Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Phân tích tâm trạng các nhân vật trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Văn mẫu: Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học có nó cũng là tác phẩm đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trực tiếp thông qua việc khắc họa tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện.
2. Thân bài
– “Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương V của tiểu thuyết Số đỏ nói về đám ma của cụ cố Tổ.
–> Qua đám ma rình rang, hoành tráng đó tính cách của từng nhân vật dần được bộc lộ.
– Đám ma của cụ cố Tổ diễn ra thật lạ lùng, lạ lùng từ những nghi thức đến thái độ của những thành viên trong gia đình và những người ngoài gia đình.
– Không hề có giọt nước mắt đau khổ, xót thương nào mà ngược lại sự ra đi của cụ cố Tổ còn mang đến hạnh phúc cho tất cả mọi người, nghịch lí này được thể hiện chính trong nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”.
– Tất cả mọi người trong gia đình đều có những niềm vui riêng trước sự ra đi của cụ cố Tổ:
· Cố Hồng vui vì được diễn vai của người con cả có hiếu, muốn được nghe những lời trầm trồ tán thưởng của bà con trong khu phố về cái phúc của một gia đình đại tư sản rằng khi con trai đã già mà cha mới mất.
· Văn Minh cảm thấy vui sướng vì cái chúc thư kia cuối cùng cũng đi vào giai đoạn thực hành.
· Cô Tuyết vui vì được mặc bộ trang phục ngây thơ để khoe với mọi người rằng mình chưa đánh mất chữ trinh
· Phán Mọc Sừng vui sướng, hạnh phúc vì nhận được khoản tiền kha khá.
· Cậu Tú Tân vui vì có dịp trổ tài chụp ảnh
– Không những người trong gia đình cảm thấy hạnh phúc mà niềm vui có khả năng lây lan ra tất cả mọi người ngoài gia đình.
· Những người bạn của gia đình vui vì có dịp khoe các loại râu, các loại huân chương cao quý, đặc biệt hơn họ còn cảm thấy vui vì được ngắm bờ ngực thấp thoáng trong bộ y phục ngây thơ của cô Tuyết.
· Hai viên cảnh sát Min-đơ, Min-toa thì vui vì được ghi biên bản phạt.
· Đám thanh niên nam nữ đi đưa tang vui vì được trò chuyện vui vẻ, chim chuột nhau.
· Người dân hàng phố thì vui vì được “thưởng thức” một đám ma to của gia đình đại tư sản danh giá.
–> Đám ma được tổ chức hoành tráng, nhưng lại mất đi cái trang nghiêm vốn có mà thể hiện đến tận cùng cái lố lăng, thiếu hiểu biết của những người trong gia đình.
3. Kết bài
Thông qua bối cảnh của đám ma, từng lớp mặt nạ của những nhân vật trong truyện được bóc trần, thể hiện đến cùng cái giả dối, giả nhân giả nghĩa của những kẻ tự xưng trí thức, những người thuộc giới thượng lưu danh giá.
Video phân tích tâm trạng các nhân vật trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Video phân tích tâm trạng các nhân vật trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Có người nói rằng: Hài vốn là cái bi được đẩy lên đến đỉnh cao. Gốc của cái hài là cái bi, và sâu xa hơn là khát khao cái đẹp. Đằng sau tiếng cười ta thấy sự phê phán, bất bình của tác giả trước hiện thực. Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng qua những sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Mỗi tác phẩm của ông là một chuỗi cười dài đầy căm phẫn ném vào cái xã hội lố lăng, đồi bại đương thời. Trong số đó, số đỏ (1936) là tác phẩm tiêu biểu. Tiếng cười sắc nhọn của ông bật ra ở tất cả các chương trong cuốn tiểu thuyết. Đặc sắc nhất là đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, nằm ở chương XV. Đoạn trích đã lột tả được toàn bộ chân dung các nhân vật thông qua một tình huống đặc biệt.
Mỗi chương trong tiểu thuyết số đỏ đều có một nhan đề riêng và nhan đề nào cũng giật gân, độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc. Ngay trong cách đặt tên: “Hạnh phúc của một tang gia” đã bộc lộ tình huống trào phúng: “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”, Nhà có người chết mà lại vui. Nhan đề này cho thấy tang gia quả có bối rối thật nhưng bối rối một cách sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám ma mà để tổ chức một ngày hội, một đám rước. Tiếng cười chỉ bật lên khỉ có mâu thuẫn, những chuyện ngược đời, trái lẽ thường, nhân sinh. Từ tiếng cười có tính chất mở đầu rất quan trọng này, người đọc theo sự chỉ dẫn của tác giả khám phá hàng loạt mâu thuẫn tiếp theo và ở mỗi mâu thuẫn, tiếng cười lại được bật ra thành một chuỗi cười dài đầy đau xót. Thông qua tình huống trào phúng này, chân dung các nhân vật trong xã hội “Số đỏ” cũng hiện lên hết sức sinh động, từ chân dung các cá nhân tới chân dung cả một tập thể, từ các thành viên trong gia đình tới các nhân vật đám đông ngoài xã hội. Nếu chân dung các cá nhân hiện lên rõ nét nhất trong cảnh tang gia thì chân dung nhân vật đám đông lại được bổ sung ở cảnh đưa đám.
Người chết là cụ cố tổ. Cụ để lại cho con cháu một gia tài lớn nhưng cụ già quái ác này lại ghi trong di chúc là chỉ chia tài sản cho con cháu sau khi cụ qua đời. Bởi vậy đám con cháu sốt ruột mong chờ cái chết của cụ như chờ đợi một niềm hạnh phúc. Và “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Như vậy, bước đầu tiên, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện ra cái hạnh phúc chung của đám con cháu cụ cố tổ. Cái hạnh phúc của họ làm cho nỗi bi ai tử biệt sinh li hoàn toàn mất ý nghĩa. Không khí đám ma cứ rộn ràng, tưng bừng như đang vào chính hội: “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê đám ma”; “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thoả thích”, Khách khứa đến chia buồn cũng “tấp nập” không kém.
Không dừng lại ở việc phát hiện ra niềm vui chung của đám thân thích trước thây ma xấu số, Vũ Trọng Phụng còn tiến thêm một bước quan trọng, đưa ngòi bút sắc sảo lách sâu vào suy nghĩ của mỗi nhân vật để bóc trần và tung hê lên không thương tiếc tất cả cái vui, cái hạnh phúc riêng đầy ích kỉ của chúng.
Cụ cố Hồng hiện lên là kẻ rởm đời, học đòi. Mới 60 tuổi mà đã thích người ta gọi là cụ cố. Từ trước tới nay cụ chỉ được diễn cái trò già cả trong gia đình. Thì nay, cái chết của ông bố dã tạo cho cụ cái cơ hội vàng để ông có dịp khoe già với thiên hạ. Cụ nhắm mắt mơ màng tới cảnh mình mặc đồ xô gai, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ chỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Trong lúc tang gia bối rối, thẳng bồi tiêm đếm được đúng 1782 câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Cụ biết gì? Chúng ta không biết, chỉ thấy rằng lồ lộ trên trang giấy là một kẻ thích thể hiện. Cụ lặp lại câu nói ấy như một con vẹt . Không tư tưởng bởi chính câu nói đó cụ cũng không ý thức được nó là thế nào. Cũng như con số 1782 câu nói “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, người đọc không thể không chú ý tới con số 60 điếu thuốc phiện. Người ta thường nói “tang gia bối rối” nhưng ở đây hình như cụ cố Hồng không có chút mảy may lo lắng nào. Việc ông bố nằm xuống chẳng liên quan gì tới nếp sinh hoạt, của cụ cố. Cái khoái cảm của thuốc phiện để lại trong phổi đã xua tan hết thứ tình cảm cha - con nguyên sơ. Không chỉ bất hiếu, cụ cố Hồng còn đáng khinh bỉ hơn vì cố đóng vai một người con hiếu đễ. Người đọc sau tiếng cười bật ra trước sự kỳ quái của cụ thì lại càng đau xót và căm phẫn hơn khi nhận ra bản chất giả dối, hợm hĩnh, khoa trương ở nhân vật.
Dân gian có câu: “nhà dột từ nóc”, đám con cháu của cụ cố cũng tỏ ra không chịu kém cạnh cha ông mình. Chân dung đám con cháu phải kể tới đầu tiên là ông Văn Minh. Nhân vật này hiện lên với bộ mặt đăm đăm chiêu chiêu rất phù hợp với cảnh nhà có đám. Tuy nhiên, cái khiến ông mang bộ mặt ấy không phải là nỗi niềm dành cho người đã khuất mà là nghĩ cách làm sao “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông cụ” để “cái di chúc kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không phải là lí thuyết viển vông nữa”, Thêm vào đó, ông băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân Tóc Đỏ thế nào. Xuân có tội đã tố cáo một em gái ông hoang dâm và quyến rũ một cô em gái khác làm cho gia phong nhà ông phải một phen chao đảo nhưng lại có công làm cho cụ tổ “chết thật”. Với Văn Minh, hai cái tội kia chỉ là tội nhỏ còn công của Xuân mới thực là lớn. Thì ra, danh dự, gia phong, phẩm giá của gia đình không có giá trị bằng những đồng tiền mà ông sắp được hưởng. Vũ Trọng Phụng đã rất tài tình khi phát hiện ra cái mâu thuẫn giữa hiện thực và bản chất, giữa bên ngoài và bên trong của nhân vật này. Bộ mặt đăm chiêu kia không xuất phát từ tình thương nhưng lại rất hợp với cảnh một người đang lúc tang gia bối rối.
Cậu Tú Tân thì “điên người lên” vì đã chuẩn bị mấy cái máy ảnh mà chưa được dùng tới. Với cậu, đám ma cụ cố tổ chỉ là dịp được thoả mãn một sở thích, một thú tiêu khiển.
Ông Phán mọc sừng tuy là người trực tiếp gây ra cái chết của cụ cố nhưng lại tỏ ra rất hạnh phúc. Thậm chí ông còn “trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương”, ông cháu rể quý hoá này lộ rõ là một kẻ hám tiền bất nhân. Hắn không chỉ coi đồng tiền hơn hạnh phúc mà còn coi nó quan trọng hơn cả danh dự bản thân. Bởi vậy Phán Mọc Sừng mới hỉ hả và ngạc nhiên “không ngờ rằng đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”. Cái chết của cụ cố tổ chính là khởi đầu cho một cuộc làm ăn lớn của ông.
