Top 50 bài nghị luận Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn nghị luận Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Văn mẫu: Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học 

Dàn ý nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ - đó chính là nhân cách nhà nho chân chính

2. Thân bài

2.1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”

- Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người

- Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình

2.2 Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường

- Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng

+ “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính

- Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm

+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) Tài năng lỗi lạc xuất chúng

+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

=> Khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng

2.3. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại

- Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân

+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

+ Đi chùa có gót tiên theo sau.

+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)

=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng

- Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại

+ “ Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .

+ “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình

=> Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ

2.4. Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là người mang trong mình đạo lí trung quân

+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…

=> Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.

+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

=> Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình

3. Kết bài

- Khái quát và mở rộng vấn đề

Video nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng

Video nghị luận nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 1

Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông sống một cuộc sống nghèo khó. Cuộc đời của ông cũng gặp biết bao sóng gió, thăng trầm “lên thác xuống ghềnh”. Ông là một người tài giỏi, hiểu biết nhiều về các lĩnh vực quân sự, khoa học. Thế nhưng ông “Hi Văn” người Hà Tĩnh ấy có lúc đang giữ chức quan cao thì bỗng dưng bị giáng chức, chốn công danh như đang chơi đùa với Nguyễn Công Trứ. Vậy nên ông mới “ngất ngưởng”, mới khinh thường, ông làm nổi bật một nhà nho “khác thường” trong tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của mình: Một nhân cách nhà nho chân chính không theo khuôn mẫu. Theo quan niệm cũ của xã hội phong kiến xưa, nhà nho là người học rộng, biết nhiều. Một đấng nam nhi với đầy đủ công danh, đạo đức. Một con người vẹn toàn, hoàn hảo. Dĩ nhiên, Nguyễn Công Trứ cũng có được những điều ấy vì đã ông được học, thấm nhuần tư tưởng Nho học từ truyền thống gia đình.

   “Bài ca ngất ngưởng” là một bài thơ theo thể hát nói còn gọi là ca trù, được tuân theo một qui tắc nhất định. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán mở đầu bằng một câu chữ Hán “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu chữ Nôm “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” tạo một nét độc đáo.

                                           “Vũ trụ nội mạc phi phận sự
                                           Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
                                           Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
                                           Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
                                           Lúc Bình Tây cờ đại tướng
                                           Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

   Theo ông, trong vòng trời đất này không có cái gì thuộc quyền sở hữu riêng của một người. Ông đỗ đạt, làm quan và dung tài, đức của mình để cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Thế nhưng, ông dung từ “vào lồng” để thay thế cho việc làm quan, ông bị gò bó vào một khuôn mẫu. Nguyễn Công Trứ là một nhà nho chân chính khi ông đỗ đạt và  từng giữ nhiều chức quan cao như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc đông. Tư tưởng của một nhà nho học sách thánh hiền sẽ buộc ông phải có một thái độ khiêm tốn dù mình có tài giỏi đến đâu. Vậy mà ông đi ngược cái điều ấy, ông phá vỡ cái bức tường vững chắc của luật lệ Nho học để thể hiện thái độ sống của chính mình, một phong cách rất Nguyễn Công Trứ. “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng” ông tự tin, mạnh dạn cho mọi người biết cái tài cầm binh, thao lược của mình. Ông không khiêm tốn mà có phần ngang tàng, tự kiêu khi thêm vào chữ “ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng” là rất cao, ông dung từ đó để nêu bật cái phong cách sống của ông. Một phong cách sống vượt bậc, hơn người, thật “ngất ngưởng”! Trớ trêu thay, cái xã hội phong kiến xưa, cái suy nghĩ hà khắc của Nho giáo phải chăng ghét cái suy nghĩ cách tân như ông nên cứ hết giáng chức làm một người lính quèn rồi lại lên chức đúng với năng lực của ông. Lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên và ông đã kết thúc trò chơi “công danh” ấy khi lui về chốn thường dân.

                                           “Đô môn giải tổ chi niên
                                           Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
                                           Kìa núi nọ phau phau mây trắng
                                           Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
                                           Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
                                           Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

   Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời điểm ông sang tác bài thơ này. Ông cho mọi người biết rằng Nguyễn Công Trứ đã hết làm quan, đã được tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngông có trong con người ông  khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Con bò cũng trở nên “ngất ngưởng” nhờ Nguyễn Công Trứ! Câu thơ tiếp theo hiện lên là một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống dưới chốn thần tiên ấy- núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của nhà Nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc trái luật của nhà tu, hành xử không đúng với việc ông được học. Những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn vậy mà các nhà sư lại làm lơ phải chăng  vì nể ông từng giữ một chức quan cao khi hết thời mới phải sống ẩn dật thế này. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.

                                           “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
                                           Không Phật, không tiên, không vướng tục.”

   Hai câu thơ nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo âm hưởng cho bài thơ. Nó còn nhấn mạnh được việc Nguyễn Công Trứ dù đi chùa mà lại dẫn theo hầu gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm  thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư tật xấu vì ông là một nhà nho chân chính. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì ai.

