Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Cảm nghĩ về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Văn mẫu: Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học
– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ: Tác giả với tư tưởng li tâm Nho giáo. Thương vợ là một trong số những bài thơ tiêu biểu thể hiện tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương
– Ngoài giá trị nội dung tương đối nổi bật, bài thơ còn thành công bởi việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
1. Dấu hiệu của ca dao, thành ngữ, tục ngữ trong bài thơ
– Sự vận dụng thành ngữ, ca dao, tục ngữ được thể hiện ở hai cặp câu thực và luận trong bài:
+ “Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
+ “Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
⇒ Nét nghệ thuật tiêu biểu này đóng vai trò to lớn trong thể hiện nỗi niềm thương vợ của Trần Tế Xương
2. Vai trò, tác dụng của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
– Hai câu thực:
+ “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”: Lấy ý từ câu ca dao: “Con cò lặn lội bở sông”
+ ”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng ⇒ vận dụng sáng tạo, đảo lặn lội lên đầu nhấn mạnh nỗi gian truân vất vả
+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát : vận dụng sáng tạo hình ảnh ca dao, dùng thân cò càng làm tăng nỗi gian truân của bà Tú
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu
⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua sử dụng sáng tạo ca dao
+ Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc
+ Buổi đò đông: Gợi liên tưởng đến câu ca dao: “Con ơi nhớ lấy câu này- Đò đông chớ lội, đò đầy chớ qua”: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu
– Hai câu luận:
+ “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn
+ nắng mưa”: chỉ vất vả
+ “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều
⇒ “Năm nắng mười mưa”: thành ngữ chéo gợi phẩm chất tần tảo của Bà Tú
+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.
⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú
⇒ Nhận xét: Âm điệu ca dao, thành ngữ đã được Tế Xương vận dụng một cách sáng tạo để thể hiện nỗi lo âu vất vả trong công việc hằng ngày của bà Tú, đồng thời càng thêm nhấn mạnh cho vẻ đẹp của bà và thể hiện tấm lòng thương vợ sâu sắc của ông Tú
– Khẳng định lại vai trò của việc vận dụng thành công ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong việc thể hiện thành công nội dung tác phẩm
– Liên hệ trình bày cảm nhận cá nhân về nét đặc sắc nghệ thuật này
Video cảm nghĩ về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ
Video cảm nghĩ về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ trong bài Thương vợ
Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.
Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.
Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”
Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.
Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:
“Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”
Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”
Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.
Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.
Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.
Một trong những đặc điểm lớn của thơ ca trung đại Việt Nam là sự kế thừa tinh hoa của văn học dân gian. Biết bao các nhà thơ trung đại đã ảnh hưởng điều đó vào sáng tác để hồn thơ mang đậm chất dân tộc. “Thương vợ” của Tú Xương cũng là một bài thơ có ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ được vận dụng sáng tạo làm nên màu sắc riêng của tác giả.
Bài thơ “Thương vợ” là tình cảm chân thành của thi sĩ dành cho bà Tú mà cất lên tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư thay vợ. Chân dung bà Tú hiện lên là một người vợ phải chịu nhiều vất vả , đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương và sự hi sinh cho chồng con. Bài thơ đã thành công với lối dùng từ, ngôn ngữ và sự ảnh hưởng của âm điệu ca dao.
Về ngôn ngữ được viết bằng chữ Nôm_sản phẩm của người Việt sáng tạo ra thể hiện tinh thần dân tộc. Từ ngữ trong bài thơ rất giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của nhân dân như các từ “Mom sông” tả không gian nơi bà Tú làm việc nguy hiểm nơi đầu sóng ngọn gió để mưu sinh “Nuôi đủ năm con với một chồng” hay các từ láy “Lặn lội”, “eo sèo”, “hờ hững” cho thấy sự cực nhọc của người vợ mà người chồng lại vô tâm, hờ hững. Lời thơ giản dị đó là lời bộc bạch tâm tư, tình cảm mà nhà thơ nhập thân vào hoàn cảnh của vợ để thấu hiểu, cảm nhận và thể hiện có cả tiếng chửi nhẹ nhàng sâu lắng “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” rất đời thường, mang đậm chất hiện thực sinh động.
Bài thơ được vận dụng các thành ngữ, tục ngữ rất sáng tạo không phải là trích nguyên văn mà biến đổi nhưng vẫn giữ được nội dung của câu nói như “Dầm mưa dãi nắng” được ông vận dụng sáng tạo thành “Năm nắng mười mưa” cho thấy sự vất vả được nhân lên rất nhiều lần của bà Tú.
Đặc biệt âm điệu ca dao có ảnh hưởng sâu sắc với hình ảnh sáng tạo “Thân cò lặn lội khi quãng vắng”. Xưa nay ta thấy hình ảnh con cò thể hiện cho sự vất vả cơ cực của người nông dân đặc biệt là nói về thân phận của người phụ nữ:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Hay:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng ấn tượng sâu sắc hơn.