Với bà Văn Minh và ông Typn thì đám tang là cơ hội ngàn năm có một để lăng xê, quảng cáo cho các mốt quần áo của trào lưu Âu hoá, Chính vì vậy, khi chưa thấy cụ cố Hồng ra lệnh phát phục, Văn Minh vợ “sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời” còn “ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của chính mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao”.
Như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy nền nếp gia phong của giai cấp tư sản trong công cuộc “Âu hoá”, “Giải phóng”. Cái chết của cụ cố tổ trưởng là mất song lại được rất lớn; được tiền, được danh, được tình. Cái buồn hoá thành cái vui, đại tang trở thành đại hỷ. Nếu buồn trong lúc vui là bất nhã, vui trong lúc, buồn là bất nhân thì gia đình cụ cố Hồng là một gia đình đại bất nhân, bất nghĩa. Qua gia đình này, tác giả đã nói lên một sự thật cay đắng: lối sống Âu hóa đã làm băng hoại đạo đức, tấn công vào những thành trì tưởng kiên cố nhất là tình cha - con, vợ - chồng, ông - cháu.
Nếu ở cảnh tang gia, đám ma cụ cố tổ mới chỉ khiến cho một gia đình hạnh phúc thì ở cảnh đưa đám, không những gia đình mà còn cả xã hội cũng náo nức, tưng bừng theo.
Đám tang giống như một đám hội tưng bừng, rộn rã, “đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy”. Nó theo cả lối ta, Tây, Tàu, “có kiệu bát cống và lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú-dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối”. Đây là đám ma của nhà giàu, hơn nữa còn là của những kẻ hợm hĩnh, phô trương, lố lăng, kệch cỡm, thừa tiền nhưng thiếu học.
Trong cảnh đưa đám, Vũ Trọng Phụng đã thật tinh tường khi phát hiện ra mỗi người đều có những niềm vui riêng.
Min Đơ và Min Toa sung sướng tới cực điểm khi được “thuê giữ trật tự cho đám ma” vào giữa lúc “đang buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ” vì “không có ai đáng phạt mà phạt”. Cụ cố tổ nằm xuống đã giải quyết nạn thất nghiệp cho hai viên cảnh sát này nên cái hết lòng của chúng cũng chỉ là cái hết lòng vì tiền. Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất của nghề cảnh sát trong xã hội thực dân. Thực chất nó chỉ có một chức năng duy nhất là nhăm nhăm phạt tiền của người khác mà thôi.
Trong đám ma này “ai cũng vui vẻ cả, trừ một Tuyết”. Một mình Tuyết đau khổ đến độ: “muốn tự tử được”, nhưng không phải vì người chết mà là đau khổ vì tình; “Tìm kiếm khắp mặt trong bọn người đi đưa đám ma cũng không thấy bạn trai đâu cả, Tuyết như bị kim châm vào lòng”. Đặc biệt, vẻ mặt và trang phục của cô có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt: “Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục ngây thơ - cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-xê, trông như hở cả nách và nửa vú - nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xính để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Với nhân vật này, đám ma là dịp để thanh minh với thiên hạ về sự “trong trắng” của mình, nhưng ngay trong sự thanh minh đã lộ ra bản chất “hư hỏng có lí luận” của cô “gái mới tân thời”.
Giống như cụ cố Hồng, bạn của cụ đến đám tang không phải để chia buồn mà là để khoe râu và khoe huân chương: “Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân... trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”. Với ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai, tác giả đã tạo dựng trên trang vãn những gương mặt nham nhở, kì quái, đầy tính chất biếm hoạ. Đặc biệt, “những ông tai to mặt lớn thì sát ngày với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”. Như vậy, cái đạo mạo bên ngoài của các vị đã bị Vũ Trọng Phụng lột trần bản chất.
Cái chết của cụ cố tổ làm cho nhiều người sung sướng lắm. Trong đó có cả sư cụ Tăng Phú: “Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng mà vênh váo ngồi trên một cái xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy”. Cái xấu xa chưa bao giờ lại lộ ra công khai, trơ tráo, không cần che đậy như thế. Đấng tu hành tưởng đã dứt bỏ được mộng trần thì giờ đây hiện nguyên hình là một kẻ hãnh tiến, thủ đoạn, xấu xa.
Sau khi khắc họa những gương mặt cá nhân, Vũ Trọng Phụng tiếp tục khắc họa những gương mặt tập thể. Hàng loạt những từ ngữ mâu thuẫn đã được tác giả sử dụng để làm bật lên chân dung các nhân vật: “Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám ma”, Những diễn viên quần chúng này vào vai rất tài tình. Họ đi đưa ma song không hề có một lời hỏi han tới người nằm xuống mà chỉ thì thào những câu “vui vẻ, ý nhị, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma”.
Thì ra, đâu chỉ có lũ con cháu cụ cố tổ bất hiếu mà cả cái xã hội đương thời cũng là một xã hội bất nhân, đạo đức giả. Đám ma đầy đủ tất cả, từ vòng hoa, câu đối, tới khăn xô mũ mấn song lại thiếu duy nhất một thứ, đó là tình thương, Thậm chí, tiếng khóc cuối cùng của ông Phán mọc sừng khép lại đoạn trích cũng chỉ làm cho điều này bộc lộ rõ thêm: “ông ta khóc quá, muốn lặng đi (...). Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi..Hứt!... Hứt! …Hứt”. Tiếng khóc song lại gây cười. Ông khóc tới không thể đứng nổi để mà thực hiện tốt công cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Đây là nhân vật cuối cùng khép lại đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” và cũng là một trong những diễn viên xuất sắc. Hắn đánh lừa không chì người ngoài mà ngay tới Xuân là người trong cuộc cũng không hề biết.
Trong đám tang có kẻ vô tình song cũng có kẻ hữu ý vào vai kịch rất đạt. Cái đám tang này hiện lên là một sân khấu cuộc đời. Nó cũng là một tấn trò đời mà đám con cháu chính là diễn viên. Lũ con cháu thì bất nhân, xã hội thì vô đạo, tất cả đều chỉ vì tiền, vì tình, vì danh, vì lợi. Theo mạch truyện, sự băng hoại ấy ngày càng lan rộng hơn, từ gia đình mà ra cả xã hội. Cũng giống Balzac xưa viết về người chết là để nói người sống, đằng sau tiếng cười của Vũ Trọng Phụng, ta thấy được sự phẫn uất cao độ của tác giả đối với xã hội thượng lưu đương thời. Có thể xem đoạn trích là số đỏ thu nhỏ, trong đó tư tưởng và nghệ thuật của tác giả được thể hiện một cách đặc sắc.
Số đỏ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng cũng như của văn học trào phúng Việt Nam hiện đại. Tính chất trào phúng đó không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ, giọng điệu, tình huống mà còn được bộc lộ trực tiếp, sắc nét nhất qua chân dung từng nhân vật trong tác phẩm trong đoạn trích Hạnh phúc một tang gia.
Câu chuyện bắt đầu bằng cái chết của một người ông già – cụ cố tổ. Đó là người ông, người cha, người bạn đáng kính của một gia đình thượng lưu. Những tưởng cái chết đó sẽ gây nên niềm đau xót khôn nguôi trong lòng người ở lại. Nhưng không, cái chết của cụ cố tổ lại là niềm vui, niềm hạnh phúc tột cùng của tất cả đám con cháu. Bởi bản di chúc ở trên giấy này đã được đi vào thực thi, bọn họ sẽ nhận được những gia sản kếch xù. Chính trong lúc tang gia bối rối, họ mỗi người nhao nhao lên theo một cách khác nhau, trưng diện một bộ mặt khác nhau để thể hiện lòng đau xót trong hạnh phúc tột cùng của mình.
Cụ cố Hồng, nhắm mắt mơ màng khi nghĩ đến giây phút mình mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho vừa khóc mếu, để cho thiên hạ chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Đây chính là cơ hội để cụ cố Hồng được diễn trò trước đám đông, là cơ hội để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mình thông qua việc tổ chức một đám ma thật to. Ông Văn Minh: Niềm vui riêng hòa lẫn niềm vui chung. Niềm vui của ông Văn Minh là biểu hiện cao độ cho niềm vui của cả gia đình: nóng lòng đợi luật sư đến để thực tế chia gia tài. Ông Văn Minh còn được Vũ Trọng Phụng miêu tả chi tiết đăm chiêu, vò đầu bứt tóc nhưng thực tế là đang không biết xử trí với Xuân tóc đỏ thế nào cho phải chứ không phải là lo lắng cho việc tổ chức đám tang của cụ cố tổ. Còn với bà Văn Minh vợ ông lại sung sướng khi được mặc bộ đồ xô gai tân thời, bà vui vẻ ra mặt, vì những mẫu đồ tân thời mới nhất bà sẽ nhân dịp này mà tung ra thị trường, biến đám tang thành nơi trình diễn, công bố bộ sưu tập mới nhất.
Ông phán mọc sừng, sung sướng, hả hê khi biết giá trị đôi sưng trên đầu mình, vì có nó mà ông sẽ được hưởng thêm một phần gia sản không nhỏ. Số tiền đó là đền bù cho danh dự của ông. Trong đám tang tiếng khóc Hứt ! Hứt của ông Phán mọc sừng liên tiếp được vang lên, ông khóc oắt người đi, đến nỗi không thể đứng vững, phải có Xuân Tóc Đỏ đỡ ông mới đứng được. Tưởng đó là nỗi đau rất thật, rất chân thành nhưng hành động dúi tiền vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ tiền gấp làm tư đã vạch trần bộ mặt dối trá của ông Phán mọc sừng. Hành động đó còn thể hiện mưu tính một cuộc hợp tác doanh thương với Xuân tóc đỏ để kiếm lợi nhuận.
Còn đối với Tuyết – cô gái hư hỏng một nửa lại vui mừng vì mình sẽ được mặc những trang phục Tân thời, bộ quần áo ngây thơ, nửa kín hở cái áo dài voan mỏng, đội một cái mũ nấm xinh xinh, khuôn mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Bộ quần áo ngây thơ Tuyết mặc để chứng minh mình không hư hỏng với thiên hạ, còn khuôn mặt buồn rất lãng mạn tưởng là nỗi buồn do mất đi người thân nhưng thực tế lại là vi nhớ nhân tình – Xuân Tóc Đỏ khi mãi cô vẫn chưa thấy Xuân xuất hiện trong đám tang. Vẻ mặt bề ngoài và thực tế bên trong đã bị Vũ Trọng Phụng sử dụng lời lẽ châm biếm sâu cay vạch trần.
