sâu sắc.

Về giá trị hiện thực đó là bức tranh xã hội đầy rối ren. Các thế lực đồng tiền, có quyền có thế ép người khiến nhân dân lầm than khổ cực. Cả xã hội bị chi phối bởi đồng tiền, nó có thể biến con người trở thành những nạn nhân đau khổ. Đẩy gia đình Vương viên ngoại vào cảnh tan cửa nát nhà, đồng tiền cũng khiến Thúy Kiều dăm lần bảy lượt vào lầu xanh chịu sự sỉ nhục, đánh đập của Hoạn Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh. Cuộc đời đầy nước mắt của Kiều chính là bằng chứng đanh thép nhất để tố cáo xã hội phong kiến đầy bất lương và tàn nhẫn.

Về giá trị nhân đạo Truyện Kiều chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc giữa người với người. Nó là sự thương cảm với những kiếp người bất hạnh, đồng thời cũng là khát vọng ước mơ về một hạnh phúc tình yêu chân chính của con người. Bên cạnh đó niềm khát khao công lý về chiến thắng thế lực bạo tàn còn được nhà thơ gửi gắm qua hình tượng nhân vật Từ Hải.

Có thể nói đến “Truyện Kiều” thì tài năng của Nguyễn Du như được khẳng định một cách trọn vẹn nhất. bằng cách điều khiển ngôn từ, xây dựng cốt truyện hấp dẫn , nghệ thuật miêu tả – tả cảnh ngụ tình… ông đã khiến cho Truyện Kiều trở thành một thi phẩm xuất sắc. Đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người, truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi gợi tình yêu thương sự công bình giữa người với người trong xã hội.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 7)

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ).

Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.

Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn.

Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan vô tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thía biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy”. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn. hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu.

Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; về Thác lên trai phường nón.

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính “những điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả ĩ hăng vang động của đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống hửng trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lấy ít, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…).

Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bộ “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân.

Truyện Kiều mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sờ kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.

Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết:

Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.

GIỚI THIỆU TRUYỆN KIỀU | Nguyễn Du

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 8)

Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.

Nguyễn Du từ những điều đã “trông thấy” mà “đau đớn lòng”, từ việc học tiếng nói của người trồng dâu và cả trái tim nhân đạo lớn, một tài năng lớn mà ông đã viết nên “Truyện Kiều”. Đã mấy thế kỉ qua đi, nhưng “Truyện Kiều” vẫn luôn có một sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.

“Truyện Kiều” được Nguyễn Du sáng tác dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ câu chuyện đó, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một câu chuyện mới. “Truyện Kiều” có 3254 câu thơ Nôm và được viết bằng thể thơ lúc bát.

“Truyện Kiều” xoay quanh nhân vật chính là Thúy Kiều và gồm có ba phần. Phần I đó là gặp gỡ và đính ước. Vào năm Gia Tĩnh triều Minh, có một nhà viên ngoại họ Vương có ba người con. Nhà ông là thuộc kiểu “ Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung” và có ba người con, trong đó Thúy Kiều là chị cả, tiếp đó là Thúy Vân, em út là Vương Quan. Trong tiết thanh minh, ba chị em đi du xuân và tình cờ trong buổi hôm đó, Thuý Kiều đã gặp được Kim Trọng- một văn nhân tài tử. Hai người gặp gỡ nhau rồi sau đó, thề nguyện cùng nhau.

Phần II, đó là gia biến và lưu lạc. Không lâu sau đó, gia đình Kim Trọng xảy ra biến cố, chàng phải trở về quê để chịu tang chú. Còn gia đình Kiều, cha nàng bị thằng bán tơ lừa nên Thúy Kiều buộc phải bán mình để chuộc cha. Sóng gió cuộc đời xô đẩy khiến nàng rơi vào tay những kẻ buôn phấn bán hương như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh. Nhưng rồi, một khách làng chơi là Thúc Sinh đã cứu nàng khỏi chốn lầu xanh. Vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen với nàng nên nàng bỏ đi và nương nhờ nơi cửa Phật.

Sư Giác Duyên vô tình giao lầm nàng cho Bạc Bà, Bạc Hạnh- những kẻ cũng giống như Tú Bà, Mã Giám Sinh. Kiểu rơi vào lầu xanh một lần nữa. Từ Hãi bống xuất hiện và cứu vơt nàng khỏi chốn nhơ nhớp đó. Tưởng rằng từ đây hạnh phúc đã mỉm cười với nàng…Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, nàng phải hầu rượu cho hắn ta. Thúy Kiều quyết định tự tử và một lần nữa sư Giác Duyên đã cứu nàng.

Phần III, đó là đoàn tụ. Sau khi chịu tang chú xong, Kim Trọng trở về thì hay tin Thuý Kiều đã bán mình chuộc cha và trao duyên cho em gái là Thuý Vân. Kim Trọng vô cùng đau khổ. Thúy Kiều trở về nhưng Kim Trọng và Thúy Kiều quyết định “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”

“Truyện Kiều” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã phơi bày những hiện thưch xấu xa, tàn ác trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đồng thời, trái tim của đại thi hào cũng đồng cảm với những con người mà “tài mệnh tương đố”, Nguyễn Du trân trọng và ngợi ca những giá trị tốt đẹp, đồng tình với những ước mơ, khát vọng của họ.

Thông qua tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo cũng như là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người. Đồng thời truyện Kiều là tiếng nói khẳng định đề cao tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính.