Nhà thơ vận dụng sáng tạo các khái niệm duyên, nợ, phận trong dân gian vào câu thơ “Một duyên hai nợ âu đành phận” để nói về mối nhân duyên vợ chồng, ông Tú và bà Tú lấy được nhau là do duyên nợ từ kiếp trước. Bà Tú chịu cực vì ông Tú nhưng không một lời than vãn mà tự cho rằng đó là do duyên phận mà trời đã định. Bà chấp nhận điều đó không oán thán dù cho duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Bởi con đường hoạn lộ công danh của ông lận đận, suốt cả cuộc đời có ba việc chính là học, đi thi, làm thơ còn lại công việc trong gia đình đều do bà Tú lo liệu, gánh vác.
Dưới vần thơ tài tình của Tú Xương hình ảnh bà Tú hiện lên chân thật, bình dị nét đẹp phẩm chất của bà là vẻ đẹp của biết bao người phụ nữ Việt Nam tần tảo, hy sinh cả cuộc đời vì chồng con và hạnh phúc gia đình. Bài thơ đã thành công với sự vận dụng sáng tạo về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ làm nên nét đặc sắc riêng của Tú Xương.
Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.
Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.
Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”
Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.
Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:
“Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”
Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”
Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.
Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.
Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.
Tú Xương có nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vốn là "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng:
"Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ".
Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: "Tiền bạc phó cho con mụ kiếm - Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi".
"Thương vợ" là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời: hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ "hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc" (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một người đàn bà:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng".
“Quanh năm buôn bán" là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác... không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ ''mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới "Nuôi đủ năm con với một chồng". Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai "đếm" con, "đếm" chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm đang của mình.
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về "lặn lội" làm ăn như "thân cò" nơi "quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã "lặn lội" lại "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi cực nhọc kiếm sống ở "mom sông" tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh "con cò", “cái cò” trong ca dao cổ: ''Con cò lặn lội bờ sông...", "Con cò đi đón cơn mưa...", "Cái cò, cái vạc, cái nông..." được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình, ảnh "thân cò" lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ,... của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
"Eo sèo" là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi "mặt nước" lúc "đò đông”. Một cuộc đời "lặn lội", một cảnh sống làm ăn "eo sèo". Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được "Nuôi đủ năm con với một chồng" phải "lặn lội" trong mưa nắng, phải giành giật "eo sèo", phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: ''một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa", đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
"Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công".
"Duyên'' là duyên số, duyên phận, "nợ" là cái "nợ" đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. "Nắng", "mưa" tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: "một... hai... năm... mười..." làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình. "Âu đành phận"... "dám quản công"... giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác hoạ một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh "thân cò"... đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi "mom sông", lúc "buổi đò đông" đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!"
Trách mình "ăn lương vợ" mà "ăn ở bạc". Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn "hờ hững" với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!
Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội "dở Tây dở ta" chữ nho mạt vận, lúc mà "Ông nghè, ông cống cũng nằm co” cho nên nhà thơ tự trách mình, đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò".
Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thượng vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương chính mình vậy. Đó là nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ "Thương vợ" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi "mom sông" của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với "năm con, một chồng") vừa khái quát sâu sắc (người phu nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. "Thương vợ" là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái xã hội dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận, Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống "sang trọng" như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:
"Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(...) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm – giở lại bàn".
(Quan tại gia)
Tú Xương đã có bài ''Văn tế sống vợ", lại có thêm bài "Thương vợ", đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói về người vợ tào khang "tay bưng chén muối đĩa gừng", Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú "Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 - 1983) nhà thơ cùng thời với Tú Xương đã có bài thơ "Viếng bà Tú Xương" viết năm 1931:
"Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng,
Mẹ hiền, vợ đức đã treo gương.
Nếm chung trời Việt trăm cay đắng,
Vững với con Côi một mối giường.
Bia miệng đã nên trang khổn phạm,
Nếp nhà không thẹn dấu văn chương.
Tấm thân tuy thác, danh nào thác,
Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”.
Bài thơ của Á Nam giúp ta hiểu hơn Tú Xương và bà Tú, và chúng ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp của tấm lòng Tú Xương được nói đến trong bài "Thương vợ".
“Thương vợ” – một trong những bài thơ chất chứa nồng nàn bao cảm xúc của một người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng ấy không phải ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho vợ mình những tình cảm rất chân thành qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trẻ với những tác phẩm đã trở thành bất tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời.
Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
Trong những câu thơ đầu, ông miêu tả rất chân thực về cuộc sống và gánh vác nặng nhọc của vợ mình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
...
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Nghề của bà là buôn bán, quanh năm ngày tháng lặn lội ở “mom sông” – nơi có nhiều hiểm nguy rình rập. Ông Tú ngày đêm bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn để tâm đến công việc của vợ mình, khác hẳn với những người đàn ông khác trong chế độ nam quyền cùng thời. Ông là người có tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh.
Ông đã dành cho vợ những lời thơ rất giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ không thiếu thứ gì. Ông tự đặt mình cân xứng với “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương. Không phải ông hạ mình trước vợ, càng không phải ông thấp hèn, kém cỏi mà vì cái nghiệp văn chương của ông lúc bấy giờ không phải là thời thịnh nên không thể dựa vào đó mà lo toan cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ông còn thầm có sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh. Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon chen đầy vất vả, ganh đua.