Cậu Tú Tân, khi nghe ông mất thì cứ điên người lên, vì chiếc máy ảnh mới mua của cậu sắp được đưa vào sử dụng. Trong lúc hạ huyệt trong bộ quần áo luộm thuộm, cậu bắt bẻ từng người chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt,… dường như cậu Tú Tân như một nhà đạo diễn đại tài để cho vở kịch đám tang đau buồn thêm phần hoàn hảo.
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn tài năng thành công ở thể loại tiểu thuyết. Tiêu biểu là tác phẩm “Số đỏ” đã tái hiện lại bức tranh hiện thực về con người và xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX với những trò lố lăng, bịp bợm dưới ngòi bút đả kích, châm biếm sâu sắc. Trong đó ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nằm ở chương XV của tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của các nhân vật trong đoạn trích.
Tang gia mà đại gia đình kẻ trong người ngoài ai cũng hớn hở, mong chờ giây phút ấy để phô trương, khoe mẽ để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Tuy mỗi người một niềm vui riêng nhưng đã cùng nhau góp phần tạo nên một tâm trạng chung tang ma mà vui như hội.
Trước tiên là tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của con cháu trong gia đình. Theo như thường lệ người thân yêu qua đời thì bậc làm con phải đau đớn, xót xa và thương tiếc vô cùng nhưng ở đây tất cả con cháu từ người già cho đến người trẻ, từ con trai trưởng cho tới cháu chắt đều mong chờ giây phút cụ cố Tổ chết. Và khi điều ấy trở thành hiện thực niềm vui chảy trong từng mạch máu, thớ thịt của mỗi người “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” vì đồng nghĩa với việc cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành, chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”.Hạnh phúc của họ là hạnh phúc của tiền bạc, danh vọng và các giá rị phù phiếm chứ không còn là tình thương yêu con người của những người thân ruột thịt trong gia đình dành cho nhau.
Là người già cả lớn tuổi nhất trong gia đình lại là con trưởng của cố Tổ đang lúc tang gia bối rối, thi hài bố vẫn đang nằm dưới nhà nhưng cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác ung dung mơ màng, tưởng tượng đến cảnh “cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa con giai nhớn đã già đến thế kìa”. Thường thì chẳng ai mong mình già vậy mà cụ cố lại có cái ước muốn người ta khen mình già thật là lạ. Đối với ông tổ chức tang lễ cho bố là cơ hội để khoe khoang đám ma to chứng tỏ tài sản giàu có của kẻ thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông cụ là một đứa con bất hiếu nối tiếp là cả đám con cháu của một dòng họ nhiều tiền nhiều của nhưng lại cạn kiệt tình thương.
Ông Văn Minh cháu nội đích tôn của cụ Tổ Người đi du học bên Tây khi trở về mang danh nhà cải cách xã hội. Kẻ một bước đưa thằng lưu manh, ma cà bông Xuân tóc đỏ trở thành người có công nhất cho xã hội lúc bấy giờ. Trước cái chết của ông nội hắn vui sướng bởi được phân chia tài sản, việc đầu tiên ngay sau đó là mời luật sư đến để thực thi bức di chúc mà cụ Tổ để lại. Trạng của hắn bên ngoài thì tư lự, vò đầu bứt tóc, điệu bộ bối rối, mặt lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu rất hợp hoàn cảnh tang tóc nhưng thực chất bụng dạ bên trong đang băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân như thế nào cho hợp tình hợp lí bởi hai cái tội nhỏ và một cái ơn to. Nhà văn đã bóc trần bản chất giả dối bất nhân của hắn bằng cách đi sâu vào suy nghĩ bên trong nhân vật.
Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc bộ đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn xinh xinh, trong lúc tang gia mà vẫn không quên ý muốn lăng-xê cho những kiểu quần áo của tiệm may Âu hóa. Cô cháu dâu không một chút tình cảm thương tâm cho người đã khuất.
Hạnh phúc không kém là cháu rể quý ông Phán mọc sừng với niềm vui sướng dâng trào trong lòng hắn, kiêu hãnh với đôi sừng vô hình trên đầu không ngờ lại có giá trị đến thế. Hắn có được vài nghìn nhờ đôi sừng ấy khi bố vợ nói nhỏ vào tai sẽ chia thêm cho con gái và rể thêm một số tiền nữa. Thế mà đến giây phút cuối cùng lúc vĩnh biệt người chết hắn lại khóc oặt người đi hứt hứt mãi không thôi. Một chi tiết đáng cười, đáng châm biếm bởi sự giả tạo sắp không nhận ra sự thật nếu hắn không dúi vào tay Xuân tờ tiền năm đồng bạc gấp làm tư để trả thù lao vụ giao dịch về việc quảng bá đôi sừng vô hình gây nên cái chết cho cụ Tổ.
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm “Số đỏ” là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề “Hạnh phúc của một tang gia” là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình.
Ta cũng như đã thấy được mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của “một gia đình đông đảo và đáng kính” của một xã hội được coi là văn minh xã hội “thượng lưu”. Cả ta như thấy được tất cả cái gia đình ấy đã “nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nếu như sự nhao lên vì đau khổ và cũng chính vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chắc chắn không thể nào mà chúng đã nhao lên vì…. hạnh phúc ! “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm” Có lẽ chính câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã thâu tóm tất cả mọi thứ “thế thái nhân tình”.
Và ta như thấy được chính cái nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật dường như cũng đã rất rành rành cụ thể.
Nhân vật ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, ông bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình như cũng đã được tăng giá lên vài nghìn đồng. Và cụ cố Hồng dường như cũng đã rất sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai. Ông như đã lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để hi vọng được người ta ngợi khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…”. Còn nhân vật ông Văn Minh chính là cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội ? Ông ta dường như tỏ ra sung sướng tột đỉnh lắm, bởi vì với cái chết của ông nội thì tờ di chúc kia sẽ đi vào thực thi chứ không phải là nằm trên giấy nữa được thực hiện. Và việc này đồng nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật một sự thật đã mong mỏi từ lâu. Còn bà Văn Minh thì cũng “vui” chúng với niềm vui của đám tang, bà như sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận cũng đã như ra từ cái chết của ông nội chồng chính một dịp may hiếm có để có thể mặc “trang phục tân thời” đó chính là những bộ “đồ xô gai tân thời”, “những sáng tạo mốt mới” của tiệm may Âu hoá kệch cỡm của bà.
Còn đối với nhân vật cô Tuyết- một cô gái hư hỏng nhưng chỉ “hư hỏng một nửa” và Tuyết chính một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết đã chọn và mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó chính là một “vẻ buồn lãng mạn” buồn ở đây chính là vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả như thật trùng khớp biết bao nhiêu. Có lẽ các vị tai to mặt lớn đi đưa đám như cũng chăm chăm như nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động mà thôi chứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy thật là một đám người con cháu lố bịch.
Đám ma to thật, có thể nous cái đám ma này nó to đến mức “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta dường như cũng đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, và khoe sang thậm chí là còn để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.
Nhưng chưa dừng lại ở đó thì dưới mắt Vũ Trọng Phụng, ta cũng như đã thấy được chính cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng dường như cũng đã thật là đông đảo lắm. Ta như thấy được toàn xã hội văn minh Âu hóa. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát cũng như là đồng nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi mà đã được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Ta như thấy được cái lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang “buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ”. Tiếp sau đó chính là đến các vị tai to mặt lớn, đó chính là lớp “hoa” của giới thượng lưu xã hội. Có vẻ như chính mặt mũi sang trọng, người đeo đầy đủ các thứ “hội rinh”. Ta như thấy được trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, và đó dường như cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng ngần như đang thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết mà thôi.
Đặc biệt hơn nữa đó cũng chính là sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này dường như cũng đã lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Cho đến bà cụ cố Hồng,dường như có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói los lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thờ cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy của mình thì nhà văn Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Ta có thể thấy được đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, và đó cũng chính sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất đó chính là sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Ở đời có mấy ai lại “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, đôi khi đến cả cái chết của kẻ thù không đội trời chung cũng không như thế. Huống chi đó lại là sự ra đi của người thân, là sự ra đi của đấng sinh thành thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kì lạ với mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”,...! Điều này đã được thể hiện rất rõ ở chương Hạnh phúc của một tang gia.
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm Số đỏ là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình. Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi từ lâu, họ mong cụ chết thật nhanh để chia gia tài. Thay vào đó, cái chết của cụ đã đem đến cho sự niềm vui – một “hạnh phúc”.
Ông Phán mọc sừng là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong đám con cháu đó. Phán mọc sừng – cháu rể “quý hóa” của cụ cố thì đang sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ” đã thành công mĩ mãn. Nhờ đó mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế”.
Niềm vui của cụ cố Hồng thuộc kiểu “hiếu danh mù quáng” đến mức ngu xuẩn và lố bịch. Đối với nhân vật kì quặc này, ông cụ thân sinh qua đời sẽ là một cơ hội hiếm có để cụ cố Hồng lên chức cụ cố trước mắt bàn dân thiên hạ, mặc dù về tuổi đời, cụ mới ngoài năm mươi! Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa !” và “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...’’.
Còn Văn Minh – cháu đích tôn của cụ cố tổ thì cũng có lí do để vui: chắc chắn sẽ được chia cho một số tài sản rất lớn nên điều “băn khoăn” của ông ta là “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội”. Thật vui vẻ vì “thế là từ nay trở đi cái chúc thư kia sẽ đi vào thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Các thành viên còn lại chỉ thực sự hạnh phúc khi cụ Hồng ra lệnh phát phục. Bởi đám tang cụ cố tổ là một sự kiện để mỗi người đó có dịp trình diễn cái vai trò của cá nhân mình trước xã hội: bà Văn Minh sẽ trình diễn đồ xô gai thuộc dạng mốt tân thời, Tuyết được diện bộ y phục mang tên Ngây thơ để chứng minh với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất chữ trinh… Rồi cậu Tú Tân sẽ trình diễn tài nghệ chụp ảnh trong đám tang, còn ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thuyết kế…
Niềm vui hạnh phúc do cái chết của cụ cố tổ đem lại không chỉ ngập tràn trong tâm hồn các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng mà còn lan tỏa ra cả ngoài tang quyến. Đó là niềm vui bỗng lại có công ăn việc làm, hai cảnh bình thuộc bộ thứ mười tám Min Đơ và Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám ma “đã trông nom rất hết lòng”.