Bên cạnh đó, tác phẩm còn thể hiện được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du: đỉnh cao của ngôn ngữ dân tộc và thể thơ lục bát; nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc và nghệ thuật dẫn chuyện đến miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người. Đồng thời, ngôn ngữ mà ông sử dụng thật chính xác và giàu giá trị biểu cảm, có giá trị nghệ thuật cao.

Quả không sai khi khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Tác phẩm đã thể hiện được tài năng bậc thầy của Nguyễn Du. “Truyện Kiều” luôn có một sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc. Những vấn đề mà Nguyễn Du đã đặt ra không chỉ có ý nghĩa thời đại mà còn chạm đến những vấn đề mang tính muôn đời. Vì vậy, mỗi chúng ta hãy trân trọng kiệt tác của dân tộc, đó chính là viên ngọc quý không dễ có được, thậm chí là vài trăm năm ta mới thấy xuất hiện một lần.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 9)

“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”

Có biết bao nhà thơ, nhà văn khi đọc những trang thơ của Nguyễn Du không khỏi xúc động và cảm phục trước một tài năng xuất chúng của văn học Việt Nam, trước một kiệt tác văn hoá của dân tộc. Còn tác phẩm của ông – “Truyện Kiều” là kiệt tác thơ văn, là cuốn sách “gối đầu giường” bao thế hệ người Việt, cuộc đời và số phận chìm nổi của nàng Kiều đến nay vẫn gợi ra bao xót xa, đau đớn khôn nguôi trong lòng người đọc.

Nguyễn Du (1765 – 1820) quê Tiên Điền, Hà Tĩnh – mảnh đất có truyền thống thơ văn, quê ngoại của ông ở Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những làn quan hỏi mượt mà. Bởi vậy mà ngày từ lúc còn nhỏ, Nguyễn Du đã có vốn am hiểu sâu sắc về văn hóa của nhiều làng quê Việt, ông càng hiểu và trân trọng hơn những giá trị văn hoá của quê hương mình. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình khá giả, từng có nhiều thế hệ làm quan lớn trong triều, gia đình ông có truyền thống văn học, nhờ đó mà ông học hỏi được ít nhiều từ những người thân của mình.

Ông sinh sống trong khoảng thời gian mà đất nước ta có nhiều biến động. Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến, lúc này Trịnh- Nguyễn đang đấu đá nhau, phân tranh khốc liệt, đặc biệt có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, đỉnh điểm là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo.

Xã hội lúc này có nhiều rối ren, đời sống nhân dân cũng khổ cực, loạn lạc, Nguyễn Du thấu hiểu và cảm thông với cuộc sống nhiều vất vả, khổ cực của nhân dân khi phải chịu nhiều đoạ đày, bất công của bọn thống trị tham lam, bạo ngược. Trái tim giàu lòng trắc ẩn và sự yêu thương của Nguyễn Du hướng về những kiếp người chịu nhiều ngang trái, đặc biệt là những người phụ nữ là yếu tố tạo nên những sáng tác thành công và đặc sắc của ông.

Nguyễn Du từng đi nhiều nơi, phiêu bạt khắp chốn, từng ra làm quan và đi sứ Trung Quốc, nhờ đó mà ông có vốn hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá và có vốn sống phong phú. Điều đó góp phần rất lớn trong việc sáng tác của ông. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, cả về thơ ,văn chữ Hán và chữ Nôm như Văn Chiêu Hồn, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm,…đỉnh cao nhât là thi phẩm truyện thơ Nôm “Truyện Kiều”.

Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được sáng tác vào khoảng đầu thế kỉ XIX, tác phẩm được viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, với tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Du đã biến đổi và sáng tạo để làm tác phẩm của mình trở nên có giá trị riêng, mang hồn cốt riêng của dân tộc Việt và phù hợp với những hoàn cảnh, quan niệm của xã hội Việt Nam.

Truyện viết theo thể thơ của lục bát truyền thống của dân tộc, tổng số câu thơ trong truyện là 3254 câu với 3 phần chính: Phần một là gặp gỡ và đính ước kể về lương duyên gặp gỡ của Kiều – Kim và hai người nên duyên thề hẹn son sắt trong đêm thề đính ước.

Phần hai là phần gia biến và lưu lạc, phần này viết về những năm tháng cơ hàn, lênh đênh, tủi nhục của nàng Kiều sau khi bán mình cứu cha và em. Phần ba cũng là phần cuối tác phẩm là đoàn tụ, lúc này Kim Kiều gặp lại nhau sau bao năm trời cách biệt, họ gặp gỡ, mừng tủi, vẫn trân quý nhau nhưng không nên duyên đôi lứa mà lựa chọn làm “duyên bạn bầy”.

Với số lượng câu thơ đồ sộ, Nguyễn Du đã xây dựng nên Truyện Kiều với hệ thống các nhân vật vô cùng phong phú. Nhân vật chính diện có thể kể đến như Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải, Kim Trọng, Đạm Tiên,….Các nhân vật phản diện được xây dựng như Mã Giám Sinh, Tú bà Lầu Xanh, Sở Khanh,……

Tuy số lượng nhân vật lớn nhưng bằng tài năng trong cách xây dựng nhân vật của mình, Nguyễn Du đã tạo nên các nhân vật không hề lặp lại, mỗi hành động, ngoại hình, tính cách của nhân vật đều riêng biệt, bởi vậy mà không có nhân vật nào giống nhau, không dễ bị nhầm lẫn nhau, mỗi nhân vật đều góp phần rất lớn trong việc thể hiện nội dung câu chuyện được kể.