Có người đặt ra câu hỏi, tại sao ông hiểu vợ mình vất vả như vậy mà lại không đứng lên làm giúp bà? Những vần thơ của ông có mang lại cơm áo gạo tiền cho bà đỡ vất vả? Ông hiểu biết, ông có tri thức sao lại để vợ mình phải vất vả vậy? Câu hỏi trái ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông không thể bỏ cây bút mà lao vào làm lụng chân tay cùng bà được. Mình bà gánh vác cả năm con đã là một gánh nặng lắm rồi, lại thêm cả một ông chồng. Liệu rằng người phụ nữ ấy có gục ngã, có kêu than?
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Một lần nữa, Tế Xương dành cho vợ mình những lời thơ rất đáng trân trọng, nâng niu. Ông cảm mến và cảm thông với nỗi niềm vất vả của vợ, ông thấu hiểu sự cam chịu của bà. Càng biết ơn vợ bao nhiêu, ông lại càng oán than bản thân mình bấy nhiêu. Ông tự chửi mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông không làm được gì giúp bà ngoài tình thương yêu và lòng thương cảm sâu sắc. Có lẽ đối với bà Tú như vậy cũng đã là đủ lắm rồi. Bởi thân phận người phụ nữ xưa ai cũng khổ, cũng chìm nổi long đong, nhưng chẳng mấy ai được chồng thương và thấu hiểu như bà. Chỉ là do thời thế nên ông không giúp được gì cho vợ.
Bên cạnh những tình cảm chân thành dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm bày tỏ niềm đồng cảm, xót xa với những thân phận đồng cảnh với bà. Bởi thế, ông ví vợ mình với “thân cò” – một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt Nam khi nói về số phận vất vả của người nông dân. Dù họ có phải “lặn lội”, phải “eo sèo” hay dù thế nào đi chăng nữa, những “thân cò” vẫn ngày đêm miệt mài kiếm sống.
Vậy, vì mục đích gì mà họ lại cam chịu như vậy? Không phải vì bị ép buộc, mà vì tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh ấy thật đáng trân trọng và đáng quý biết bao. Nhưng không phải ai cũng có nỗi lòng thấu hiểu như nhà thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ông không tự cho mình được quyền thong dong, được hưởng thụ thoải mái mọi thứ và được trà đạp lên người phụ nữ. Ở xã hội ấy, có những người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì không. Bà Tú đã đi vào thơ ông với ý nghĩa là một người vợ đích thực, một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh. Ông thương vợ và ngược lại cũng trách mình làm chồng mà “hờ hững cũng như không”.
Đúng như cái tên mà tác giả đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành những tình cảm chân thành nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong sao những tình cảm của mình sẽ làm bà vơi đi mệt mỏi sau bao ngày lặn lội vất vả mưu sinh.
Thơ văn Việt Nam xưa và nay có những bài thơ thương vợ, khóc vợ rất cảm động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức khóc một bà phi có câu:
Đập vỡ gương ra tìm thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Nỗi nhớ nhung đau đớn, dữ dội ấy còn được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Khuyến thể hiện cảm động trong bài văn tế, câu đối khóc vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào... trước tấm lòng, đức hi sinh của vợ bằng giọng văn vừa có chút tính nghịch, vừa rất cảm động; giữa sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình Tú Xương đã làm “giàu” thêm đề tài viết về bà Tú và kịp góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam một bài thơ về tình cảm thương vợ hay và sâu sắc.
Thương vợ là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu của bài thơ đã nêu bật lên được vai trò trụ cột gia đình của bà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn sâu sắc công lao của bà Tú. Có thời gian cụ thể: “quanh năm”; không gian cụ thể: “mom sông” càng làm nổi bật lên sự lam lũ, vất vả quần quật của bà Tú. Nơi buôn bán để kiếm miếng cơm manh áo của bà Tú là “mom sông”- là một chỗ đất nơi ra ở bờ sông, nơi ít người qua lại, sóng nước gập ghềnh gợi sự cheo leo, chênh vênh, nhiều bất trắc. Thế nhưng “quanh năm” nghĩa là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác như một vòng tuần hoàn khép kín, dù ngày nắng hay mưa,ốm đau hay khoẻ mạnh bà Tú lại quẩy quang gánh ra nơi “mom sông” ấy để buôn bán. Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn đối với bà Tú về mặt thời gian lao dộng. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà Tú là nhịp độ làm việc không ngừng nghỉ tại một nơi làm ăn, buôn bán khó khăn nhưng không phải chỉ để nuôi thân mà “Nuôi đủ năm con với một chồng’. Đâu còn thấy hình ảnh:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Mà trái lại đó là loại chồng: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Người chồng là trụ cột của gia đình, gánh vác việc nặng nhọc để cưu mang cuộc sống cho vợ con vậy mà ở đây, trong câu thơ này ông Tú cảm thấy mình như một người “thừa”, một kẻ vô dụng và như một “thứ con” đặc biệt để bà Tú phải nuôi riêng. Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít. Toát lên qua hai câu thơ là một niềm thương cảm của ông Tú dành cho vợ trước đức hi sinh, tần tảo của bà; đồng thời là một lời tự trách mình vì thân làm chồng mà để vợ gánh vác việc gia đình đồng thời còn thấp thoáng niềm tự hào về vợ của mình khi làm lụng vất vả để “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Mặc dù, đó là một ông chồng không phải nhưng bằng lối văn dí dỏm, tình cảm chân thành, nhận ra được sự vất vả của vợ, tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng nên người đọc không hề trách mà ngược lại có chút thông cảm đối với “ông chồng’ này.