                                           “Được mất dương dương người thái thượng
                                           Khen chê phơi phới ngọc đông phong.”

   Ông nêu bật suy nghĩ của mình- “được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Cùng với quan niệm “được – mất”, “khen – chê” cũng được Nguyễn Công Trứ suy nghĩ theo một hướng tích cực, không quan trọng.

                                           “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
                                           Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.”

   Hai câu cuối kết thúc bài thơ cũng đồng thời nhấn mạnh một lần nữa phong cách của ông. Ông tự liệt mình vào hang danh nhân, những người tài giỏi. Nguyễn Công Trứ kết thúc với khẳng định và kết thúc “Trong triều ai ngất ngưởng được như ông”. Đó là phong cách riêng biệt của nhà thơ.

   Cùng với một cách nghĩ khác về nhân cách nhà nho chân chính là Cao Bá Quát trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên cát) thể hiện tầm nhìn xa rộng của mình. Cao Bá Quát coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Đi trên cát mà cứ nghĩ mình đang đi trên đường công danh, bị sa lầy trong cát như vướng vào công danh. Một suy nghĩ sang tạo, cảnh báo công danh là bả mồi mà con người không nên vướng vào. Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo.

   “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ cái sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính. Ông không ép mình bị trói buộc, đóng khuôn theo tư tưởng Nho học lỗi thời. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên cái tôi, phong cách sống thật lạ, đặc trưng của riêng ông Hi Văn mà thôi. Chính Nguyễn Công Trứ, hay Cao Bá Quát hay những người có suy nghĩ như ông Hi Văn đã tạo nên một bộ mặt mới cho Nho học.

Top 50 bài nghị luận Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng hay nhất (ảnh 1)

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 2

Trong khoảng cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX , Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông sống một cuộc sống nghèo khó. Cuộc đời của ông cũng gặp biết bao sống gió, thăng trầm “lên thác xuống ghềnh”. Ông là một người tài giỏi, hiểu biết nhiều về các lĩnh vực quân sự, khoa học. Thế nhưng ông “Hi Văn” người Hà Tĩnh ấy có lúc đang giữ chức quan cao thì bỗng dưng bị giáng chức, chốn công danh như đang chơi đùa với Nguyễn Công Trứ. Vậy nên ông mới “ngất ngưởng”, mới khinh thường, ông làm nổi bật một nhà nho “khác thường” trong tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của mình: Một nhân cách nhà nho chân chính không theo khuôn mẫu.Theo quan niệm cũ của xã hội phong kiến xưa, nhà nho là người học rộng, biết nhiều. Một đấng nam nhi với đầy đủ công danh, đạo đức. Một con người vẹn toàn, hoàn hảo. Dĩ nhiên, Nguyễn Công Trứ cũng có được những điều ấy vì đã ông được học, thấm nhuần tư tưởng Nho học từ truyền thống gia đình.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

“Bài ca ngất ngưởng” là một bài thơ theo thể hát nói còn gọi là ca trù, được tuân theo một qui tắc nhất định. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán mở đầu bằng một câu chữ Hán “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu chữ Nôm “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” tạo một nét độc đáo.

Theo ông, trong vòng trời đất này không có cái gì thuộc quyền sở hữu riêng của một người. Ông đỗ đạt, làm quan và dung tài, đức của mình để cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Thế nhưng, ông dung từ “vào lồng” để thay thế cho việc làm quan, ông bị gò bó vào một khuôn mẫu. Nguyễn Công Trứ là một nhà nho chân chính khi ông đỗ đạt và từng giữ nhiều chức quan cao như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc đông. Tư tưởng của một nhà nho học sách thánh hiền sẽ buộc ông phải có một thái độ khiêm tốn dù mình có tài giỏi đến đâu. Vậy mà ông đi ngược cái điều ấy, ông phá vỡ cái bức tường vững chắc của luật lệ Nho học để thể hiện thái độ sống của chính mình, một phong cách rất Nguyễn Công Trứ. “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng” ông tự tin, mạnh dạn cho mọi người biết cái tài cầm binh, thao lược của mình. Ông không khiêm tốn mà có phần ngang tàng, tự kiêu khi thêm vào chữ “ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng” là rất cao, ông dung từ đó để nêu bật cái phong cách sống của ông. Một phong cách sống vượt bậc, hơn người, thật “ngất ngưởng”! Trớ trêu thay, cái xã hội phong kiến xưa, cái suy nghĩ hà khắc của Nho giáo phải chăng ghét cái suy nghĩ cách tân như ông nên cứ hết giáng chức làm một người lính quèn rồi lại lên chức đúng với năng lực của ông. Lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên và ông đã kết thúc trò chơi “công danh” ấy khi lui về chốn thường dân.

“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời điểm ông sang tác bài thơ này. Ông cho mọi người biết rằng Nguyễn Công Trứ đã hết làm quan, đã được tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngông có trong con người ông khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Con bò cũng trở nên “ngất ngưởng” nhờ Nguyễn Công Trứ! Câu thơ tiếp theo hiện lên là một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống dưới chốn thần tiên ấy- núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của nah2 Nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc trái luật của nhà tu, hành xử không đúng với việc ông được học. Những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn vậy mà các nhà sư lại làm lơ phải chăng vì nể ông từng giữ một chức quan cao khi hết thời mới phải sống ẩn dật thế này. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.”