Các ông “tai to mặt lớn” - những người bạn của cụ cố Hồng nhân dịp đến chia buồn với tang gia mà tiện có dịp khoe công trạng một đời với đủ loại huân chương “Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vân Tượng bội tinh…”. Tuy nhiên, cái đám đầy râu ria ấy lại đang mãn nguyện, sung sướng khi đến chia buồn bỗng lại được thưởng thức cái làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh ngực Tuyết.
Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo trên một chiếc xe vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở phố, thể nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”
Với đám giai thanh, gái lịch Hà thành, những kẻ không dính líu chút nào về quan hệ họ hàng, ruột thịt với người đã khuất thì niềm vui của họ ở đây là cơ hội để “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Nhưng có lẽ người hạnh phúc nhất là Xuân Tóc Đỏ, dù anh ta không có ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói lố lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thời cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kì dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút của Vũ Trọng Phụng như có sức lây lan rất rộng : từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang quyến đến người ngoài tang quyến. Tác giả đã vạch trần cái xã hội Âu hóa đầy lố bịch với những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa.
Tiếng cười căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là "khốn nạn", "chó đểu" trong Số đỏ nói chung và Hạnh phúc của một tang gia nói riêng cứ xoáy sâu vào tâm trí độc giả. Ấy là một "thế thái nhân tình" được xây dựng trên hai điều, sự tàn nhẫn và sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu văn tưởng chừng ngược đời mà lại có lí: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm".
Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ cố Hồng là cả một xã hội phong kiến tư sản nực cười. Khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành bước vào đời, con người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không có gì hơn ngoài mong muốn được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi "suối vàng", cái chết của cụ tổ lại mang lại bao nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ Hồng. Tình cảm người ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối nát, bẩn thỉu. Câu chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã mang lại cho tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Ngay ở tiêu đề của đoạn trích, tác giả đã có ý nhấn mạnh sự tàn nhẫn và dối trá. Hạnh phúc đi liền với tang gia và tang gia tạo nên hạnh phúc. Đoạn trích đã làm nổi bật hai mặt trái ngược này bằng một trường phúng dụ gây cười rất tự nhiên, hợp lí.
Nhìn nét mặt, hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người đọc cảm nhận cái hạnh phúc mà họ sẽ được nhận và đã mong chờ từ rất lâu. Khi tắt thở, không biết cụ tổ có nhận thấy cái chết ấy đã làm cho nhiều người được sung sướng lắm. Niềm hạnh phúc được tràn ra qua cái nhắm mắt mơ màng của cụ cố Hồng khi nghĩ "đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ :
- Úi kìa, con giai nhớn đã đến thế kia kìa!
Cụ nhắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế… Viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà lạ lùng và cay đắng quá, Người ta đến đưa thi thể của cụ cố xuống nơi suối vàng, chứ đâu phải ngắm nhìn "con giai" cụ đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ ấy đã phản ánh đúng tâm trạng của cụ Hồng trong cái đám ma "rộn ràng", "huyên náo".
Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy "không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế?". Ông hạnh phúc khi được nghe thấy cụ Hồng nói nhỏ vào tai là sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Dường như đến đưa ma cụ cố, ông Phán mọc sừng lại được đón nhận số tiền lớn ấy đến bất ngờ. Dù sao "cái chết kia" cũng mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với cái sừng mà Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cũng đủ để ông cám ơn hắn. Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo, "thằng bồi tiêm đã đếm được một nghìn tám trăm bảy hai, câu gắt "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" của cụ cố Hồng thì ông Phán mọc sừng đã kịp chi tính với Xuân công cuộc doanh thương... mà trước tiên là đã trả nốt năm đồng cho Xuân. Ngay trong giờ phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc ấy mà người ta vẫn không quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó say đắm và đam mê hơn.
"Trước những cặp mắt của một bầy con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ", thì cụ cố Hồng lại nhắm nghiền mắt kêu khổ lắm. Sao mà bộ mặt giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người "chiêm ngưỡng". Cậu Tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà cậu mãi không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – là "những sáng tạo mốt mới nhất". Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng xê ra thì có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Vậy là, họ đi đám ma dường như là đi dự đám cưới. Họ chỉ biết thỏa mãn cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi không hề để ý đến ai đã khám cho cụ tổ khi cụ bị bệnh và sau khi qua đời. Còn cô cháu gái của cụ - cô Tuyết thì rất tự nhiên phơi bày những bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục Ngây thơ của Tuyết và vẻ ngóng nhân tình của cô ta đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chỉ làm cho họ hạnh phúc, sung sướng mà thôi.
Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Min Đơ và Min Toa cũng sung sướng cực điểm khi được cái đám ma "to lớn" này thuê giữ gìn trật tự. "Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả". Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, "có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, có cậu Tú Tân chỉ huy" lộn xộn, lao xao và huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các nhà tài tử thi nhau chụp ảnh. "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu". Câu văn nghe sao mà chua chát và cay đắng đến vậy. Dường như trong cái xã hội phức tạp ấy không còn tồn tại tình người. Họ đối xử với nhau, đến với nhau chỉ là do ánh sáng chói chang của đua đòi lối sống "văn minh hiện đại" đưa lối, đôi chút suy nghĩ của họ đâu có gì gửi gắm vào bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như không còn có sự tồn tại của tình thương giữa người với người. Giữa họ là khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá.
Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn con cháu cụ cố tổ ghê tởm đến thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo kia lại muốn khẳng định chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà chúng đang tổ chức phải trở thành một kiểu mẫu trong thiên hạ. Những kẻ mong chờ cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật vang, cái mong muốn "bẩn thỉu" ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả bao phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, "chó đều".
Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội. Từ cái hạnh phúc, sung sướng của một "lũ người gớm ghiếc" là một "thế thái nhân tình" được xây dựng trên nền tảng là sự tàn nhẫn và sự dối trá. Con người với con người đối với nhau mà như băng đá tê cứng, đông lạnh, không còn một chút hơi ấm của yêu thương. Cụ cố tổ mất đi lại không hề mảy may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng tìm đến đám ma là để lấy và thực hiện sớm di chúc. Chỉ còn lặng lẽ sau trang sách là nỗi đau cười ra nước mắt và căm phẫn của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, con của cụ tự cho mình là chí hiếu, chúng không nhận thấy trong suy nghĩ, hành động của chứng là sự tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để với đến hai chữ "chí hiếu" là từ tàn nhẫn và dối trá mà ra.
Cố lấy cái vẻ bề ngoài che đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự dối trá đến tàn nhẫn. Thế giới họ đang sống, đang tồn tại đâu có phải là một thế giới ân tình. Cái thế giới của tình người chỉ có khi con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn nhau. Còn ở đây con người như là vật hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân, bất hiếu.
Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều quy tụ chung dưới hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thật đông đảo, sự xấu xa, đồi bại của xã hội có mặt ở khắp nơi. Bằng điệp khúc: "đám cứ đi", tác giả đã đặc tả một đám ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng đi đưa đám. Tất cả trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, tuy cố giữ bộ mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì đó. "Đám cứ đi" nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra không hề khép lại và chẳng biết sẽ kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái thế giới tình người mà tác phẩm, đoạn trích có nói, có thể hiện chỉ là sự tàn nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, dối trá ấy đâu chỉ diễn ra trong xã hội "người dưng", mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong bản thân những con người cùng một gia đình, họ hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang, phú quý, ồn ào của cụ tổ đâu có thể che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá của cụ Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư cụ Tăng Phú...
Sự lố lăng của đám tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện - Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao bà cụ cố Hồng lại hí hửng vì sự có mặt của hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng cắm trên chở sư chùa Bà Banh? Vì hai vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự có mặt của những thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lăng. Chỉ biết sư cụ Tăng Phú đã chớp lấy "thời cơ tang gia để kiếm lợi trong cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng cố thanh thế của Hội Phật giáo". Còn Xuân Tóc Đỏ lại là ân nhân của gia đình cụ cố Hồng và là "người chồng ăn hỏi" của cô Tuyết.
Hạnh phúc gia đình, dưới con mắt sắc sảo của Vũ Trọng Phụng, những con người xấu xa ấy không phải là một "nhóm người", chúng thật đông đảo và có mặt ở khắp nơi. Bởi vậy, có người coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống mộ của toàn xã hội thực dân phong kiến. Bởi sự dối trá, tàn nhẫn của nó đã đến hồi bộc lộ trắng trợn, vui vẻ ầm ĩ thế kia thì ai để cho nó tồn tại, làm trò hề mãi được.
Một trong những chương truyện đặc sắc nhất trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng có lẽ chính là Hạnh phúc của một tang gia. Sự trào phúng trong chương truyện đã phản ánh phần nào nội dung của cả tác phẩm. Tang gia và hạnh phúc, tưởng chừng như đây là một cách nói đùa nhưng thực chất nó lại rất hiện thực đối với câu chuyện của nhà cụ cố Hồng.
Bởi vì cái chết của cụ cố tổ là mong ước của nhiều người, là niềm mong mỏi của tất cả các con cháu trong nhà. Thế nên sau bao lần chết đi sống lại thì cuối cùng ông cụ đã chết thật. Quả là cụ cố tổ sống lâu con cháu ghét, nên cụ mất ai ai cũng mừng thầm, ai ai cũng có một niềm hạnh phúc riêng cho mình.
Con trai ông, cụ cố Hồng vậy là từ nay chính thức lên ngai vàng, trở thành người bề thế, đức cao vọng trọng nhất nhà. Từ nay ông có thể khoe với thiên hạ về sự già cả của mình, về vẻ lụ khụ đầy uy quyền của một người đứng đầu cả gia đình văn minh.