Tình thương vợ được thể hiện trọn ven trong hai câu thơ 3, 4:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hai câu thơ gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp của bà Tú. Chẳng hay, ông Tú đã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bào giờ? Qua tiếng ru con cua một bà mẹ láng giềng hay chính trong lời ru của bà cụ Nhuận đã đi vào tiềm thức của tế Xương? Chắc chắn từ “con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa, thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay vèo thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Phép đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng khắc hoạ rõ nét nỗi khổ cực, đức hi sin, sự chịu đựng của bà Tú. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng “lặn lội”. Ca dao nói “con cò”, Tú Xương nói “thân cò”. Ý thơ cổ như xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân cò” gợi thân phận lẻ loi, yếu ớt, cô đơn và nó lại càng cô quạng, lạc lõng hơ khi đi cùng với từ “eo sèo”- một sự mặc cả, nhỏ nhoi, cô đơn, tội nghiệp. Vì “năm con với một chồng”, vì “miếng cơm manh áo” mà bà Tú phải chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi đến quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Từ đó càng làm nổi bật tấm lòng thương vợ của Tú Xương và qua đó ông tỏ ra thấu hiểu hết những vất vả của bà Tú:
Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Câu thơ như nói lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai, thôi đành chịu theo số phận, không giám nề hà, không kể công gì nữa. Nhưng câu thơ còn làm nhứ đến câu ca dao:
Một duyên, hai nợ, ba tình,
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh.
Ngoài cái duyên, cái nợ còn có cái tình; cái tình nghĩa vợ chồng của bà Tú dành cho chồng mình. Thành ra nói “nợ” mà thực ra là nói “tình”, mà đã là tình thì ai lại kể công. Số từ tăng tiến: “một”, “hai”, “năm”, “mười” càng dồn nén sự chịu đựng của bà Tú, càng làm trào dâng lên nỗi niềm xót thương, cảm thông trước sự hi sinh vất vả, tảo tần của bà Tú.
Bài thơ kết bằng một cấu chửi - một câu chửi yêu:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Nhìn cuộc đời bà Tú như vậy có chửi cũng là lẽ tất yếu. Nhưng ở đây ai chửi? chửi ai? Và chửi cái gì? Thì cũng chỉ là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Ông Tú đã tự chửi mát mình về cái thói “ăn ở bạc”, cái tội “làm chồng mà hờ hững cùng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ, nghìn cực như thế. Hai câu kết khép lại bài thơ vừa như là một lời chửi, vừa như là một lời than. Nhà thơ tự phán xét chính mình, tự trách mình và tha cho hoàn cảnh của vợ. Câu thơ cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của bà Tú là do “thói đời” bạc bẽo. “Thói đời” bạc bẽo đã biến ông Tú trở thành kẻ vô tích sự, chính vì thế ông trở thành gánh nặng cho vợ. Lời chửi vừa thể hiện nỗi niềm tâm sự cay đắng ch hoàn cảnh của ông Tú, vừa thể hiện nỗi xót thương, ngậm ngùi của ông Tú đối với vợ.
Bài thơ đã dựng lên hai bức chân dung: ông Tú và bà Tú. Bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp phía sau. Vượt lên trên tất cả là tấm lobngf yêu thương, quí trọng và tri ân của ông Tú đối với người vợ tần tảo. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng bình phẩm về bài thơ Thương vợ rằng: “Thơ hay, hay ở ý tình; hay ở chữ, tiếng, hay ở sự việc; hay ở nhạc điệu: lặn lộ, eo sèo, thân cò, mặt nước, quãng vắng, đò đông, mỗi chữ đều tình cảm”. Qua đó, tấm lòng yêu thương, trân trọng cũng như những trăn trở, day dắt đã tạo nên nhân cách cao đẹp của Tú Xương, một con người dám sòng phẳng với bản thân, tự nhận ra thiếu sót của mình và không trút bỏ trách nhiệm.
Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.
Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.
Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”
Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.
Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:
“Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”
Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”
Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.
Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.
Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.
Một trong những đặc điểm lớn của thơ ca trung đại Việt Nam là sự kế thừa tinh hoa của văn học dân gian. Biết bao các nhà thơ trung đại đã ảnh hưởng điều đó vào sáng tác để hồn thơ mang đậm chất dân tộc. “Thương vợ” của Tú Xương cũng là một bài thơ có ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ được vận dụng sáng tạo làm nên màu sắc riêng của tác giả.
Bài thơ “Thương vợ” là tình cảm chân thành của thi sĩ dành cho bà Tú mà cất lên tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư thay vợ. Chân dung bà Tú hiện lên là một người vợ phải chịu nhiều vất vả , đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương và sự hi sinh cho chồng con. Bài thơ đã thành công với lối dùng từ, ngôn ngữ và sự ảnh hưởng của âm điệu ca dao.