Tác phẩm “Truyện Kiều” mang nhiều giá trị lớn cho văn học dân tộc. Về giá trị tư tưởng, truyện đã thể hiện được khát vọng tự do, mơ ước về bình đẳng và công lý của con người trong đời sống xã hội. Đồng thời, bộc lộ tiếng nói cảm thông, xót xa trước sự khổ đau mà những người phụ nữ như Kiều phải gánh chịu. Là bản án đanh thép tố cáo một xã hội chuyên quyền, độc đoán, xã hội mà đồng tiền trở thành sức mạnh chi phối cả lương tri, đạo đức của con người.

Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều đã cho thấy được ngòi bút đầy điêu luyện của tác giả trong việc sử dụng kết hợp ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Nghệ thuật diễn tả nội tâm nhân vật qua hành động, qua nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” đầy đặc sắc, thể thơ lục bát được sử dụng tài tình, thuần thục. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy mới mẻ và sáng tạo, đồng thời giống điệu thơ biến đổi đầy lĩnh hoạt, đặc biệt là giọng điệu buồn thương, xót xa khi viết về Kiều.

“Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?”

Trước đây, bây giờ và cho đến mãi sau này thì tên tuổi của đại thi hào dân tộc vẫn vang mãi trong trái tim của những thế hệ người đọc.Tóm tắt Truyện Kiều của Nguyễn Du ngắn gọn nhất, hay nhất

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 10)

Tác giả Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều là chủ đề lớn trong chương trình văn học phổ thông. Nguyễn Du là một tác giả lớn, là thi hào của dân tộc. Truyện Kiều là kiệt tác văn học có một không hai của dân tộc ta và cả thế giới.

Tác giả Nguyễn Du (1765 — 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo lớn của dân tộc, được tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục. Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã “Một phen thay đổi sơn”. Nhưng triều đại Tây Sơn ngắn ngủi, triều Nguyễn lên thay. Những thay đổi kinh thiên động địa ấy tác động mạnh mẽ tới nhận thức và tình cảm của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút của mình vào hiện thực, vào “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong cuộc đời.

Gia đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm, từng làm đến chức tể tướng. Mẹ là một phụ nữ hiền hậu, thuộc nhiều ca dao, dân ca. Anh trai là Nguyễn Khản cũng làm đến chức thượng thư. Có thể nói, gia thế của Nguyễn Du thuộc hàng tôn quý bậc nhất thiên hạ, đời sống cũng vinh hoa không ai sánh bằng.

Nguyễn Du nhiều lần theo cha vào triều, chơi đùa và học tập cùng công chúa và hoàng tử. Thế nhưng, thời cuộc đổi thay, gia đình ông cũng bị sa sút dần rồi rơi vào loạn ly khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra.

Cuộc đời Nguyễn Du sớm gánh chịu nỗi đau thương, mất mát. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Lớn lên, làm quan, rồi chạy loạn, sống ẩn dật, sau lại ra làm quan triều Nguyễn. Khi cao sang tột bực, lúc cơ hàn cùng cực. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc đời và tính cách của Nguyễn Du.

Nguyễn Du có năng khiếu văn học bẩm sinh, ham học hỏi, có hiểu biết sâu rộng và từng trải, có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời khổ, nhiều con người và số phận khác nhau. Ông từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất Trung Hoa rộng lớn với nền văn hoá rực rỡ. Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng tới sáng tác của nhà thơ.

Nguyễn Du là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường Chủ Nhân trong lời Tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du với con người, với cuộc đời: “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc đến cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột…”. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy.

Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Du sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm. Ông có 3 tập thơ chữ Hán gồm 243 bài. Tác phẩm chữ Nôm có Văn chiêu hồn. Xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh thường gọi là Truyện Kiều.

Nhiều nghiên cứu đã cho rằng Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tác vào thế kỷ XIX (1805-1809). Tác phẩm có 2 tên: Một tên chữ Hán và một tên chữ nôm. Tên chữ Hán là “Đoạn trường tân thanh” (tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt một: bộc lộ chủ đề tác phẩm (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ). Tên chữ nôm là Truyện Kiều: Tên nhân vật chính – Thuý Kiều (do nhân dân đặt).

Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn, mang ý nghĩa quyết định thành công của tác phẩm. Từ câu chuyện tình ở Trung Quốc đời Minh, bằng tài năng và tấm lòng, Nguyễn Du đã biến thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh. truyện Kiều khẳng định mạnh mẽ tài năng và tấm lòng nhân đạo của thiên tài nguyễn Du với những giá trị vượt xa Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

Từ tiểu thuyết chương hồi, Nguyễn Du chuyển thể câu chuyện văn xuôi thành thơ lục bát, thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc gồm 3254 câu. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả thiên nhiên, đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến bậc tuyệt hảo, khó ai sánh bằng. Ngôn ngữ Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao chói lọi của ngôn ngữ nghệ thuật.

Vương Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tiết Thanh minh, Kiều gặp chàng Kim Trọng “phong tư tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp. Kim Trọng dọn đến ờ trọ cạnh nhà Thuý Kiều. Nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủ động, tự do đính ước với nhau.

Trong khi kim Trọng về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh – một khách làng chơi hào phóng – cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Nhưng rồi nàng lại bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông, đầy đọa. Kiều phải trốn đến nương nhờ nơi cửa Phật.

Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – một kẻ buôn người như Tú Bà, nên Kiều lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Tại đây, nàng gặp Từ Hải, một anh hùng đội trời đạp đất. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết. Kiều phải hầu đàn hầu rượu Hồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, nàng trẫm mình xuống sông Tiền Đường. Thế nhưng, nàng lại được sư Giác Duyên một lần nữa cứu vớt, lần thứ hai Kiều nương nhờ cửa Phật.

Sau nửa năm về chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình Kiều gặp tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng vô cùng đau đớn. Tuy kết duyên với Thuý Vân nhưng chàng vẫn không thể quên mối tình đầu say đắm. Chàng quyết cất công lặn lội đi tìm Kiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên mà Kim, Kiều tìm được nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều theo ý mọi người, Thuý Kiều nối lại duyên cũ với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống của con người. Bọn quan lại hủ bại, dối trời hại dân. Viên quan xử kiện vụ án Vương Ông vì tiền chứ không vì lẽ phải. Quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến là kẻ bất tài, nham hiểm, bỉ ổi và trâng tráo. Các thế lực hắc ám tha hồ hoành hành gây biết bao tội ác. Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh… là những kẻ táng tận lương tâm. Vì tiền, chúng sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm và số phận con người lương thiện.

Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau cùng cực của những con người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ. Vương Ông bị mắc oan, cha con bị đánh đập dã man, gia đình tan nát. Đạm Tiên, Thuý Kiều là những người phụ nữ đẹp, tài năng, vậy mà kẻ thì chết trẻ, người thì đọa đày, lưu lạc suốt 15 năm.

Truyện Kiều là tiếng kêu thương của những người lương thiện bị áp bức, bị đọa đày. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau của con người. Ông xót thương cho Thuý Kiều – một người con gái tài sắc mà lâm vào cảnh bị đọa đày “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” hết sức nhục nhã.

Truyện Kiều là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa, trí dũng, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, vị tha… Ông trân trọng đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát khao chân chính của con người như về tình yêu, hạnh phúc, công lý, tự do… Nhà thơ còn tố cáo các thế lực bạo tàn đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện, khiến họ khổ sở, điêu đứng.

Phải là người giàu lòng yêu thương, biết trân trọng và đặt niềm tin vào con người Nguyễn Du mới sáng tạo nên Truyện Kiều với giá trị nhân đạo lớn lao như thế.

Truyện Kiều được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Du. Về ngôn ngữ, là ngôn ngữ văn học hết sức giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếng Việt trong Truyện Kiều không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).

Tác phẩm rất thành công ở thể loại tự sự, có nhiều cách tân sáng tạo, phát triển vượt bậc trong ngôn ngữ thơ và thể thơ truyền thống. Ngôn ngữ kể chuyện có 3 hình thức: trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật). Nhân vật trong truyện xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm nghĩ, có biểu hiện bên ngoài và thế giới bên trong sâu thẳm.

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc hoạ nhân vật qua phương thức tự sự, miêu tả chỉ bằng vài nét chấm phá mỗi nhân vật trong Truyện Kiều hiện lên như một chân dung sống động. Cách xây dựng nhân vật chính diện thường được xây dựng theo lối lý tưởng hoá, được miêu tả bằng những biện pháp ước lệ, nhưng rất sinh động. Nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu được khắc họa theo lối hiện thực hoá, bằng bút pháp tả thực, cụ thể và rất hiện thực (miêu tả qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động… của nhân vật).

Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh bức tranh thiên nhiên chân thực sinh động (Cảnh ngày xuân), có những bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc (Kiều ở lầu Ngưng Bích).

Truyện Kiều đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng…Khi viết, tuy có dựa vào Kim Vân Kiều truyện, nhưng với kỳ công tái tạo, Truyện Kiều của nhà thơ đã trở thành viên ngọc vô giá của thể loại truyện thơ nói riêng và của nền văn học dân tộc Việt nói chung.

Ở đây hội tụ sự thành công của điệu thơ lục bát, của nghệ thuật ngôn ngữ, của các biện pháp tu từ, v.v…Dù tác phẩm còn bị hạn chế bởi tư tưởng định mệnh, nhưng nhìn chung Truyện Kiều vẫn là di sản quý báu của nền văn học Việt Nam…

Tác giả Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều mãi mãi là niềm tự hào lớn lao của dân tộc ta. Đặc biệt truyện Kiều, với những giá trị vượt trội, tác phẩm đi sâu vào quần chúng nhân dân, trở thành một phần trong đời sống tinh thần của người Việt từ bao đời nay.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 11)

Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc, ông đã góp vào nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. “Truyện Kiều” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Mỗi trích đoạn trong “Truyện Kiều” đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và đoạn trích “Trao duyên” – trích từ câu 723 đến câu 756 là một trong số đó. Đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, đồng thời cũng cho thấy phẩm chất cao đẹp của nàng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nỗi lòng của Thúy Kiều khi nàng tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân – em gái của mình. “Trao duyên” trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là điều khó nói và Thúy Kiều cũng không ngoại lệ, để rồi nàng đã thật ý tứ và tế nhị tìm lí do để thuyết phục Thúy Vân. Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích đã gợi lên tư thế, dáng điệu của Thúy Kiều khi thuyết phục em.