Con dâu cụ cố tổ thì sung sướng bởi không dịp nào có thể khoe được oai nghiêm gia đình bằng dịp này được nữa. Bà có thể phô trương thanh thế với cả thiên hạ, có thể khoe với thiên hạ về cái đám ma có một không hai, to nhất cả xứ, cái đám ma mà có kiệu bát cống, kèn Tây ta lẫn lộn, có máy ảnh chụp tới tấp, có vòng hoa phủ kín, có người đi đưa đông đúc, nói chung là có sư rình rang, quy mô của một gia đình vọng trọng.
Cháu trai Văn Minh thì sung sướng vì từ nay cái chúc thư đã đi vào thời kì thực hành, không còn là trên giấy tờ nữa. Niềm hạnh phúc của ông Văn Minh là niềm hạnh phúc rõ ràng và liên quan nhiều nhất đến giá trị vật chất. Cháu dâu Văn Minh thì hạnh phúc bởi đây là thời cơ để cửa hàng của bà có thể phô ra những mẫu áo tang tân tiến với cả bàn dân thiên hạ. Họ sẽ thấy được những nét cách tân quyến rũ trong cửa tiệm Âu hóa của bà được trưng diện ở cái đám tang này thế nào.
Cô cháu gái Tuyết thì mượn cái đám tang của ông là cơ hội để chứng minh sự ngây thơ trong trắng của mình và khoe vẻ đẹp xuân thì qua những mẫu áo cách tân. Cô chả đưa mắt tìm người yêu rồi mang một vẻ buồn lãng mạn đầy khuê các, e ấp trong cái đám tang của ông nội còn gì.
Với cháu trai Tú Tân thì đám ma là dịp để cậu khoe ra cái tài sử dụng máy ảnh của mình, cái tài điều binh khiển tướng của một nghệ thuật gia chuyên nghiệp. Phải biết rằng vào thời kì này mà có được cái máy ảnh là phải rất sang, rất giàu có và sành điệu. Vậy nên cậu phải chứng tỏ bản thân bằng cách nhảy cả lên mộ để chỉ đạo đoàn quân hạ huyệt, chụp ảnh.
Cháu rể Phán mọc sừng vì thấy sung sướng vì cái sự thật mọc sừng của mình thế là được tất cả mọi người biết đến, không những vậy còn làm cho cụ cố tổ chết. Ông rồi đây có thể hãnh diện với thiên hạ rằng tôi là người chồng bị mọc sừng, tôi bất hạnh và bị phản bội.
Với Xuân tóc đỏ, hắn mượn đám tang để làm nổi cho hình ảnh của bản thân là người lịch lãm tươm tất và rất hào hoa, hắn mượn dịp này để đòi nợ ông Phán mọc sừng.
Người trong nhà đã vậy, đến cả những người ngoài, bạn bè thân bằng cố hữu gần xa cũng mang đến đám tang những niềm hạnh phúc độc đáo. Các ông già thì mượn đám tang để khoe huân huy chương, thành tích, uy danh của bản thân. Không những vậy ở đây các ông còn có cơ hội để mà ngắm nhìn vẻ đẹp của những thiếu nữ trong đám tang như cô Tuyết chẳng hạn. Những giai thanh gái lịch, lớp thanh niên trẻ trung thì mượn đám tang thành dịp gặp gỡ, giao lưu, chim chuột, hò hẹn với nhau.
Không khí đám tang quả có vui tươi như một ngày hội. Ai ai đến tham dự cũng mang theo những tâm tư riêng và họ đã khiến cái đám tang đúng thật là trở thành rạo rực, nhộn nhịp không đâu bằng, đến người chết có khi cũng phải bật dậy mà hài lòng.
Quả thật xây dựng được niềm hạnh phúc của các nhân vật trong câu chuyện, tác giả Vũ Trọng Phụng đã khiến người đọc được mở mang tầm mắt, cảm nhận được rõ ràng tâm tư tình cảm của mỗi người và khung cảnh đám tang trong câu chuyện từ đó hiểu được sự logic của tác phẩm. Đám tang như thế này thì đúng là hạnh phúc thật, hạnh phúc đến trào phúng.
Nếu các nhà văn cùng thời hướng ngòi bút của mình đến những người nông dân khổ cực với các bi kịch về cuộc sống đói nghèo, bi kịch bị tha hóa thì Vũ Trọng Phụng lại tập trung khai thác những con người ở tầng lớp thượng lưu để phản ánh sự giả dối, vô đạo đức của xã hội. Những điều ấy được ông thể hiện rất rõ nét trong đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" - đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết "Số đỏ".
Các nhân vật trong đoạn trích là những nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp xã hội thượng lưu thành thị lúc bấy giờ. Người ta ca ngợi u hóa, học đòi lối sống "văn minh" mà không nhận ra rằng chính sự học đòi ấy lại khiến những giá trị đạo đức mai một và thay vào đó là sự tha hóa của nhân phẩm con người. "Hạnh phúc của một tang gia" mở đầu bằng câu văn: "Ba hôm sau, ông cụ già chết thật" như để thông báo về cái chết của cụ cố tổ và cũng là dịp để đám con cháu cũng như những người ngoài gia đình thể hiện niềm vui sướng của mình. Đây là đám tang trái ngược hoàn toàn với những đám tang khác bởi con người thường đau khổ, thương tiếc trước sự ra đi của người thân nhưng đám tang cụ cố tổ lại khiến rất nhiều người hạnh phúc. Cái chết của cụ "đã làm cho nhiều người sung sướng lắm". Đám con cháu trong gia đình là những người vui vẻ, phấn khích nhất bởi "cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Niềm vui ấy là niềm vui của những con người sống vì danh vị, tiền tài mà đánh mất đi luân thường đạo lí, đánh mất đi những giá trị tốt đẹp của đạo đức xã hội.
Họ đều vui với niềm vui chung của cả gia đình nhưng mỗi người cũng có những niềm vui riêng. Tâm trạng của người con trai trưởng đã phản ánh sự giả dối, bất hiếu đối với bậc sinh thành. Trước cái chết của bố mình, cụ cố Hồng đã "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa"! Liệu rằng những tiếng ho khạc, khóc mếu kia có phần nào là sự thương xót thật lòng hay chỉ là những giọt nước mắt dối trá để che mắt thiên hạ? Cụ cố Hồng muốn khoe cho cả xã hội biết rằng gia đình mình là một gia đình thượng lưu giàu sang. Thực chất, những hành động của cụ đều nhằm mục đích khoe già, khoe hiếu, khoe sự danh giá: "Cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế". Chắc hẳn điều ấy sẽ khiến mọi người cho rằng đó là một gia đình có phúc bởi cụ cố tổ là người thượng thọ.
Văn Minh - cháu đích tôn của cụ cố tổ đáng lẽ phải tiếc thương vì sự ra đi của người ông nội nhưng Văn Minh lại tỏ ra vui mừng vì được chia chác tài sản. Có ai không sung sướng khi bỗng nhiên có được tiền bạc, của cải nhưng sung sướng trước món lợi mang lại từ cái chết của người thân thì đó là điều phi đạo đức. Văn Minh chỉ có một điều băn khoăn đó là việc "mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội" và phân chia tài sản theo đúng bản chúc thư mà thôi. Đây là dịp để ông khoe những mốt mới của tiệm may u hóa và cũng là dịp để khoe danh dự của bản thân. Giữa lúc vui vẻ như vậy, ông "chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải" vì Xuân "tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo tội hoang dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết". Văn Minh biết rõ Xuân Tóc Đỏ là người không có bằng cấp, chuyên môn gì về nghề thuốc nhưng vẫn mời hắn về chữa trị cho ông nội. Hành động đó chẳng phải đã gián tiếp gây nên cái chết của cụ cố tổ hay sao? Chỉ vì phân vân không biết trả ơn Xuân thế nào mà ông lại có vẻ mặt đăm chiêu, hợp thời trang với "cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối". Tác giả đã đi sâu khai thác những suy nghĩ của nhân vật để làm nổi bật lên tâm trạng, bản chất của người cháu nội có tiếng là hiểu biết vì đã có thời gian đi du học ở nước ngoài.
Bên cạnh niềm vui của người chồng, Văn Minh vợ cũng vui mừng khôn xiết vì có cơ hội lăng-xê những mốt mới của tiệm may u hóa, những bộ trang phục "có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời". Là cháu dâu mà bà chỉ sốt ruột vì "mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen - dernières créations". Mục đích chính của Văn Minh vợ là quảng cáo, lăng-xê những thiết kế của tiệm may chứ không phải khóc thương cho số phận cụ cố tổ. Đám tang đã trở thành sàn trình diễn thời trang chứ không phải nơi để mọi người bày tỏ tấm lòng xót thương đối với người đã khuất. Việc làm ấy đã đi ngược lại giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Được cụ cố Hồng nói nhỏ rằng sẽ "chia cho con gái và con rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng", ông Phán mọc sừng vô cùng phấn khích. Chính bản thân ông cũng không ngờ rằng "giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế". Dường như ông không hề cảm thấy danh dự bị vấy bẩn mà lại cảm thấy biết ơn vì việc ngoại tình của vợ đã mang lại cho ông món lợi lớn. Ngay trong đám tang ấy, ông đã trù tính một "công cuộc doanh thương" với Xuân Tóc Đỏ để mình có thêm được vài nghìn bạc vì hắn rất có tài quảng cáo. Người đọc ngỡ tưởng ông Phán là đứa cháu có hiếu khi được Vũ Trọng Phụng miêu tả tiếng khóc nhưng tiếng khóc của ông lại là tiếng "Hứt! Hứt! Hứt!" mãi không thôi. Tiếng khóc ấy đã bộc lộ bản chất giả dối của ông cháu rể quý hóa khi đó chỉ là cái cớ để ông ta oặt người đi và dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ giấy bạc năm đồng gấp tư. Đối với ông, đám tang chính là nơi diễn ra cuộc trao đổi, mua bán với Xuân - người đã có công không nhỏ trong việc giúp ông nhận thêm vài nghìn đồng.