Hai câu thơ nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo âm hưởng cho bài thơ. Nó còn nhấn mạnh được việc Nguyễn Công Trứ dù đi chùa mà lại dẫn theo hầu gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư tật xấu vì ông là một nhà nho chân chính. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì ai.

“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọc đông phong.”

Ông nêu bật suy nghĩ của mình- “được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Cùng với quan niệm “được – mất”, “khen – chê” cũng được Nguyễn Công Trứ suy nghĩ theo một hướng tích cực, không quan trọng.

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.”

Hai câu cuối kết thúc bài thơ cũng đồng thời nhấn mạnh một lần nữa phong cách của ông. Ông tự liệt mình vào hang danh nhân, những người tài giỏi. Nguyễn Công Trứ kết thúc với khẳng định và kết thúc “Trong triều ai ngất ngưởng được như ông”. Đó là phong cách riêng biệt của nhà thơ.

Cùng với một cách nghĩ khác về nhân cách nhà nho chân chính là Cao Bá Quát trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên cát) thể hiện tầm nhìn xa rộng của mình. Cao Bá Quát coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Đi trên cát mà cứ nghĩ mình đang đi trên đường công danh, bị sa lầy trong cát như vướng vào công danh. Một suy nghĩ sang tạo, cảnh báo công danh là bả mồi mà con người không nên vướng vào. Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo.

“Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ cái sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính. Ông không ép mình bị trói buộc, đóng khuôn theo tư tưởng Nho học lỗi thời. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên cái tôi, phong cách sống thật lạ, đặc trưng của riêng ông Hi Văn mà thôi. Chính Nguyễn Công Trứ, hay Cao Bá Quát hay những người có suy nghĩ như ông Hi Văn đã tạo nên một bộ mặt mới cho Nho học.

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 3

Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáo quan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tài năng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tài hoa và khí phách của “Ông Hi Văn”.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Khác với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không mở đầu bằng hai câu chữ Hán mà bằng một câu Hán: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu Việt: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ chữ Hán có nghĩa là trong vũ trụ này không có việc gì là không phải phận sự của ta. Đây là quan niệm thiêng liêng của nhà Nho mà Nguyễn Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và hạnh động nhất quán từ trẻ cho đến già. Vì nhiễm quan điểm chính thống đó mà “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ hay tuyệt! Nội lực phải dữ dội lắm mới có cái điệu tự hào như vậy. Tưởng chừng như Nguyễn Công Trứ cười một “ông Hi Văn” nào đó, không ngờ “ông Hi Văn” chính lại là Nguyễn Công Trứ! Con người suốt đời say mê công danh nhưng lại coi cái vòng công danh ấy là một cái “lồng”. Tại sao lại có thái độ khinh bạc ấy? Cũng dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người có tài đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời, cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong kiến mà ông cúc cung tận tụy lại quá bé nhỏ, thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy bị ràng buộc, mất tự do, khác chi một con chim trong lồng!

Thành ra những hành động chọc trời khuấy nước, tài thao lược của vị đại tướng để trả “nợ tang bồng” cũng chẳng qua là hành vi bay nhảy của con chim trong lồng.

“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Kể như thế cũng đã oanh liệt! Văn võ song toàn ở đỉnh cao. Ấy là tác giả chưa kể đến những công trạng khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân cho nước. Nhưng như thế thì Nguyễn Công Trứ có gì khác với giới quan trường vào luồn ra cúi bấy giờ? Đây, “ông Hi Văn” đây rồi!

“Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”

“Ngất ngưởng” ngay trong những hoạt động chính thống! “Ngất ngưởng” ngay trên đỉnh cao danh vọng! Thật là hiếm thấy. Đấy không phải là bộ dạng, hành vi bên ngoài mà ngất ngưởng đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống, cũng là cốt cách, là cá tính của “ông Hi Văn”. Làm quan cho một triều đại suy tàn của chế độ pk, giữa đám quan lại, mua bán tước, bên cạnh những “tiến sĩ giấy” oái oăm thay lại cùng trong một “lồng”, nên Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” cao ngạo là phải. Xét về mặt nhân cách thì thái độ “ngất ngưởng” là “công trạng” lớn nhất của Nguyễn Công Trứ. Thái độ “ngất ngưởng” xuyên suốt của cuộc đời. Nguyễn Công Trứ, nhưng xét đến cùng thì “ngất ngưởng” giữa triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh cao danh vọng là thái độ đáng kính nhất của “ông Hi Văn”.