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Tác giả Nguyễn Du đã có cách sử dụng từ ngữ thật độc đáo và gợi lên thật nhiều ý nghĩa. “Cậy” là từ ngữ dùng để diễn tả thái độ van nài, năn nỉ, như phó thác tất cả vào người đối diện. “Thưa” là thái độ kính cẩn, của người bề dưới nói với người bề trên, của người chịu ơn đối với người ban ơn. Chính việc sử dụng hai từ ngữ này đã cho thấy tư thế, vị trí của Thúy Kiều đối với Thúy Vân.

Kiều lạy, thưa Thúy Vân bởi lẽ hơn ai hết, Kiều hiểu trong hoàn cảnh hiện tại, Kiều đang phải nhờ vả, phải mang ơn em gái của mình khi nhờ em nối duyên với một người mà em gái cô chưa một lần gặp mặt, quen biết. Kiều lạy thưa em gái mình chính là lạy thưa một ân tình, một đức hi sinh cao cả. Hành động ấy của Kiều tưởng chừng như vô lí, trái với luân thường đạo lí nhưng trong hoàn cảnh của Kiều nó lại thật hợp lí bởi Thúy Vân đang ở vị trí của người ân nhân.

Thúy Kiều lạy, thưa Thúy Vân xong rồi nàng đã giãi bày nỗi niềm của mình với em và có lẽ đó cũng chính là những lí do để thuyết phục Thúy Vân, trao duyên cho em.

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa gặp em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Sáu câu thơ, ngắn thôi, nhưng có lẽ cũng đủ để Thúy Kiều nói hết nỗi lòng, hoàn cảnh của mình ở thời điểm hiện tại. Chuyện tình yêu của Thúy Kiều đang độ mặn mà, nồng thắm với biết bao ước thề, ấy vậy mà “giữa đường đứt gánh tương tư”, tai họa ập đến, chuyện tình đẹp như mơ ấy dường như đã “đứt gành rồi”. Thúy Kiều đang đứng giữa sự lựa chọn giữa “hiếu” và “tình” – một sự lựa chọn không mấy dễ dàng. Giờ đây, Thúy Kiều không còn sự lựa chọn nào khác, nàng chỉ còn biết trông chờ vào Thúy Vân, nhờ em “chắp mối tơ thừa”.

Hai chữ “mặc em” như đổ dồn tất cả lên vai Thúy Vân, như một lời khẩn cầu, một sự phó thác tha thiết từ tận đáy lòng của Kiều. Không chỉ giãi bày với em về cảnh ngộ của mình hiện tại, Thúy Kiều còn kể lại thật ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ về chuyện tình của mình với chàng Kim – một mối tình với biết bao thề hẹn, bao ước thề nhưng giờ đây đã giang dở. Đồng thời, để tăng thêm phần thuyết phục, Thúy Kiều đã đưa ra thêm những lí lẽ khác, thuyết phục Thúy Vân bằng tình cảm chị em, tình máu mủ:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Kiều biết Vân vẫn còn trẻ, “ngày xuân còn dài” với biết bao yêu thương, hạnh phúc đang đón chờ nhưng vì tình chị em, tình máu mủ ruột thịt mà đồng ý thay mình bén duyên với Kim Trọng. Thêm vào đó, với việc sử dụng thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, Kiều đã nói về cái chết của mình – một cái chết đầy mãn nguyện, thể hiện sự cảm kích của mình đối với Vân.

Như vậy, với cách lập luận chặt chẽ, Thúy Kiều đã nhờ cậy, thuyết phục Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Đồng thời, qua đó cho thấy diễn biến tâm trạng đầy phức tạp và sự sắc sảo, thông minh, giàu đức hi sinh và sự nghĩa tình của Thúy Kiều.

Sau khi thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã trao lại kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho em.

Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người đọc sẽ không thể nào không cảm thấy đau đớn, xót xa cho số phận, tình cảnh của Thúy Kiều. Có thể dễ dàng nhận thấy, “chiếc thoa”, “bức tờ mây’, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” là “của tin”, là vật đính ước thề nguyền, là kỉ vật tình yêu đã chứng kiến cho chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng. Ấy vậy mà giờ đây Thúy Kiều đành dứt lòng để trao lại cho em, chúng trở thành “của chung” của Thúy Kiều, Kim Trọng và cả của Thúy Vân nữa.

Thứ duy nhất Kiều giữ lại cho mình đó chính là “duyên này” – là tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Đau đớn, xót xa và đầy giằng xé khi trao kỉ vật cho em, Thúy Kiều còn đau đớn hơn khi nghĩ đến tương lai của mình và để rồi nàng căn dặn em thật xúc động.

Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy soi tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Với hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ gợi liên tưởng đến cái chết như “hiu hiu gió”, “hồn”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “người thác oan”,… đã cho thấy dự cảm của Thúy Kiều về tương lai của mình. Đó là một tương lai đầy sóng gió và có lẽ bởi vậy, Kiều đã nghĩ tới cảnh mình bị chết oan, hồn không thể nào siêu thoát được vì vẫn còn vương vẫn mãi lời thề với Kim Trọng. Điều đó một lần nữa cho thấy nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Để rồi, sau đó Thúy Kiều đã dặn dò Thúy Vân, phải đền ơn đáp nghĩa và rửa oan cho mình. Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em nhưng trong lòng nàng vẫn luôn đau đáu một nỗi đau đến tột cùng và càng đau, càng xót, Thúy Kiều càng nhớ thương Kim Trọng nhiều hơn.