Về ngôn ngữ được viết bằng chữ Nôm_sản phẩm của người Việt sáng tạo ra thể hiện tinh thần dân tộc. Từ ngữ trong bài thơ rất giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của nhân dân như các từ “Mom sông” tả không gian nơi bà Tú làm việc nguy hiểm nơi đầu sóng ngọn gió để mưu sinh “Nuôi đủ năm con với một chồng” hay các từ láy “Lặn lội”, “eo sèo”, “hờ hững” cho thấy sự cực nhọc của người vợ mà người chồng lại vô tâm, hờ hững. Lời thơ giản dị đó là lời bộc bạch tâm tư, tình cảm mà nhà thơ nhập thân vào hoàn cảnh của vợ để thấu hiểu, cảm nhận và thể hiện có cả tiếng chửi nhẹ nhàng sâu lắng “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” rất đời thường, mang đậm chất hiện thực sinh động.
Bài thơ được vận dụng các thành ngữ, tục ngữ rất sáng tạo không phải là trích nguyên văn mà biến đổi nhưng vẫn giữ được nội dung của câu nói như “Dầm mưa dãi nắng” được ông vận dụng sáng tạo thành “Năm nắng mười mưa” cho thấy sự vất vả được nhân lên rất nhiều lần của bà Tú.
Đặc biệt âm điệu ca dao có ảnh hưởng sâu sắc với hình ảnh sáng tạo “Thân cò lặn lội khi quãng vắng”. Xưa nay ta thấy hình ảnh con cò thể hiện cho sự vất vả cơ cực của người nông dân đặc biệt là nói về thân phận của người phụ nữ:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Hay:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng ấn tượng sâu sắc hơn.
Nhà thơ vận dụng sáng tạo các khái niệm duyên, nợ, phận trong dân gian vào câu thơ “Một duyên hai nợ âu đành phận” để nói về mối nhân duyên vợ chồng, ông Tú và bà Tú lấy được nhau là do duyên nợ từ kiếp trước. Bà Tú chịu cực vì ông Tú nhưng không một lời than vãn mà tự cho rằng đó là do duyên phận mà trời đã định. Bà chấp nhận điều đó không oán thán dù cho duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Bởi con đường hoạn lộ công danh của ông lận đận, suốt cả cuộc đời có ba việc chính là học, đi thi, làm thơ còn lại công việc trong gia đình đều do bà Tú lo liệu, gánh vác.
Dưới vần thơ tài tình của Tú Xương hình ảnh bà Tú hiện lên chân thật, bình dị nét đẹp phẩm chất của bà là vẻ đẹp của biết bao người phụ nữ Việt Nam tần tảo, hy sinh cả cuộc đời vì chồng con và hạnh phúc gia đình. Bài thơ đã thành công với sự vận dụng sáng tạo về ngôn ngữ, âm điệu ca dao, thành ngữ, tục ngữ làm nên nét đặc sắc riêng của Tú Xương.
Trần Tế Xương một trong những nhà thơ nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông mang đậm âm hưởng dân gian đặc biệt thể hiện trong ngôn ngữ sử dụng trong các bài thơ. Bài Thương vợ là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất chất dân gian trong tác phẩm.
Trước hết về ngôn ngữ, bài thơ được viết bằng chữ Nôm, từ ngữ trong bài được sử dụng hết sức giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Bài thơ không sử dụng bất cứ điển tích, điển cố nào, mà hoàn toàn là ngôn từ của nhân dân. Lời thơ giản dị, gần với phong cách khẩu ngữ, đây có thể coi là những lời tự bạch hết sức chân thanh mà giản dị của ông đối với người vợ thân yêu của mình. Bà Tú một mình bươn trải, vất vả cực nhọc nuôi sống cả gia đình, không gian làm việc chật hẹp tù túng “mom sông” “quãng vắng” “buổi đò đông”, tất cả những vất vả, cực nhọc đó Tú Xương vô cùng trân trọng, nâng niu. Dù không giúp gì được cho bà Tú, nhưng có lẽ đôi mắt thương yêu, biết ơn của ông luôn dõi theo từng bước chân của bà. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn hết sức suồng sã, đậm tính khẩu ngữ: “Cha mẹ thói đời” tiếng chửi trong lời thơ Tú Xương vô cùng tự nhiên, giàu khẩu ngữ, góp phần tô đậm tính chất dân gian cho tác phẩm.
Trong tác phẩm, Tú Xương đã vận dụng thuần thục thành ngữ, tục ngữ, làm cho câu thơ đậm chất dân gian hơn nữa:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Lấy Tú Xương đối với bà Tú vừa là duyên mà cũng vừa là nợ. Ở đây tác giả đã vận dụng vô cùng tài tình, linh hoạt thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Duyên ở đây thì ít (một duyên) mà nợ ở đây thì nhiều (hai nợ), nhưng đã là duyên số với nhau thì bà Tú chấp nhập, không oán trách, không phàn nàn, “âu đành phận”. Câu thơ này làm ta bất chợt nhớ đến câu ca dao xưa của ông cha:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Hay: “Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợi đời chi đây”
Tú Xương đã vận dụng hết sức sáng tạo, cách nói của dân gian để khẳng định, ngợi ca sự hinh sinh thầm lặng, sự nhẫn nhịn của bà Tú với mình trong mối tơ duyên này. Hơn ai hết bà Tú là người ý thức rõ nhất lấy ông Tú là cái phận, số phận vốn phải vậy của bà, bởi vậy, dù có vất vả cực nhọc “mấy nắng mưa” phải lặn lội nơi quãng vắng, tranh cướp trong buổi đò đông bà cũng đâu “dám quản công”. Bà không hề than thở, oán trách, mà thực hiện nó như nghĩa vụ của bản thân. Đây chính là vẻ đẹp phẩm chất vốn có, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương, ông thấm thía hết cả những nỗi khổ mà bà Tú phải chịu đựng. Từ tình thương, ông Tú còn biết ơn, trân trọng đức hi sinh thầm lặng của bà Tú đối với gia đình.
Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh trong bài thơ cũng đậm chất dân gian, thể hiện rõ nhất trong hình ảnh con cò. Con cò vốn là hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân dân ca, nó gợi nên nỗi thống khổ, vất vả của người nông dẫn giữa của cuộc đời đầy sống gió, bão táp:
“Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao …”
Hay: “ Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khó nỉ non”
Và bà Tú cũng là một trong những thân cò lam lũ, vất vả như vậy: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Công việc của bà Tú là buôn bá gạo ở mom sông Vị Hoàng với rất nhiều nguy hiểm có thể gặp phải, đó là những hôm đi sớm về khuya một mình “nơi quãng vắng” là những ngày chợ đông với bao bon chen, tranh cướp, giành giật nhau “buổi đò đông” đầy bất trắc, nguy hiểm. Chỉ với một chữ “thân cò” thôi nhưng Tú Xương đã khái quát một cách đầy đủ nhất cuộc sống vất vả gian truân của bà Tú, không chỉ vậy còn cho người đọc thấy thêm những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Bà quả là một phụ nữ điển hình của Việt Nam.
Giọng điệu bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa giọng trữ tình và giọng tự sự, trong đó giọng trữ tình là chủ đạo. Giúp thể hiện được những cung bậc cảm xúc của tác giả: là sự biết ơn với người vợ chịu thương, chịu khó, chịu nhiều vất vả, cực khổ; là lời thơ tự trào về chính bản thân mình, trở thành một gánh nợ với gia đình. Đằng sau đó, Tú Xương thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với bà Tú.
Với sự vận dụng linh hoạt, tài tình các chất liệu dân gian từ ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu,… Tú Xương đã làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, cũng như vẻ đẹp phẩm chất của bà. Bên cạnh đó thể hiện sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông với người vợ tao khang. Đồng thời cũng khẳng định tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tú Xương.
Tú Xương có nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vốn là "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng:
"Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ".
Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: "Tiền bạc phó cho con mụ kiếm - Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi".
"Thương vợ" là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời: hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ "hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc" (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một người đàn bà:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng".
“Quanh năm buôn bán" là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác... không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ ''mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới "Nuôi đủ năm con với một chồng". Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai "đếm" con, "đếm" chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm đang của mình.
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về "lặn lội" làm ăn như "thân cò" nơi "quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã "lặn lội" lại "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi cực nhọc kiếm sống ở "mom sông" tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh "con cò", “cái cò” trong ca dao cổ: ''Con cò lặn lội bờ sông...", "Con cò đi đón cơn mưa...", "Cái cò, cái vạc, cái nông..." được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình, ảnh "thân cò" lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ,... của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
"Eo sèo" là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi "mặt nước" lúc "đò đông”. Một cuộc đời "lặn lội", một cảnh sống làm ăn "eo sèo". Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được "Nuôi đủ năm con với một chồng" phải "lặn lội" trong mưa nắng, phải giành giật "eo sèo", phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: ''một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa", đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
"Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công".
"Duyên'' là duyên số, duyên phận, "nợ" là cái "nợ" đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. "Nắng", "mưa" tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: "một... hai... năm... mười..." làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình. "Âu đành phận"... "dám quản công"... giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác hoạ một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh "thân cò"... đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi "mom sông", lúc "buổi đò đông" đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!"
Trách mình "ăn lương vợ" mà "ăn ở bạc". Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn "hờ hững" với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!
Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội "dở Tây dở ta" chữ nho mạt vận, lúc mà "Ông nghè, ông cống cũng nằm co” cho nên nhà thơ tự trách mình, đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò".
Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thượng vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương chính mình vậy. Đó là nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ "Thương vợ" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi "mom sông" của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với "năm con, một chồng") vừa khái quát sâu sắc (người phu nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. "Thương vợ" là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái xã hội dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận, Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống "sang trọng" như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:
"Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(...) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm – giở lại bàn".
(Quan tại gia)
Tú Xương đã có bài ''Văn tế sống vợ", lại có thêm bài "Thương vợ", đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói về người vợ tào khang "tay bưng chén muối đĩa gừng", Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú "Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 - 1983) nhà thơ cùng thời với Tú Xương đã có bài thơ "Viếng bà Tú Xương" viết năm 1931:
"Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng,
Mẹ hiền, vợ đức đã treo gương.
Nếm chung trời Việt trăm cay đắng,
Vững với con Côi một mối giường.
Bia miệng đã nên trang khổn phạm,
Nếp nhà không thẹn dấu văn chương.
Tấm thân tuy thác, danh nào thác,
Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”.
Bài thơ của Á Nam giúp ta hiểu hơn Tú Xương và bà Tú, và chúng ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp của tấm lòng Tú Xương được nói đến trong bài "Thương vợ".
“Thương vợ” – một trong những bài thơ chất chứa nồng nàn bao cảm xúc của một người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng ấy không phải ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho vợ mình những tình cảm rất chân thành qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trẻ với những tác phẩm đã trở thành bất tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời.
Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
Trong những câu thơ đầu, ông miêu tả rất chân thực về cuộc sống và gánh vác nặng nhọc của vợ mình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
...
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Nghề của bà là buôn bán, quanh năm ngày tháng lặn lội ở “mom sông” – nơi có nhiều hiểm nguy rình rập. Ông Tú ngày đêm bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn để tâm đến công việc của vợ mình, khác hẳn với những người đàn ông khác trong chế độ nam quyền cùng thời. Ông là người có tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh.
Ông đã dành cho vợ những lời thơ rất giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ không thiếu thứ gì. Ông tự đặt mình cân xứng với “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương. Không phải ông hạ mình trước vợ, càng không phải ông thấp hèn, kém cỏi mà vì cái nghiệp văn chương của ông lúc bấy giờ không phải là thời thịnh nên không thể dựa vào đó mà lo toan cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ông còn thầm có sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh. Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon chen đầy vất vả, ganh đua.
Có người đặt ra câu hỏi, tại sao ông hiểu vợ mình vất vả như vậy mà lại không đứng lên làm giúp bà? Những vần thơ của ông có mang lại cơm áo gạo tiền cho bà đỡ vất vả? Ông hiểu biết, ông có tri thức sao lại để vợ mình phải vất vả vậy? Câu hỏi trái ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông không thể bỏ cây bút mà lao vào làm lụng chân tay cùng bà được. Mình bà gánh vác cả năm con đã là một gánh nặng lắm rồi, lại thêm cả một ông chồng. Liệu rằng người phụ nữ ấy có gục ngã, có kêu than?
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Một lần nữa, Tế Xương dành cho vợ mình những lời thơ rất đáng trân trọng, nâng niu. Ông cảm mến và cảm thông với nỗi niềm vất vả của vợ, ông thấu hiểu sự cam chịu của bà. Càng biết ơn vợ bao nhiêu, ông lại càng oán than bản thân mình bấy nhiêu. Ông tự chửi mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông không làm được gì giúp bà ngoài tình thương yêu và lòng thương cảm sâu sắc. Có lẽ đối với bà Tú như vậy cũng đã là đủ lắm rồi. Bởi thân phận người phụ nữ xưa ai cũng khổ, cũng chìm nổi long đong, nhưng chẳng mấy ai được chồng thương và thấu hiểu như bà. Chỉ là do thời thế nên ông không giúp được gì cho vợ.
Bên cạnh những tình cảm chân thành dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm bày tỏ niềm đồng cảm, xót xa với những thân phận đồng cảnh với bà. Bởi thế, ông ví vợ mình với “thân cò” – một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt Nam khi nói về số phận vất vả của người nông dân. Dù họ có phải “lặn lội”, phải “eo sèo” hay dù thế nào đi chăng nữa, những “thân cò” vẫn ngày đêm miệt mài kiếm sống.
Vậy, vì mục đích gì mà họ lại cam chịu như vậy? Không phải vì bị ép buộc, mà vì tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh ấy thật đáng trân trọng và đáng quý biết bao. Nhưng không phải ai cũng có nỗi lòng thấu hiểu như nhà thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ông không tự cho mình được quyền thong dong, được hưởng thụ thoải mái mọi thứ và được trà đạp lên người phụ nữ. Ở xã hội ấy, có những người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì không. Bà Tú đã đi vào thơ ông với ý nghĩa là một người vợ đích thực, một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh. Ông thương vợ và ngược lại cũng trách mình làm chồng mà “hờ hững cũng như không”.
Đúng như cái tên mà tác giả đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành những tình cảm chân thành nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong sao những tình cảm của mình sẽ làm bà vơi đi mệt mỏi sau bao ngày lặn lội vất vả mưu sinh.
Thơ văn Việt Nam xưa và nay có những bài thơ thương vợ, khóc vợ rất cảm động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức khóc một bà phi có câu:
Đập vỡ gương ra tìm thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Nỗi nhớ nhung đau đớn, dữ dội ấy còn được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Khuyến thể hiện cảm động trong bài văn tế, câu đối khóc vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào... trước tấm lòng, đức hi sinh của vợ bằng giọng văn vừa có chút tính nghịch, vừa rất cảm động; giữa sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình Tú Xương đã làm “giàu” thêm đề tài viết về bà Tú và kịp góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam một bài thơ về tình cảm thương vợ hay và sâu sắc.