Ngông đã trở thành cốt tủy của Nguyễn Công Trứ. Trong tiểu triều “ngất ngưởng”, cáo quan về “ngất ngưởng”:

“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”

Năm cởi áo mũ, cáo quan về hưu, không thèm cưỡi ngựa mà cưỡi bò vàng có đeo lục lạc, “ông Hi Văn” thật là “ngất ngưởng”. Chưa hết, ông còn cột mo cau sau đuôi bò, nói với thiên hạ là để che miệng thế gian. Rồi bỗng xuất hiện dãy núi quen thuộc của quê nhà: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Núi Đại Nại trên quê hương của thi nhân đẹp một cách hư ảo.

Người anh hùng chọc trời khuấy nước nay trở về lân la nơi cõi Phật. “Tay kiếm cung” ấy chỉ có làm đổ đình đổ chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”!

“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”

Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên xôn xao, có lẽ còn ở tài hoa nữa. Từ “đủng đỉnh” hay quá, đây là nhịp đi của các nàng ả đào vào chùa, cái nhịp “đủng đỉnh” của tiếng chuông mõ tịch diệt, chứ không phải là nhịp “tùng”, “cắc” dưới “xóm”. Nhưng không phải “đủng đỉnh” chốc lát trước sân chùa mà ả đào thành ni cô. Thì cũng như Nguyễn Công Trứ vào cửa từ bi mà đâu có diệt được lòng ham muốn.

“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, cá tính bị vo tròn, Nguyễn Công Trứ lại lồ lộ ra một cá nhân, hồn nhiên một cá tính. Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng”, nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã đi trước thời đại hàng thế kỉ!

Theo dõi bài ca từ đầu, ta thấy đã diễn ra ba giai điệu “ngất ngưởng”. “Gồm thao lược đã nên ngất ngưởng” là “ông Hi Văn” “ngất ngưởng” ở trong “lồng”. Đây là giai điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác đây là chiến thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người ta không còn là mình nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu “ngất ngưởng”. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là giai điệu tự hào của Nguyễn Công Trứ muốn “ngất ngưởng” thoát tục.

Và đây là giai điệu cuối có giá trị tổng kết cuộc đời của một nhà nho trung nghĩa mà không đánh mất mình:

“Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Đối với Nguyễn Công Trứ, “được mất dương dương người tái thượng”. Tác giả dùng điển tích “Tái ông thất mã”. Được chưa chắc là may, mất chưa hẳn là rùi. Trong cuộc sống bon chen đó, “được mất” một chút là người ta có thể làm thịt nhau, mà Nguyễn Công Trứ lại có thái độ bất biến trước sự được mất thì phải nói “ông Hi Văn” có bản lĩnh cao cường. Lại còn “khen chê” nữa, “khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Khen thì vui “phơi phới” đã đành, chứ sao chê mà cũng “phơi phới ngọn đông phong” nghĩa là cũng vui như ngọn gió xuân? Là vì cái gọi là chuẩn mực chính thống không trùng khít với chuẩn mực của nhà thơ. Thì mới oai phong đại tướng “Nguyễn Công Trứ đó đã bị cách tuột xuống làm lính thú, có hề chi, vẫn “phơi phới ngọn đông phong”. Có thể mất chức đại tướng nhưng miễn còn Nguyễn Công Trứ! Những âm thanh này mới làm bận lòng con người yêu đời, ham sống đó:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục”

Các giác quan của nhà thơ mở về phía cuộc sống tự do, về phía cái đẹp, về phía hưởng lạc. Thơ, rượu, ca trù, hát ả đào mới là đam mê của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ nhịp 2/2 réo rắt thật hay (khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng) làm sôi động cả khúc ca. Tác giả cũng không quên đánh giá lại công trạng của “ông Hi Văn” với triều đại mà ông phụng sự:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”

Nguyễn Công Trứ tự liệt vào hàng danh tướng, công thần đời Hán, đời Tống của Trung Quốc như Trái (Trái Tuân), Nhạc (Nhạc Phi), Hàn (Hàn Kì), Phú (Phú Bật). Ông tự hào như vậy là chính đáng, vì lý tưởng anh hùng của ông cũng không ngoài lí tưởng trung quân ái quốc của đạo Nho và ông đã sống thủy chung trọn đạo vua tôi.

Kể ra tìm một bậc danh sĩ văn võ song toàn như Nguyễn Công Trứ trong thời đại nào cũng hiếm, nhưng không phải là không có. Chứ còn “ông ngất ngưởng” thì tìm đâu ra?

“Trong triều ai ngất ngưởng như ông?”

Đây cũng là giai điệu cuối cùng của “Bài ca ngất ngưởng”. Tác giả đã chọn giai điệu “ngất ngưởng” đích đáng để kết thúc bài ca. “Ngất ngưởng” ngay trong triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh núi cao danh vọng, đó là nhân cách, là khí phách của Nguyễn Công Trứ.