Nghĩ đến tương lai với bao dự cảm không lành để rồi sau đó, Thúy Kiều lại trở về với thực tại xót xa để tự giãi bày lòng mình, hướng về tình yêu và nhớ về Kim Trọng.

Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Từ hình thức đối thoại chuyển sang hình thức độc thoại, những câu thơ đã thể hiện một cách rõ nét tâm trạng của Thúy Kiều. Hơn bất cứ lúc nào, Thúy Kiều ý thức sâu sắc về thực tại của mình với số phận nổi trôi, lỡ dở, lênh đênh. Điều đó thể hiện rõ nét qua việc sử dụng hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng”,…

Thêm vào đó, đoạn thơ còn cho thấy nỗi đau đến xé lòng của Thúy Kiều và nỗi nhớ thương Kim Trọng khôn nguôi. Kiều tự nhận mình là kẻ phụ bạc, là người đã làm tan vỡ mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng. Đặc biệt, tiếng gọi Kim Trọng với nỗi đau đến xé lòng của Kiều cùng cách thay đổi từ ngữ xưng hô thành “Kim lang” đã cho thấy sự nghẹn ngào, tức tưởi của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” bằng hình thức thơ độc đáo, ngôn ngữ vừa trang trọng, vừa giản dị, sử nhiều thành ngữ quen thuộc đã thể hiện một cách chân thực và rõ nét nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đồng thời, qua đó thấy được bi kịch tình yêu của Thúy Kiều và hơn ai hết, Nguyễn Du cảm thấy đau đớn, xót xa về điều đó.

Soạn bài “Truyện Kiều” của Nguyễn Du | Soạn văn 9

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 12)

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đày bão táp , cái xã hội bị đồng tiền chi phối. Trong cái xã hội ấy Nguyễn Du đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cái xã hội thối nát bấy giờ. Ông có cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ.

Ông viết ra rất nhiều tác phẩm nổi tiếng để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, đáng thương với người phụ nữi bất hạnh. Trong đó có kiệt tác “Truyện Kiều” trong truyện có đoạn trích “Trao duyên” mang âm hưởng bi kịch của sự đứt đoạn một tình yêu đẹp. Đoạn trích miêu tả tình cảnh trớ trêu của Kiều khi phải trao duyên cho em. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng khi tình yêu tan vỡ, mình phải buộc phụ lòng Kim Trọng

Sau đem thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến với gia đình Thúy Kiều, Kiều phải buộc bán thân để chuộc cha và em. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Đem tình yêu của mình cho người khác là một bất đắc dĩ, vì Kiều không thể làm khác hơn vì đã lỡ hứa hẹn với chàng Kim. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, trao duyên trong hoàn cảnh Thúy Kiều là một truyện khó nói và tế nhị vì Vân chưa biết gì về mối tình của Kiều và chàng Kim. Bốn câu thơ thể hiện tư thế, hình ảnh Kiều khi nhờ Vân nối duyên với người yêu mình:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Những điều Kiều sắp nói với vân thực sự quan trong và thiêng liêng. Đó là “cậy, lạy, thưa” thể hiện niềm tin chỉ có Vân là người mà Kiều tin cậy nhất. “Cậy” có sức nặng của niềm tin. Ở đây tác giả dùng “chịu lời” chứ không phải nhận lời là bắt người mình tin phải nghe theo và khó lòng từ chối. “Ngồi lên, lạy, thưa” là những thái độ của bề trên, những người có ơn với mình. Từ những câu thơ trên ta nhận ra dù trog hoàn cảnh tan nát thì Kiều vẫn dùng những lỡi lẽ đoan trang tế nhị thể hiện sự nhờ vả khẩn khoản của Kiều.

Kiều đau đớn khi tâm sự với em về mối tình của mình. Hình ảnh “quạt ước, chén thề” điệp từ “khi” diễn tả tình cảm gắn bó thân thiết, sâu sắc. “Đứt gánh tương tư” là sự mong manh, tan vỡ đột ngột, bất ngờ. Kiều xin em chắp nối tơ thừa của mình trả nghĩa cho Kim Trọng. “Mặc em” là phó mặc, ủy thác vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Vân phải nhận lời với mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sòng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Trong cái xã hội phong kiến đày rẫy sự bất công khiến cho nàng phải chịu khổ. Cha nàng bị kẻ gian hãm hại phận làm con nàng phải bán mình chuộc cha. Chữ hiếu làm tròn thì đồng nghĩa với chữ tình kia không vẹn

Nàng tự thấy Thúy Vân vẫn đang còn trẻ và là người duy nhất nàng tin cậy được nên yên tâm gửi lại mối tình này cho em:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Kiều mong Vân xốt tình chị em máu mủ ruột già mà đồng ý chuyện mình bén duyên với Kim Trọng. Mai kia Kiều không còn trên đời nữa thì cũng vui lòng khi Vân chấp nhận mối tơ duyên này.