Một người em gái của Văn Minh mà Xuân quyến rũ là Tuyết ngây thơ. Ngoài niềm vui vì được trình diễn những mốt thời trang, mặc đồ xô gai tân thời cô còn muốn khoe phẩm hạnh của mình với thiên hạ. Cô mặc bộ y phục Ngây thơ - "cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú - nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh". Tuyết mặc bộ y phục đó để chứng minh cho cả xã hội biết rằng "mình chưa đánh mất cả chữ trinh". Cô mặc như vậy để đập tan lời đồn bản thân mình hư hỏng quá nhiều của thiên hạ. Có người cháu hiếu thảo nào lại có cách ăn mặc như vậy trong đám tang của ông nội mình? Hóa ra đám tang lại là dịp để Tuyết khoe vẻ đẹp, khoe phẩm hạnh, khoe mình là một người con gái truyền thống, mực thước nhưng thực chất Tuyết ngây thơ lại là người con gái hư hỏng. Gương mặt cô "hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám" nhưng nỗi buồn đó không xuất phát từ sự tiếc thương cụ cố tổ mà xuất phát từ sự chờ đợi Xuân Tóc Đỏ khi mãi chưa thấy "bạn giai" mình xuất hiện. Điều ấy khiến cô như bị kim châm vào lòng.
Cậu tú Tân nhân cái chết của cụ cố tổ mà khoe tài chụp ảnh của bản thân. Cậu "điên người lên" vì đã "sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Cậu yêu cầu mọi người trong đám tang tạo dáng để chụp ảnh, cậu "bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, thế nọ..." Đám tang như một hội chợ để cậu và những nhà tài tử chụp ảnh thi nhau trổ tài.
Đám con cháu đã làm nên bức tranh biếm họa phản ánh hiện thực của một xã hội "đại chó đểu". Họ hoàn toàn thản nhiên và không có một chút tình cảm ruột thịt với người thân đã khuất. Đó là gia đình đại bất hiếu, đạo đức giả khi sống và đối xử với nhau như những kẻ xa lạ. Họ luôn chạy theo đồng tiền mà vô tâm, vô cảm với chính những người thân thiết.
Không chỉ khắc họa đám con cháu trong gia đình cụ cố tổ, nhà văn Vũ Trọng Phụng còn khắc họa tâm trạng của những người ngoài gia đình đến tham dự đám tang. Họ đại diện cho các tầng lớp của xã hội đương thời, có tên tuổi, địa vị. Cảnh sát Min Đơ và Min Toa được "thuê giữ trật tự cho đám ma". Họ "sung sướng cực điểm" và "trông nom rất hết lòng" vì gia đình cụ cố Hồng đã tạo việc làm cho mình. Những bạn thân của cụ cố Hồng đến chia buồn cùng gia đình nhưng ý đồ thực chất của họ là để khoe huy chương như "Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh",... Họ khoe danh, khoe những bộ râu ria "hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn". Họ còn là những kẻ hám sắc khi "trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực tuyết, ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng". Là dịp để trưng diện những mốt mới nên ông Typn rất "bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao". Sư cụ Tăng Phú của báo Gõ mõ thì "sung sướng", "vênh váo", đắc thắng vì đã đánh đổ được Hội Phật giáo. Sư cụ đến dự đám tang để khoe danh dự và chiến thắng của mình. Xuân Tóc Đỏ cũng được mọi người biết ơn và dành cho những lời khen ngợi. Việc hắn xuất hiện trong đám tang cũng là cách để khoe mẽ chiến công và nâng cao giá trị bản thân. Bên cạnh đó, tác giả cũng không quên nhắc tới đám giai thanh gái lịch đi đưa tang. Đây là cơ hội để họ "chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu".
Bằng nghệ thuật trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã tố cáo bản chất lố lăng, sự giả tạo của những người thuộc tầng lớp thượng lưu thành thị trước Cách mạng. Mỗi nhân vật là một nét vẽ chân thực tạo nên bức tranh hiện thực sinh động. Qua đó, "ông vua phóng sự đất Bắc Kì" cũng thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai thói đạo đức giả, sự bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa của giới thượng lưu. Khi những người cầm bút khác "muốn cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết" thì Vũ Trọng Phụng và các nhà văn có cùng chí hướng lại "muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời". Vì lẽ đó mà ngòi bút của ông luôn nói đúng sự thực, luôn đả kích sâu cay vào mặt trái của hiện thực xã hội.
Vũ Trọng Phụng là mộ nhà văn tài năng thành công ở thể loại tiểu thuyết. Tiêu biểu là tác phẩm “Số đỏ” đã tái hiện lại bức tranh hiện thực về con người và xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX với những trò lố lăng, bịp bợm dưới ngòi bút đả kích, châm biếm sâu sắc. Trong đó ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nằm ở chương XV của tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của các nhân vật trong đoạn trích.
Tang gia mà đại gia đình kẻ trong người ngoài ai cũng hớn hở, mong chờ giây phút ấy để phô trương, khoe mẽ để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Tuy mỗi người một niềm vui riêng nhưng đã cùng nhau góp phần tạo nên một tâm trạng chung tang ma mà vui như hội.
Trước tiên là tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của con cháu trong gia đình. Theo như thường lệ người thân yêu qua đời thì bậc làm con phải đau đớn, xót xa và thương tiếc vô cùng nhưng ở đây tất cả con cháu từ người già cho đến người trẻ, từ con trai trưởng cho tới cháu chắt đều mong chờ giây phút cụ cố Tổ chết. Và khi điều ấy trở thành hiện thực niềm vui chảy trong từng mạch máu, thớ thịt của mỗi người “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” vì đồng nghĩa với việc cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành, chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”.Hạnh phúc của họ là hạnh phúc của tiền bạc, danh vọng và các giá trị phù phiếm chứ không còn là tình thương yêu con người của những người thân ruột thịt trong gia đình dành cho nhau.
Là người già cả lớn tuổi nhất trong gia đình lại là con trưởng của cố Tổ đang lúc tang gia bối rối, thi hài bố vẫn đang nằm dưới nhà nhưng cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác ung dung mơ màng, tưởng tượng đến cảnh “cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Thường thì chẳng ai mong mình già vậy mà cụ cố lại có cái ước muốn người ta khen mình già thật là lạ. Đối với ông tổ chức tang lễ cho bố là cơ hội để khoe khoang đám ma to chứng tỏ tài sản giàu có của kẻ thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông cụ là một đứa con bất hiếu nối tiếp là cả đám con cháu của một dòng họ nhiều tiền nhiều của nhưng lại cạn kiệt tình thương.
Ông Văn Minh cháu nội đích tôn của cụ Tổ Người đi du học bên Tây khi trở về mang danh nhà cải cách xã hội. Kẻ một bước đưa thằng lưu manh, ma cà bông Xuân tóc đỏ trở thành người có công nhất cho xã hội lúc bấy giờ. Trước cái chết của ông nội hắn vui sướng bởi được phân chia tài sản, việc đầu tiên ngay sau đó là mời luật sư đến để thực thi bức di chúc mà cụ Tổ để lại. Trạng của hắn bên ngoài thì tư lự, vò đầu bứt tóc, điệu bộ bối rối, mặt lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu rất hợp hoàn cảnh tang tóc nhưng thực chất bụng dạ bên trong đang băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân như thế nào cho hợp tình hợp lí bởi hai cái tội nhỏ và một cái ơn to. Nhà văn đã bóc trần bản chất giả dối bất nhân của hắn bằng cách đi sâu vào suy nghĩ bên trong nhân vật.
Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc bộ đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn xinh xinh, trong lúc tang gia mà vẫn không quên ý muốn lăng-xê cho những kiểu quần áo của tiệm may Âu hóa. Cô cháu dâu không một chút tình cảm thương tâm cho người đã khuất.
Hạnh phúc không kém là cháu rể quý ông Phán mọc sừng với niềm vui sướng dâng trào trong lòng hắn, kiêu hãnh với đôi sừng vô hình trên đầu không ngờ lại có giá trị đến thế. Hắn có được vài nghìn nhờ đôi sừng ấy khi bố vợ nói nhỏ vào tai sẽ chia thêm cho con gái và rể thêm một số tiền nữa. Thế mà đến giây phút cuối cùng lúc vĩnh biệt người chết hắn lại khóc oặt người đi hứt hứt mãi không thôi. Một chi tiết đáng cười, đáng châm biếm bởi sự giả tạo sắp không nhận ra sự thật nếu hắn không dúi vào tay Xuân tờ tiền năm đồng bạc gấp làm tư để trả thù lao vụ giao dịch về việc quảng bá đôi sừng vô hình gây nên cái chết cho cụ Tổ.
Còn đối với cô Tuyết ông nội mất là dịp để cô trưng diện bộ quần áo ngây thơ hoa mỏng để lộ thân hình trắng nõn bên trong khiến cho đám khách sang trọng phải xao xuyến cảm động hơn là thương xót cho người chết. Đây cũng là cơ hội để cô chứng minh cho thiên hạ rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh với một bộ mặt buồn lãng mạn phù hợp với tâm trạng của cô cháu gái buồn thương cho sự ra đi của ông nội nhưng thực chất là cô buồn vì sự khuất bóng của Xuân Người yêu của mình. Ngòi bút của nhà văn một lần nữa lại vạch trần một bộ mặt lố bịch.
Cậu Tú Tân sướng điên người vì sắp được dùng mấy cái máy ảnh đã chuẩn bị sẵn, cậu được trổ tài năng nghệ thuật thể hiện mình như một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp khi lúc hạ huyệt chẳng một chút luyến lưu hay e ngại mà “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, thế nọ…”để chụp ảnh kỉ niệm. Quả là một bức tranh biếm họa đặc sắc dù chỉ một chi tiết nhỏ nhưng cho ta thấy sự nhố nhăng của xã hội đương thời.
Mỗi người chỉ với một vài chi tiết khắc họa đã làm bật lên tâm trạng hạnh phúc khó tả của đám con cháu bất hiếu trước cái chết của người thân. Gia đình cụ cố Hồng như một xã hội thu nhỏ với những thói hư tật xấu được tập trung hết trong cảnh tang gia.