Nếu được chọn một tác phẩm tiêu biểu cho toàn bộ trước tác của Nguyễn Công Trứ thì đó là “Bài ca ngất ngưởng”. Con người, tài năng, khí phách, tinh hoa của Nguyễn Công Trứ thể hiện sinh động trong tác phẩm trác tuyệt này. Thể hát nói đã thành thơ, thơ hay, vừa triết lí, vừa trữ tình, vừa trào lộng. Có một Nguyễn Công Trứ ngoài “lồng” cười một “ông Hi Văn” trong “lồng”, có một Nguyễn Công Trứ ngoại đạo cười một “ông Hi Văn” trong chung. Bốn giai điệu “ngất ngưởng” đã ghi lại cả cuộc đời hoạt động phong phú của một danh sĩ tài tình, trung nghĩa mà không đánh mất mình. Trong một xã hội mà cá nhân không được coi trọng, cá tính bị thủ tiêu thì thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những là khí phách của ông mà còn là một giá trị nhân văn vượt thời đại.

Top 50 bài nghị luận Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng hay nhất (ảnh 2)

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 4

Cuộc đời vắt ngang qua hai thế kỉ XVIII, XIX với cá tính độc đáo trong cà lối sống và thơ ca, Nguyễn Công trứ xứng đáng tiếp nối cái “Tôi” phá cách thể hiện trong văn học được truyền lại từ Phạm Thái, Hồ Xuân Hương… Chính những nét riêng ấy đã tạo thành vẻ đẹp cho nhiều sáng tác của nhà thơ, trong đó có “Bài ca ngất ngưởng”.

Bài thơ có một tiêu đề rất lạ “Bài ca ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng” là từ chỉ thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Tên bài thơ đã phản ánh cuộc đời cũng rất thăng trầm nhiều biến động của tác giả. Một cuộc đời chênh vênh lên xuống thất thường. Nhưng những trầm luân thế thái chỉ càng làm nổi bật nhân cách lớn lao của nhà nho chân chính Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ sống “ngất ngưởng”, sống tự chủ, phóng khoáng chẳng màng điều tiếng nhân gian.

Bài thơ được viết sau nãm 1848, tức là sau khi Nguyễn Công Trứ về hưu ở quê nhà – Hà Tĩnh. Cuộc sống tự do tự tại không bị gò bó bởi những lệ luật chốn quan trường khiến tác giả đã vốn “ngông” nay càng “ngông” hơn nữa. Ong càng bộc lộ cao độ cá tính phóng khoáng của mình. Đã bước sang bên kia cái dốc của cuộc đời mình, không ai tránh khởi cái quay đầu nhìn lại những vật đổi sao dời thế sự.

Quay lại phía sau, nhà thơ thấy tự hào vì đã không sống hoài, sống phí. Cuộc đời mình, ông đã làm được những gì mà một kẻ sĩ có thể làm để khẳng định vai trò cá nhân, gánh vác mọi việc trong trời dất: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” – Trong trời đất không việc gì không phải là phận sự của ta. Những học trò chốn cửa Khổng sân Trình luôn tâm niệm vai trò của tầng lớp: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Theo dó, cầu thơ của Nguyễn Công trứ đã thể hiện ý thức sâu sắc về vai trò trách nhiệm của bản thân, của tầng lớp mình đối với thời cuộc.

Tự xếp mình vào hàng những người luôn lo mọi việc trong trời đất, nhà thơ tự xưng tên: “ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” đã về hưu. Con chim bằng cánh sải chín dặm trời mây đã xếp cánh “vào lồng”, thời lừng lẫy nam bắc đông tây đã lui vào quá khứ nhưng trận gió cuốn, triều dâng đôi cánh ấy tạo nên vẫn thật vang động bốn bề:

“Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên”

Trong lịch sử văn học Việt Nam, cùng với một số ít tác giả độc đáo như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thì Nguyễn Công Trứ được ghi nhận là cái tôi cá tính, xưng tên riêng của mình trọng tác phẩm – nhà thơ viết “ông Hi Văn”. Nho giáo răn dạy học trò phải biết khẳng định vai trò cá nhân giữa trời đất nhưng đó là cái cá nhân “phi ngã” là cái “ta” ; Nguyễn Công Trứ đã lấy cái “tôi” của mình để chuẩn mực hoá biểu hiện của yêu cầu ấy. Điều đó thể hiện nhà thơ ý thức sâu sắc về cái “tôi” của mình giữa những cái ta chung chung đại khái. Không chỉ vậy ông còn hiểu rõ tài năng của mình. Điệp từ “Khi…khi…” cùng lối nhắt nhịp ngắn, rắn chắc của câu thơ đã khẳng định những tài năng cụ thể, phong phú của nhà thơ. Cuộc đời con người là hành trình đi tìm chính bản thân mình nhưng xã hội phong kiến không cho phép họ nhận thức, khẳng định cái tôi cá nhân. Trong thời đại ấy, thơ Nguyễn Công Trứ là lời ca đẹp ngợi ca khẳng định tính cá nhân của con người, đó là biểu hiện kín đáo của tính nhân bản, nhân vãn trong ý thơ tác giả.