Đến đây Kiều lại đưa ra những kỉ vật tình yêu giữa nàng với Kim Trọng để trao cho Vân. Trao đi tì sẽ không còn là của mình nữa nhưng Kiều vẫn mong em coi đó là kỉ vật của ba người:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”

Chiếc vành, bức tờ mây gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim-Kiều. Phím đàn, mảnh hương nguyền trở thành ngày xưa, quá khứ. Những kỷ vật quý giá thiêng liêng chứng minh cho tình yêu đẹp. Trao kỷ vật đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều khẳng định giữa tình cảm và lý trí, nhân cách và thân phận của Kiều. Tâm trạng của Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lý trí và tình cảm

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều hình dung ra viễn cảnh đối lập nhau. Một bên là Thúy Vân và Kim Trọng sum họp và một bên là oan hồn bạc mệnh của nàng. Dù nàng có chết thì mối tình của nàng với chàng Kim vẫn còn nặng. Trong lúc này thì sự bối rối, sự oan của mình làm cho Kiều không còn nghĩ tới mình đang nói chuyện cho mình nghe. Kiều tiên đoán trước cảnh tượng oan nghiệt, xót xa đang đợi mình phía trước.

Tình yêu mất xem như kiều đã chết, cái chết trống trải khi không có tình yêu, đó là cái chết tâm hồn. Tiếng nói thương xót cho thân phận của con người thiết tha với tình yêu. Chuyển từ đối thoại với em sang độc thoại nội tâm. Trao kỷ vật mà lòng thổn thức, đau lòng. Nàng lạy trăm nghìn cái gửi cho tình quân của mình như thể hiện lời xin lỗi chân thành cũng như cái cúi chào tạm biệt trước khi chia ly. Tơ duyên tưởng chừng sẽ cùng nhau đi tới cùng trời cuối đất nhưng mà ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Đoạn trích trao duyên quả là một đoạn trích hay và giàu ý nghĩa. nó không chỉ nói lên được tâm trạng của Thúy Kiều mà còn thể hiện được bộ mặt xã hội phong kiến đầy những bất công. Tình duyên của người con gái vì thế mà lỡ làng. Dù nàng có đi đâu thì nàng cũng vẫn nhớ về mối tình cùng chàng Kim Trọng.

 

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 13)

Nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du người ta nhớ ngay đến Truyện Kiều, một thiên truyện trở thành kiệt tác của văn học Việt Nam. Trao duyên là một trích đoạn trong tác phẩm này, trong tổng thể toàn tác phẩm, đoạn trích này có một vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Riêng 14 câu thơ giữa đoạn trích không chỉ thể hiện rõ lời nhờ cậy tha thiết và tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi trao duyên mà còn thấy được tấm lòng, tài năng của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm, tâm lý nhân vật.

Tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng tưởng chừng như sẽ được hạnh phúc bởi tình cảm tha thiết mặn nồng lại sâu nặng. Thế nhưng biến cố gia đình đã khiến đoạn tình đó đứt ngang chia lìa. Để có thể chuộc cha và em đang bị bắt, Kiều chỉ đành bán mình cho tên Mà Giám Sinh, đoạn trích Trao duyên diễn ra khi sự việc bán mình của Kiều đã rồi. Bản thân trở thành món hàng hóa mua bán trao đổi, không còn được sống với cuộc sống của chính mình, Kiều càng đau đớn hơn vì tình yêu tan vỡ.

Đến đây Kiều đành phải trao duyên cho em gái mình là Thúy Vân, nhờ cậy em trả nghĩa ơn tình cho Kim Trọng. Trong khi nói chuyện cùng với Vân, trong lòng Kiều như đang sống lại với những kỉ niệm tình yêu nồng thắm với chàng Kim, nàng sống trong hồi ức với nhiều kỉ vật:

Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung…
…Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Những sự kiện trong đêm thề nguyện thiêng liêng của hai người như “phím đàn” là cảnh Kiều ngồi đàn cho Kim Trọng nghe, và “mảnh hương nguyền” là khi Kim Trọng cho thêm hương vào trong lò “Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Có thể thấy, trong tâm hồn Kiều khi ấy là sức sống mãnh liệt của tình yêu thủy chung, sâu sắc. Duyên tình nguyện giữ trong lòng không thể chia sẻ chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cùng với những kỉ vật làm của chung của ba người.

Thúy Kiều trao đi những kỉ vật tình yêu cho em gái nhưng nội tâm đang giằng xé trong đau đớn, tình yêu của nàng càng mãnh liệt và sâu nặng bao nhiêu thì giây phút ấy nàng càng cay đắng và xót xa bấy nhiêu. Vậy nên Kiều đã chẳng còn nghĩ gì đến quãng đời phía sau của mình, sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Kiều đã liên tưởng đến cái chết:

“Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Một loạt các từ ngữ đề cập đến cái chết mà Kiều đã nói ra như “thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “dạ đài”, “người thác oan”. Trao đi đoạn duyên tình với chàng Kim nàng Kiều cảm thấy cuộc đời mình đến đây đã thấm câu “Hồng nhan bạc phận”, cảm thấy nửa đời về sau từ giây phút bán mình cho Mã Giám Sinh đã là dấu chấm hết.

Nàng cảm thấy sự tồn tại là trống trải, vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, không chỉ mường tượng ra cái chết mà nàng nhận định đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt không thể siêu thoát được vì còn vương nợ dương gian. Nàng “xin rưới giọt nước” để linh hồn đơn độc, đau khổ của nàng được siêu thoát.