Những người trong gia đình mang một tâm trạng vui mừng như vậy thì những người đến tham dự đám tang cũng chỉ là một cái cớ để họ thể hiện mình. Xuân tóc đỏ với sự xuất hiện hoành tráng của đồ viếng khiến cho mọi người phải trầm trồ thán phục. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, những vị quan khách tai to mặt lớn trong xã hội cúng đến thăm viếng nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy ở họ một tiếng thở than, một lời chia sẻ mà chỉ thấy dâng lên một bầu không khí náo nức, phấn chấn. Các vị chức sắc chờ mãi mới có một đám tang để khoe mẽ những huân chương rực rỡ trên ngực và các kiểu râu tân thời trên cằm trên mép. Tất cả các vị đều cảm động đến rơi nước mắt không phải vì thương tiếc người chết mà do tấm thân hình xinh đẹp hở hang của cô Tuyết. Những người đi đưa đám khác đầy đủ trai gái thanh lịch họ đến đây là nơi để tụ họp, để bàn tán xì xào, họ góp phần cho sự huyên náo, nhộn nhịp của đám bởi hành động chim nhau, cười tình, chê bai, ghen tuông, hẹn hò đủ cả.
Tâm trạng của các nhân vật trong trang văn Vũ Trọng Phụng thật sống động, không cần nhiều lời chỉ cần vài ba cử chỉ nách sâu vào tâm địa của những con người quái thai dị hỡm, chúng tập hợp bên nhau để biểu hiện đầy đủ những gương mặt trong xã hội giả dối vô nhân đạo, mất nhân tính.
Qua việc phân tích tâm trạng các nhân vật trong đoạn trích ta có thể thấy được cuộc sống xa hoa, không có tình người của giới thượng lưu. Đồng thời cũng thể hiện tài năng khắc họa chân dung nhân vật và nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm “Số đỏ” là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề “Hạnh phúc của một tang gia” là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình.
Ta cũng như đã thấy được mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của “một gia đình đông đảo và đáng kính” của một xã hội được coi là văn minh xã hội “thượng lưu”. Cả ta như thấy được tất cả cái gia đình ấy đã “nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nếu như sự nhao lên vì đau khổ và cũng chính vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chắc chắn không thể nào mà chúng đã nhao lên vì…. hạnh phúc ! “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm” Có lẽ chính câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã thâu tóm tất cả mọi thứ “thế thái nhân tình”.
Và ta như thấy được chính cái nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật dường như cũng đã rất rành rành cụ thể.
Nhân vật ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, ông bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình như cũng đã được tăng giá lên vài nghìn đồng. Và cụ cố Hồng dường như cũng đã rất sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai. Ông như đã lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để hi vọng được người ta ngợi khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…”. Còn nhân vật ông Văn Minh chính là cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội ? Ông ta dường như tỏ ra sung sướng tột đỉnh lắm, bởi vì với cái chết của ông nội thì tờ di chúc kia sẽ đi vào thực thi chứ không phải là nằm trên giấy nữa được thực hiện. Và việc này đồng nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật một sự thật đã mong mỏi từ lâu. Còn bà Văn Minh thì cũng “vui” chúng với niềm vui của đám tang, bà như sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận cũng đã như ra từ cái chết của ông nội chồng chính một dịp may hiếm có để có thể mặc “trang phục tân thời” đó chính là những bộ “đồ xô gai tân thời”, “những sáng tạo mốt mới” của tiệm may Âu hoá kệch cỡm của bà.
Còn đối với nhân vật cô Tuyết- một cô gái hư hỏng nhưng chỉ “hư hỏng một nửa” và Tuyết chính một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết đã chọn và mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó chính là một “vẻ buồn lãng mạn” buồn ở đây chính là vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả như thật trùng khớp biết bao nhiêu. Có lẽ các vị tai to mặt lớn đi đưa đám như cũng chăm chăm như nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động mà thôi chứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy thật là một đám người con cháu lố bịch.
Đám ma to thật, có thể nous cái đám ma này nó to đến mức “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta dường như cũng đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, và khoe sang thậm chí là còn để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.
Nhưng chưa dừng lại ở đó thì dưới mắt Vũ Trọng Phụng, ta cũng như đã thấy được chính cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng dường như cũng đã thật là đông đảo lắm. Ta như thấy được toàn xã hội văn minh Âu hóa. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát cũng như là đồng nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả Vũ Trọng Phụng dường như cũng đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi mà đã được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Ta như thấy được cái lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang “buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ”. Tiếp sau đó chính là đến các vị tai to mặt lớn, đó chính là lớp “hoa” của giới thượng lưu xã hội. Có vẻ như chính mặt mũi sang trọng, người đeo đầy đủ các thứ “hội rinh”. Ta như thấy được trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, và đó dường như cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng ngần như đang thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết mà thôi.
Đặc biệt hơn nữa đó cũng chính là sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này dường như cũng đã lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Cho đến bà cụ cố Hồng,dường như có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói los lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thờ cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy của mình thì nhà văn Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Ta có thể thấy được đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, và đó cũng chính sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất đó chính là sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Ở đời có mấy ai lại “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, đôi khi đến cả cái chết của kẻ thù không đội trời chung cũng không như thế. Huống chi đó lại là sự ra đi của người thân, là sự ra đi của đấng sinh thành thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kì lạ với mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”,...! Điều này đã được thể hiện rất rõ ở chương Hạnh phúc của một tang gia.
Vũ Trọng Phụng được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” và ông có rất nhiều tác phẩm để đời nổi tiếng như mang được những phong thái riêng và ông nổi nhất đó chính là mảng văn học trào phúng. Tác phẩm Số đỏ là một trong những “đứa con yêu” nhất của nhà văn tài năng này. Và có lẽ rằng tác phẩm hay ở cách nhà văn xây dựng được nhiều nhân vật, nhưng mỗi nhân vật lại như được mang một sắc thái riêng để hòa vào sắc thái chung của truyện.
Chương V với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia là một chương đặc sắc như đã thể hiện được những tính cách nhân vật điển hình. Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi từ lâu, họ mong cụ chết thật nhanh để chia gia tài. Thay vào đó, cái chết của cụ đã đem đến cho sự niềm vui – một “hạnh phúc”.
Ông Phán mọc sừng là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong đám con cháu đó. Phán mọc sừng – cháu rể “quý hóa” của cụ cố thì đang sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ” đã thành công mĩ mãn. Nhờ đó mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế”.
Niềm vui của cụ cố Hồng thuộc kiểu “hiếu danh mù quáng” đến mức ngu xuẩn và lố bịch. Đối với nhân vật kì quặc này, ông cụ thân sinh qua đời sẽ là một cơ hội hiếm có để cụ cố Hồng lên chức cụ cố trước mắt bàn dân thiên hạ, mặc dù về tuổi đời, cụ mới ngoài năm mươi! Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa !” và “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...’’.
Còn Văn Minh – cháu đích tôn của cụ cố tổ thì cũng có lí do để vui: chắc chắn sẽ được chia cho một số tài sản rất lớn nên điều “băn khoăn” của ông ta là “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội”. Thật vui vẻ vì “thế là từ nay trở đi cái chúc thư kia sẽ đi vào thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Các thành viên còn lại chỉ thực sự hạnh phúc khi cụ Hồng ra lệnh phát phục. Bởi đám tang cụ cố tổ là một sự kiện để mỗi người đó có dịp trình diễn cái vai trò của cá nhân mình trước xã hội: bà Văn Minh sẽ trình diễn đồ xô gai thuộc dạng mốt tân thời, Tuyết được diện bộ y phục mang tên Ngây thơ để chứng minh với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất chữ trinh… Rồi cậu Tú Tân sẽ trình diễn tài nghệ chụp ảnh trong đám tang, còn ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thuyết kế…
Niềm vui hạnh phúc do cái chết của cụ cố tổ đem lại không chỉ ngập tràn trong tâm hồn các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng mà còn lan tỏa ra cả ngoài tang quyến. Đó là niềm vui bỗng lại có công ăn việc làm, hai cảnh bình thuộc bộ thứ mười tám Min Đơ và Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám ma “đã trông nom rất hết lòng”.
Các ông “tai to mặt lớn” - những người bạn của cụ cố Hồng nhân dịp đến chia buồn với tang gia mà tiện có dịp khoe công trạng một đời với đủ loại huân chương “Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vân Tượng bội tinh…”. Tuy nhiên, cái đám đầy râu ria ấy lại đang mãn nguyện, sung sướng khi đến chia buồn bỗng lại được thưởng thức cái làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh ngực Tuyết.
Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo trên một chiếc xe vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở phố, thể nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”
Với đám giai thanh, gái lịch Hà thành, những kẻ không dính líu chút nào về quan hệ họ hàng, ruột thịt với người đã khuất thì niềm vui của họ ở đây là cơ hội để “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Nhưng có lẽ người hạnh phúc nhất là Xuân Tóc Đỏ, dù anh ta không có ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc.
Cảnh đám ma mà như hội. Trai gái thì “chim chuột nhau”, những kẻ khách thì vui sướng vì được thể hiện được khoe mẽ hay là mừng thầm khi có thể có chút tài sản của người đã mất. Điệp khúc “Đám cứ đi” như gợi ra một cái gì đó gợi ra một cái đám ma thật to nhưng lại chất chứa đầy những thói lố lăng và kệch cỡm.
“Đám cứ đi…” cũng đồng thời có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài mãi trong xã hội. Không hề biến mất đi mà nó như được thay đổi bằng nhiều hình thái khác nhau mà thôi.
Và cho đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà như cũng đã dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng dường như đã còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất đó chính là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, và lúc đó thì giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai được nhắc đến đó chính là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này và cũng như đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, ta như thấy được giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta cũng đã nhanh chóng dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là… “người chồng mọc sừng” và đồng thời cũng chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết đi. Và đây quả thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Chỉ với hai chi tiết đặc sắc ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kì dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút của Vũ Trọng Phụng như có sức lây lan rất rộng : từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang quyến đến người ngoài tang quyến. Tác giả đã vạch trần cái xã hội Âu hóa đầy lố bịch với những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa.
Tiếng cười căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là "khốn nạn", "chó đểu" trong Số đỏ nói chung và Hạnh phúc của một tang gia nói riêng cứ xoáy sâu vào tâm trí độc giả. Ấy là một "thế thái nhân tình" được xây dựng trên hai điều, sự tàn nhẫn và sự dối trá là biểu hiện sâu sắc nhất được thâu tóm trong câu văn tưởng chừng ngược đời mà lại có lí: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm".