Ý thức được tài năng, con người “ngất ngưởng” ấy còn ý thức được cả đức hạnh phẩm chất tốt đẹp của mình. Song, vẻ thanh cao trong đạo đức ông Hi Văn không phải để (và cũng không thể để, không chịu để) nơi thanh bần ẩn dật. Khác với Nguyên Trãi, Nguyễn Khuyến, đức hạnh Nguyễn Công Trứ còn đi cùng một cá tính “ngông” khác đời khác người nên ông không ngại ngần phô phang con người thật của mình: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Thiên hạ cỡi ngựa riêng ông Hi Văn cưỡi bò! Đã vậy ông còn đeo mo cau sau đuôi bò nhằm “che miệng thế gian . Lối sống khác người, khác đời vô cùng độc đáo ấy nhằm tách mình ra khỏi bụi trân xô bồ, xu nịnh, tham danh hám lợi của thê gian. Cá tính của nhà thơ cũng là thái độ của nhà thơ khinh thị những kẻ a dua, tầm thường, giả dôi. Ta từng ngợi ca khí tiết như mai như tùng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến,… thì ắt hăn không thể quên nét thanh cao nơi Nguyễn Công Trứ (dù chúng cao ngạo “ngất ngưởng” trên lưng bò!).

Không chỉ ngạo nghễ ngồi trên thế gian, ông Hi Vãn cũng biết hạ xuống nhân gian để thể hiện cái đa tình ở một nơi rất mực thanh cao:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Gót tiên theo đủng đỉnh một dôi dì”

Chỉ nhà thơ đi chùa mang cô đầu theo mà thôi. Không phải Nguyễn Công Trứ không biết sự ấy đáng cười: “Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”, đó là bụt cười, là người đời cười và cũng chính ông tự cười mình đó thôi.

Ai cười thù cũng mặc ai. Con người đã nếm đủ vị đời “lên voi xuống chó” thì còn sợ gì nữa! Ông ung dung trước những được mất của cuộc đời, trước những khen chè của thế gian.

“Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”

Bản lĩnh sống ấy đâu phải ai cũng có. Đó là khí tiết của bậc trượng phu đã thấu lẽ đời, hiểu mệnh trời “Kinh luân sẵn có trong tay” (Nguyễn Đình Chiểu) chỉ còn ung dung mà sống. Âm thanh “cắc – tùng” đệm vào câu thơ khiến ta tưởng cuộc đời này cũng như một cuộc chơi mà thôi. Những thú vui ca hát, rượu thơ giúp cuộc chơi thêm phong phú.

Ttưởng như ung dung bảo thủ với lối sống “chẳng giống ai” nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn biết gắn lô’i sống riêng với cuộc đời chung. Điều ấy nhà thơ cũng đã tự ý thức được giá trị của nó. Dù sống sao đi nữa, ông Hi Văn vẫn dặn lòng mình “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Giữ được cá tính nhưng vẫn hoà nhập vào cái chung, đó là bản lĩnh, là vẻ đẹp của sự tự tin hiếm có trên đời.

Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một cá tính có một không hai trong nền văn học Việt Nam. Thơ Nguyễn Công Trứ luôn “ngất ngưởng” một cái tôi ngạo nghễ, song không hề tách rời cuộc sống đời thường. “Bài ca ngất ngưởng” đã chứng minh vẻ đẹp trong lốỉ sống tự tại, thấu tỏ lẽ đời ấy.

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 5

Nguyễn Công Trứ là người học rộng, tài cao, làm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Nhưng cuộc đời ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở trên con đường hoạn lộ, khi đang làm chức quan lớn trong triều, ông đột ngột bị giáng chức, nhưng khí chất của một nhà nho chân chính thì không gì có thể lay chuyển được. Ông vẫn giữ lối sống “ngất ngưởng” khác thường. Vẻ đẹp của nhà nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của ông.

Nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, nhà nho là cách gọi những người tri thức xưa, theo lối Nho học. Như vậy, nhân cách của một nhà nho chân chính tức là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà nho chân chính đối với Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan trong triều, có đến khi ông cáo quan về hưu.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc Bình Tây cờ đại tướng

Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”

Mở đầu tác phẩm ông đã khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc phận sự của chính tác giả. Và quả thật trong cuộc đời mình, ông thi đỗ đạt và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, nhưng đồng thời ông cùng bộc lộ nỗi buồn vì bản thân bị “vào lồng” sống cuộc đời gò bó, chật hẹp. Các chức vụ ông được giữ đều là những chức vụ quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng trách nhiệm của một kẻ sĩ với đời. Dù biết rõ ra làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn sàng vào cái lồng đó, bởi ở đấy ông mới có cơ hội đem tài năng cống hiến cho đất nước, làm tròn chí làm trai của một nam nhi: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Nếu như các nhà Nho luôn sống theo lối khiêm nhường dù bản thân có tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ bộc lộ, thì ngược lại ông Hi Văn lại sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Dường như sau lời thơ của ông ta còn thấy được thái độ coi thường của tác giả với những loại người bất tài nhưng hám danh lợi, sống cuộc đời luồn cúi, trong khuôn khổ. Nhưng con đường làm quan của ông cũng đầy thăng trầm, một cá nhân khi có những biểu hiện khác thường, cách tân so với đám đông thường sẽ bị mọi người ghét bỏ, tìm mọi cách hãm hại. Bởi vậy con đường hoạn lộ của ông mới thăng giáng bất thường như vậy. Có lẽ, lối sống “ngất ngưởng” của ông không phù hợp với khuôn khổ chật hẹp, gò bó của xã hội phong kiến.