Thúy Kiều đang nói chuyện với Thúy Vân nhưng thực ra cũng là đang độc thoại với chính mình, những lời tâm sự, dặn dò của Kiều cũng chính là tiếng nói thương xót cho thân phận của một người con gái tha thiết với tình yêu nhưng không thể thay đổi số phận nghiệt ngã. Chữ hiếu đã buộc nàng Kiều phải lựa chọn hy sinh tình yêu, lý trí của Kiều nhận thức được phải nhờ em gái trả nghĩa. Tuy đã nhờ cậy em nhưng bước đường này khiến Kiều đau đớn tột cùng, chỉ biết than thân trách phận, xót xa cay đắng chứ không hề được thanh thản cõi lòng.

Có thể thấy Thúy Kiều là một người con gái mang thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời, trong tâm hồn Kiều không có sự phân chia lí trí hay tình cảm, nhân cách hay thân phận mà hòa quyện chặt chẽ với nhau. Nhờ có bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tài hoa của Nguyễn Du cùng với ngôn từ độc thoại sinh động mà ta cảm thấy Thúy Kiều sống động và chân thực hơn, gần gũi tự nhiên chứ không hẳn là một tấm gương đạo lí.

Đoạn trích Nỗi thương mình - Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du | Vhoc.net

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 14)

Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.

Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.

Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.

Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả.

Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.

Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời.

Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn.

Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.

Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Truyện Kiều (mẫu 15)

Nỗi thương mình là đoạn thơ miêu tả tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi buộc phải làm kĩ nữ, tiếp khách ở lầu xanh. Khi biết rơi vào nhà chứa, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Nàng định liều chạy trốn theo Sở Khanh nhưng lại bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà bắt lại, đánh đập tàn nhẫn, cuối cùng buộc phải tiếp khách.

Kiều là một cô gái đẹp, cho nên nàng phải tiếp khách liên tục, cơ hồ như không dứt ra được.

Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Một không khí thật là náo nhiệt, ồn ào nơi chốn lầu xanh. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn tương phản với những nỗi lòng tê tái của nhân vật ở bên trong. Nguyễn Du rất biết khai thác các tương phán để miêu tả nỗi lòng, biết phân tích sự khác biệt bề ngoài và bề trong. Phải hiểu nỗi đau đớn trong tâm hồn mới hiểu được phẩm giá của Kiều.

Cả đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm nào, một buổi nào, một ngày nào, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách liên tục Ngày tháng chỉ là một sự chồng chất và kéo dài. Khi cuộc sống trở nên vô nghĩa thì người ta tính ngày tháng cụ thể để mà làm gì?

Nỗi thương mình của Kiều hiện lên những lúc vắng vẻ, những khi xong việc nàng tự đối diện với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau các hoạt động tiếp khách ồn ào, rộn rã. Ở đây sự miêu tả kết hợp với thuật theo bút pháp tự (kể) tình. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi thương mình.

Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót. xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gỉ?”

Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn của cuộc đời. Ba chữ “mình” trong một câu nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, gia đình ở xa, không ai biết là Kiều bị lừa, chẳng ai biết cho đời một người con gái tan nát! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị chà đạp.

Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác gấm, rủ bức là, tức tấm thần bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng có thể xéo lên tàn nhẫn!

Thứ hai là nàng ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành mặt dạn mày dày “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao mình lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được?

Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Những mình nào biết có xuân là gì” thành “Riêng mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đứng hơn, hợp hơn. Đó là “những mình”, như loại mình… bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.

Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:

Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Cảnh tượng nhìn qua quả là rất nên thơ, mà lòng nàng lại ủ dột:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”.

Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chi là vui gượng: “Ai tri âm đó, mặn mà với ai?”. Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ không mảy may ý nghĩa.

Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình, câu này tuy không có trong đoạn trích nhưng rất có ý nghĩa:

“Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân”.

Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm chuyện vui thú.

Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì tha hương lưu lạc và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.

Khi thuật lại nỗi thương mình của Kiều, nhà thơ dùng lời kể với điểm nhìn bên trong của nhân vật. Bốn câu đầu chỉ là miêu tả cảm giác của Kiểu về các sự việc diễn ra với nàng. Những câu còn lại đều có chủ ngữ là “mình”, mình tự nhìn mình, mình nghĩ về mình. Thử hỏi lúc này ai có thế suy nghĩ thay cho nàng được?

Với điểm nhìn ấy, khi đọc đoạn thơ, ta như trực tiếp đọc được những ý nghĩ thầm kín hết sức đau đớn của bản thân Kiều, chứ không phải nghe lời do ai đó thuật lại. Lẽ dĩ nhiên đó vẫn là lời thuật của Nguyễn Du, những điểm nhìn trần thuật bên trong là của Kiều đã tạo ra hiệu quả đó.

Nguyễn Du là nhà thơ rất tinh tế. Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục nơi lầu xanh, tác giả chỉ gợi qua các biểu tượng với những cụm từ được cấu tạo đặc biệt.

-bướm lả ong lơi
-lá gió cành chim
-bướm chán, ong chường
-mưa Sờ, mây Tần
-gió tựa, hoa kề

Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kể đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.

Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả tâm lí của Truyện Kiều.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Viết một đoạn văn (khoảng 6 - 8 dòng) giới thiệu một câu đối Tết mà em đã sưu tầm. Đoạn văn cần giúp người đọc thấy được cái hay của biện pháp đối trong câu đối ấy (hay nhất)

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật đoạn trích Lời tiễn dặn (hay nhất)

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật bài thơ Sóng (hay nhất)

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật bài thơ Tôi yêu em (hay nhất)

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật đoạn trích Nỗi niềm tương tư (hay nhất)

Tài liệu có 3 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.3 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
742 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
814 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
650 1 0
Tải xuống