Thương vợ là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu của bài thơ đã nêu bật lên được vai trò trụ cột gia đình của bà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn sâu sắc công lao của bà Tú. Có thời gian cụ thể: “quanh năm”; không gian cụ thể: “mom sông” càng làm nổi bật lên sự lam lũ, vất vả quần quật của bà Tú. Nơi buôn bán để kiếm miếng cơm manh áo của bà Tú là “mom sông”- là một chỗ đất nơi ra ở bờ sông, nơi ít người qua lại, sóng nước gập ghềnh gợi sự cheo leo, chênh vênh, nhiều bất trắc. Thế nhưng “quanh năm” nghĩa là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác như một vòng tuần hoàn khép kín, dù ngày nắng hay mưa,ốm đau hay khoẻ mạnh bà Tú lại quẩy quang gánh ra nơi “mom sông” ấy để buôn bán. Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn đối với bà Tú về mặt thời gian lao dộng. Và điều cảm động, đáng để khâm phục bà Tú là nhịp độ làm việc không ngừng nghỉ tại một nơi làm ăn, buôn bán khó khăn nhưng không phải chỉ để nuôi thân mà “Nuôi đủ năm con với một chồng’. Đâu còn thấy hình ảnh:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Mà trái lại đó là loại chồng: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”. Người chồng là trụ cột của gia đình, gánh vác việc nặng nhọc để cưu mang cuộc sống cho vợ con vậy mà ở đây, trong câu thơ này ông Tú cảm thấy mình như một người “thừa”, một kẻ vô dụng và như một “thứ con” đặc biệt để bà Tú phải nuôi riêng. Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chồng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít. Toát lên qua hai câu thơ là một niềm thương cảm của ông Tú dành cho vợ trước đức hi sinh, tần tảo của bà; đồng thời là một lời tự trách mình vì thân làm chồng mà để vợ gánh vác việc gia đình đồng thời còn thấp thoáng niềm tự hào về vợ của mình khi làm lụng vất vả để “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Mặc dù, đó là một ông chồng không phải nhưng bằng lối văn dí dỏm, tình cảm chân thành, nhận ra được sự vất vả của vợ, tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng nên người đọc không hề trách mà ngược lại có chút thông cảm đối với “ông chồng’ này.
Tình thương vợ được thể hiện trọn ven trong hai câu thơ 3, 4:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hai câu thơ gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp của bà Tú. Chẳng hay, ông Tú đã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bào giờ? Qua tiếng ru con cua một bà mẹ láng giềng hay chính trong lời ru của bà cụ Nhuận đã đi vào tiềm thức của tế Xương? Chắc chắn từ “con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa, thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay vèo thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Phép đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng khắc hoạ rõ nét nỗi khổ cực, đức hi sin, sự chịu đựng của bà Tú. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng “lặn lội”. Ca dao nói “con cò”, Tú Xương nói “thân cò”. Ý thơ cổ như xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân cò” gợi thân phận lẻ loi, yếu ớt, cô đơn và nó lại càng cô quạng, lạc lõng hơ khi đi cùng với từ “eo sèo”- một sự mặc cả, nhỏ nhoi, cô đơn, tội nghiệp. Vì “năm con với một chồng”, vì “miếng cơm manh áo” mà bà Tú phải chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi đến quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Từ đó càng làm nổi bật tấm lòng thương vợ của Tú Xương và qua đó ông tỏ ra thấu hiểu hết những vất vả của bà Tú:
Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Câu thơ như nói lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai, thôi đành chịu theo số phận, không giám nề hà, không kể công gì nữa. Nhưng câu thơ còn làm nhứ đến câu ca dao:
Một duyên, hai nợ, ba tình,
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh.
Ngoài cái duyên, cái nợ còn có cái tình; cái tình nghĩa vợ chồng của bà Tú dành cho chồng mình. Thành ra nói “nợ” mà thực ra là nói “tình”, mà đã là tình thì ai lại kể công. Số từ tăng tiến: “một”, “hai”, “năm”, “mười” càng dồn nén sự chịu đựng của bà Tú, càng làm trào dâng lên nỗi niềm xót thương, cảm thông trước sự hi sinh vất vả, tảo tần của bà Tú.
Bài thơ kết bằng một cấu chửi - một câu chửi yêu:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Nhìn cuộc đời bà Tú như vậy có chửi cũng là lẽ tất yếu. Nhưng ở đây ai chửi? chửi ai? Và chửi cái gì? Thì cũng chỉ là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Ông Tú đã tự chửi mát mình về cái thói “ăn ở bạc”, cái tội “làm chồng mà hờ hững cùng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ, nghìn cực như thế. Hai câu kết khép lại bài thơ vừa như là một lời chửi, vừa như là một lời than. Nhà thơ tự phán xét chính mình, tự trách mình và tha cho hoàn cảnh của vợ. Câu thơ cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của bà Tú là do “thói đời” bạc bẽo. “Thói đời” bạc bẽo đã biến ông Tú trở thành kẻ vô tích sự, chính vì thế ông trở thành gánh nặng cho vợ. Lời chửi vừa thể hiện nỗi niềm tâm sự cay đắng ch hoàn cảnh của ông Tú, vừa thể hiện nỗi xót thương, ngậm ngùi của ông Tú đối với vợ.
Bài thơ đã dựng lên hai bức chân dung: ông Tú và bà Tú. Bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp phía sau. Vượt lên trên tất cả là tấm lobngf yêu thương, quí trọng và tri ân của ông Tú đối với người vợ tần tảo. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng bình phẩm về bài thơ Thương vợ rằng: “Thơ hay, hay ở ý tình; hay ở chữ, tiếng, hay ở sự việc; hay ở nhạc điệu: lặn lộ, eo sèo, thân cò, mặt nước, quãng vắng, đò đông, mỗi chữ đều tình cảm”. Qua đó, tấm lòng yêu thương, trân trọng cũng như những trăn trở, day dắt đã tạo nên nhân cách cao đẹp của Tú Xương, một con người dám sòng phẳng với bản thân, tự nhận ra thiếu sót của mình và không trút bỏ trách nhiệm.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.