Khi ông từ quan, chính là khoảnh khắc cái tôi ngất ngưởng có cơ hội được thể hiện rõ nhất:

Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng định một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Nguyễn Công Trứ đã thực sự được sống cuộc đời tự do, tự tại, như con chim được tháo cũ sổ lồng. Những hành động lời nói của ông là biểu hiện của lối sống rất “ngông” đây cũng là nét phẩm chất làm nên cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, ông làm biết bao con mắt dõi theo. Về hưu ông dựng nhà ở núi Đại, với mây trắng phau phau bao phủ bốn phía, như chốn bồng lai tiên cảnh. Đồng thời ông cũng thường xuyên đi viếng, thăm thú cảnh chùa nhưng lúc nào cũng dắt theo các cô hầu con. Điều này thật trái với quy tắc của nhà chùa. Nguyễn Công Trứ đã bất chấp mọi luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, ngất ngưởng khiến cho bụt “cũng phải cười ông ngất ngưởng”.

Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông đưa ra quan niệm giữa được – mất trong cuộc đời này là chuyện bình thường và mỗi người cần bình thản đón nhận những biến đổi của cuộc sống. Đồng thời ông cùng khẳng định ông bỏ ngoài tai những lời khen – chê của thiên hạ đối với mình, thỏa thích vui chơi bất cứ những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Khổ thơ cuối, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Dù có thể ông không phải một danh tướng, danh nho nhưng trước sau lòng trung với vua ông vẫn vẹn đạo, đây chính là phẩm chất cao quý của nhà nho, thật đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, làm trọn đạo vua tôi, ở đời ai có thể ngất ngưởng được như ông?

Qua bài Bài ca nhất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của ông đều được xuất phát từ quan niệm Nho giáo đó là đề cao lòng trung quân, đây cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách ấy thật đặc biệt, khác lạ, ông không khuôn mình, trói buộc theo những tư tưởng Nho học, mà “ngất ngưởng” theo cách của riêng mình nhưng vẫn vẹn đạo với vua, với nước. Đây cũng chính là điểm nhấn tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.

Top 50 bài nghị luận Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng hay nhất (ảnh 3)

Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 6

Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.

“Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.

Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo_ đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.

Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giao ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.

Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minhg chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:

“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Lúc bình Tây, cờ đại tướng

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tố chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.

Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.

Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm trọn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tố chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.

Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.

Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:

“Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không tiên, không vướng tục”

Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.

Ông ngông ghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.

Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.

Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 7

Nguyễn Công Trứ là một nhà nho đã có những đóng góp lớn cho sự hình thành thơ ca hát nói. Trong hàng loạt bài thơ ca hát nói đạt tới mức cổ điển, mẫu mực mà ông để lại, “Bài ca ngất ngưởng” thuộc loại xuất sắc nhất, có thể xem đây như một bản tổng kết về cuộc đời đầy thăng trầm và phong phú của ông. Thể hiện nhân cách của nhà nho chân chính thật cụ thể và lay động lòng người.

Bài ca ngất ngưởng như một lời tự thuật độc đáo về cái tôi ngông nghênh, khinh đời ngạo nghễ, đối lập giữa bậc tài danh có phong cách chân chính với tầng lớp bất tài. Nhan đề của bài thơ tạo ra nhiều ấn tượng độc đáo “bài ca ngất ngưởng” tác giả sử dụng từ láy chỉ trạng thái đồ vật ở trên cao, không chịu giữ yên vị trí lúc lắc chông chênh, muốn đổ nhưng không thể đổ. Qua đó diễn tả được thái độ sống, tư thế và tinh thần của con người vươn lên thế tục. Sống giữa mọi người dường như không thấy ai, đi giữa cuộc đời tưởng như không có ai, một cá tính ngang tàn, khác đời, bất chấp mọi người và khẳng định cái tôi đầy tự tin, ngạo nghễ trước cuộc đời này. Nhân cách ở đây đó chính là tư cách phẩm giá của mỗi con người. Nhà nho là những người có tri thức thời xưa, theo nho học đọc sách thánh hiền và được thiên hạ vô cùng kính nể. Họ nhìn chung là những người rất hiểu lễ giáo có ích cho đất nước và cho thiên hạ.

Hình ảnh nhà nho chân chính ngất ngưởng ở chốn quan trường, đó là sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh với cá tính phóng khoáng:

“ Vũ trụ nội mạc phi phận sự ’’

Câu thơ đầu tiên thể hiện thái độ tự tin với quan niệm chí làm trai cùng tinh thần, ý thức trách nhiệm trong đời sống, mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả. Chí làm trai này ta đã từng bắt gặp trong thơ của Phạm Ngũ Lão:

‘’Công danh nam tử còn vương nợ’’ 

Nợ công danh như một món nợ mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu của mình. Họ sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình để ‘’cùng trời đất muôn đời bất hủ’’. Trả xong món nợ công danh cũng là lúc hoàn thành nghĩa vụ với dân với nước. Họ khao khát lập công để lại sự nghiệp, lập danh để lại tiếng thơm cho đời. Như trong ca dao:

‘’Làm trai cho đáng nên trai 

Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng’’. 

Hay như Nguyễn Công Trứ đã từng khẳng định:

‘’Đã mang tiếng ở trong trời đất 

Phải có danh gì với núi sông’’

Còn Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện được cái tôi cá nhân của mình:

“ Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng ‘’

Hy Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ, cách xưng danh cho thấy cái tôi và khẳng định cái tôi cá nhân, hoàn toàn khác với văn học Trung Đại là văn học phi cá nhân “xưng thì khiêm, hô thì tôn” ít khi đề cao mình. Còn Nguyễn Công Trứ lại mang tâm thế thật tự tin với cách nói cường điệu độc đáo, mang đến phong cách mới mẻ. Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính. Tác giả đã điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và những tài năng của mình:

“ Khi Thủ khoa, khi Tham tân, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.’’

Trong câu thơ đã có sự biến đổi linh hoạt với cách ngắt nhịp nhanh, âm điệu nhịp nhàng thể hiện tâm trạng của nhà nho. Sử dụng điệp từ “khi” bốn lần liệt kê ra những danh vị đã trải qua, nhấn mạnh cuộc đời đã gắn bó với nhiều danh vị, khẳng định được tài năng lỗi lạc xuất chúng, đó cũng là niềm tự hào xong vẫn có phần xem nhẹ danh vị. Từ “tay ngất ngưởng” thể hiện được phong cách sống, tư thế tài năng khác đời, khác người và khác thiên hạ. Một cốt cách tài tử phóng túng “ngông” một cách tự tin và cũng là sự ý thức tài năng, trách nghiệm của Nguyễn Công Trứ. Trớ trêu thay, trong xã hội phong kiến xưa luôn phải tuân theo những khuôn khổ, khiến cho lối sống của ông có sự ràng buộc, đó cũng là sự thách thức với thế gian.

Nhà nho chân chính ấy còn mang phong cách sống tự nhiên, độc đáo:

“Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

Ông cưỡi bò vàng đeo đạc ngựa, đi chùa có mang theo kiếm cung, có gót tiên theo sau. Phải chăng đó là thái độ sống bất cần, trêu ngươi, thách thức cả xã hội và cả thế gian.Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Con bò cũng trở nên “ngất ngưởng” nhờ Nguyễn Công Trứ.

Nhà nho với triết lí sống tự nhiên, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tài trên đời:

“Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọc đông phong.”

Trong câu thơ tác giả sử dụng từ láy ”dương dương, phơi phới” kết hợp cùng điển tích ”tái ông thất mã” thể hiện tâm hồn nhẹ nhàng, thanh thản và thoải mái. Cách ngắt nhịp thơ 2/2/3 cùng tiểu đối, từ ngữ được – mất, khen chê: nêu ra suy nghĩ của mình “được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Những hành động của ông khiến cho bụt cũng phải cười vì cái lạ, cái ngông của một nhà nho:

”Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không tiên, không vướng tục.”

Từ ”khi” được điệp bốn lần và từ ”không” được điệp lại ba lần, câu thơ diễn tả niềm vui, tâm hồn thật sảng khoái và thảnh thơi, không bị ràng buộc bởi điều gì ở đời. Qua đó thể hiện tâm hồn phóng khoáng và bản lĩnh cứng cỏi, cá tính ”ngông” độc đáo, hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng phong kiến bảo thủ.

Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là thái độ ngất ngưởng giữa chốn quan trường mang theo đạo lí trung quân:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.”

Sử dụng nghệ thuật so sánh để thấy được sự ý thức về tài năng, giá trị của cá nhân, luôn giữ được nhân cách của vua tôi. Sử dụng điển cố điển tích và ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật… Cũng là lời tự hào kiêu hãnh với cách sống riêng của mình, như một lời tuyên ngôn khẳng định cái tôi phi thường của Nguyễn Công Trứ. Đó là sự tôn trọng trung thực cá tính của chính bản thân, không uốn mình theo dư luận bên ngoài, phải luôn có tài năng và sống với đúng quan niệm của chính mình mới thực là đáng sống.

Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống đẹp, sống phải có bản lĩnh ngay cả trong khuôn khổ của xã hội phong kiến chuyên chế: hết lòng vì vua, vì nước, bất chấp những được mất và khen chê ở đời. Không chỉ ở nội dung mà còn ở phương thức nghệ thuật đã tạo nên một con người phong cách mới lạ và độc đáo, Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đem đến cho thơ hát nói một nội dung phù hợp, sâu sắc để bày tỏ tư tưởng, sự phóng túng trong tâm hồn và là giá trị nhân văn của một thời đại, của một nhà nho chân chính.

Tài liệu có 27 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.1 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
620 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
676 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
537 1 0
Tải xuống