Một gia đình đông đúc, nhiều con cháu, họ hàng và người quen của cụ cố Hồng là cả một xã hội phong kiến tư sản nực cười. Khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành bước vào đời, con người ta lúc nào cũng cầu mong cho mình được hạnh phúc. Khi ra đi về với cát bụi, không có gì hơn ngoài mong muốn được đón nhận giọt nước mắt đau thương của người đang sống. Vậy mà, khi đi xuống nơi "suối vàng", cái chết của cụ tổ lại mang lại bao nhiêu niềm vui, niềm phấn khởi, hân hoan của con cháu gia đình cụ Hồng. Tình cảm người ấy chỉ tồn tại trong xã hội bất công và đầy rẫy sự thối nát, bẩn thỉu. Câu chuyện dường như là điển hình cho cái xấu xa mà xã hội đã mang lại cho tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Ngay ở tiêu đề của đoạn trích, tác giả đã có ý nhấn mạnh sự tàn nhẫn và dối trá. Hạnh phúc đi liền với tang gia và tang gia tạo nên hạnh phúc. Đoạn trích đã làm nổi bật hai mặt trái ngược này bằng một trường phúng dụ gây cười rất tự nhiên, hợp lí.
Nhìn nét mặt, hành động của mỗi nhân vật trong chương truyện, người đọc cảm nhận cái hạnh phúc mà họ sẽ được nhận và đã mong chờ từ rất lâu. Khi tắt thở, không biết cụ tổ có nhận thấy cái chết ấy đã làm cho nhiều người được sung sướng lắm. Niềm hạnh phúc được tràn ra qua cái nhắm mắt mơ màng của cụ cố Hồng khi nghĩ "đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ :
- Úi kìa, con giai nhớn đã đến thế kia kìa!
Cụ nhắc cả mười phần rằng ai cũng phải khen ngợi một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế… Viễn cảnh hiện ra trước mắt cụ Hồng sao mà lạ lùng và cay đắng quá, Người ta đến đưa thi thể của cụ cố xuống nơi suối vàng, chứ đâu phải ngắm nhìn "con giai" cụ đã bao nhiêu tuổi, chống gậy gì và đám ma to hay là bé. Nhưng, những suy nghĩ ấy đã phản ánh đúng tâm trạng của cụ Hồng trong cái đám ma "rộn ràng", "huyên náo".
Còn ông Phán mọc sừng thì lại thấy "không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế?". Ông hạnh phúc khi được nghe thấy cụ Hồng nói nhỏ vào tai là sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Dường như đến đưa ma cụ cố, ông Phán mọc sừng lại được đón nhận số tiền lớn ấy đến bất ngờ. Dù sao "cái chết kia" cũng mang lại cho ông niềm hạnh phúc, sung sướng biết bao. Với cái sừng mà Xuân Tóc Đỏ vô tình hay cố ý gắn cho ông Phán cũng đủ để ông cám ơn hắn. Trong bầu không khí của một đám ma nhốn nháo, "thằng bồi tiêm đã đếm được một nghìn tám trăm bảy hai, câu gắt "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" của cụ cố Hồng thì ông Phán mọc sừng đã kịp chi tính với Xuân công cuộc doanh thương... mà trước tiên là đã trả nốt năm đồng cho Xuân. Ngay trong giờ phút thiêng liêng của một đời người đã kết thúc ấy mà người ta vẫn không quên đi được chút ít ánh hào quang của đồng tiền, họ càng lao theo nó say đắm và đam mê hơn.
"Trước những cặp mắt của một bầy con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ", thì cụ cố Hồng lại nhắm nghiền mắt kêu khổ lắm. Sao mà bộ mặt giả dối của họ xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người "chiêm ngưỡng". Cậu Tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà cậu mãi không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – là "những sáng tạo mốt mới nhất". Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng xê ra thì có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Vậy là, họ đi đám ma dường như là đi dự đám cưới. Họ chỉ biết thỏa mãn cái mong muốn, ước vọng của mình trong khi không hề để ý đến ai đã khám cho cụ tổ khi cụ bị bệnh và sau khi qua đời. Còn cô cháu gái của cụ - cô Tuyết thì rất tự nhiên phơi bày những bộ đồ tân thời không hợp chút nào. Với bộ y phục Ngây thơ của Tuyết và vẻ ngóng nhân tình của cô ta đã đủ cho thấy cái chết của cụ tổ chỉ làm cho họ hạnh phúc, sung sướng mà thôi.
Mỗi người, mỗi vẻ, mấy ông cảnh binh Min Đơ và Min Toa cũng sung sướng cực điểm khi được cái đám ma "to lớn" này thuê giữ gìn trật tự. "Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả". Một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, "có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, có cậu Tú Tân chỉ huy" lộn xộn, lao xao và huyên náo, nó xứng đáng như là một hội chợ để các nhà tài tử thi nhau chụp ảnh. "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu". Câu văn nghe sao mà chua chát và cay đắng đến vậy. Dường như trong cái xã hội phức tạp ấy không còn tồn tại tình người. Họ đối xử với nhau, đến với nhau chỉ là do ánh sáng chói chang của đua đòi lối sống "văn minh hiện đại" đưa lối, đôi chút suy nghĩ của họ đâu có gì gửi gắm vào bản thân người chết. Trong trái tim họ, dường như không còn có sự tồn tại của tình thương giữa người với người. Giữa họ là khoảng cách của sự tàn nhẫn và dối trá.
Đọc phần đầu của đoạn trích, cứ tưởng tâm địa của bọn con cháu cụ cố tổ ghê tởm đến thế là cùng. Nhưng chưa hết, chính lũ con cháu bất hiếu, vô đạo kia lại muốn khẳng định chúng là người hiếu thảo nhất trên đời. Đám ma mà chúng đang tổ chức phải trở thành một kiểu mẫu trong thiên hạ. Những kẻ mong chờ cho cha ông mau chết đã tìm thấy hạnh phúc vì đó là dịp để họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách tổ chức một đám ma thật to, thật vang, cái mong muốn "bẩn thỉu" ấy tồn tại trong mỗi đứa cháu, bất nhân, bất nghĩa là cả bao phức tạp, xô bồ của cuộc sống xã hội thối nát, "chó đều".
Câu chuyện của một gia đình trở thành cái tiêu biểu cho cả một xã hội. Từ cái hạnh phúc, sung sướng của một "lũ người gớm ghiếc" là một "thế thái nhân tình" được xây dựng trên nền tảng là sự tàn nhẫn và sự dối trá. Con người với con người đối với nhau mà như băng đá tê cứng, đông lạnh, không còn một chút hơi ấm của yêu thương. Cụ cố tổ mất đi lại không hề mảy may làm cho bất kì một con người nào đau khổ, bọn chúng tìm đến đám ma là để lấy và thực hiện sớm di chúc. Chỉ còn lặng lẽ sau trang sách là nỗi đau cười ra nước mắt và căm phẫn của nhà văn và độc giả. Những đứa cháu, con của cụ tự cho mình là chí hiếu, chúng không nhận thấy trong suy nghĩ, hành động của chứng là sự tàn nhẫn và dối trá đến cao độ. Nhịp cầu mà họ tạo nên để với đến hai chữ "chí hiếu" là từ tàn nhẫn và dối trá mà ra.
Cố lấy cái vẻ bề ngoài che đậy cái bên trong xấu xa, thối nát là một sự dối trá đến tàn nhẫn. Thế giới họ đang sống, đang tồn tại đâu có phải là một thế giới ân tình. Cái thế giới của tình người chỉ có khi con người biết tin yêu và tôn trọng lẫn nhau. Còn ở đây con người như là vật hiến dâng cho cái vòng quay bất nhân, bất hiếu.
Nỗi hạnh phúc, sung sướng của bản thân họ là khác nhau nhưng đều quy tụ chung dưới hai điều tàn nhẫn và dối trá. Những người đi đưa đám thật đông đảo, sự xấu xa, đồi bại của xã hội có mặt ở khắp nơi. Bằng điệp khúc: "đám cứ đi", tác giả đã đặc tả một đám ma thật to thiên hạ tha hồ chiêm ngưỡng. Nhưng trong cái đám ấy, chẳng có ai thật lòng đi đưa đám. Tất cả trong gia đình hay ngoài gia đình, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, tuy cố giữ bộ mặt buồn rầu nhưng thực lòng thì đang vui vẻ, hạnh phúc vì một điều gì đó. "Đám cứ đi" nghĩa là sự vô liêm sỉ, sự giả dối cứ ngang nhiên diễn ra không hề khép lại và chẳng biết sẽ kéo dài đến đâu, lúc nào thì kết thúc. Cái thế giới tình người mà tác phẩm, đoạn trích có nói, có thể hiện chỉ là sự tàn nhẫn và dối trá. Sự tàn nhẫn, dối trá ấy đâu chỉ diễn ra trong xã hội "người dưng", mà nó tồn tại sâu sắc, đậm nét hơn cả trong bản thân những con người cùng một gia đình, họ hàng, thân quen. Cái đám ma giàu sang, phú quý, ồn ào của cụ tổ đâu có thể che lấp được bản chất tàn nhẫn, dối trá của cụ Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ và cả sư cụ Tăng Phú...
Sự lố lăng của đám tang với hình ảnh của hai tên đại bịp xuất hiện - Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú lại làm cho cái tàn nhẫn và dối trá được bộc lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Tại sao bà cụ cố Hồng lại hí hửng vì sự có mặt của hai nhân vật này? Vì sáu chiếc xe có lọng cắm trên chở sư chùa Bà Banh? Vì hai vòng hoa đồ sộ? Điều đó ai mà biết được! Chỉ biết sự có mặt của những thứ trên làm cho đám tang vốn đã lố lăng càng thêm lố lăng. Chỉ biết sư cụ Tăng Phú đã chớp lấy "thời cơ tang gia để kiếm lợi trong cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng cố thanh thế của Hội Phật giáo". Còn Xuân Tóc Đỏ lại là ân nhân của gia đình cụ cố Hồng và là "người chồng ăn hỏi" của cô Tuyết.
Hạnh phúc gia đình, dưới con mắt sắc sảo của Vũ Trọng Phụng, những con người xấu xa ấy không phải là một "nhóm người", chúng thật đông đảo và có mặt ở khắp nơi. Bởi vậy, có người coi đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống mộ của toàn xã hội thực dân phong kiến. Bởi sự dối trá, tàn nhẫn của nó đã đến hồi bộc lộ trắng trợn, vui vẻ ầm ĩ thế kia thì ai để cho nó tồn tại, làm trò hề mãi được.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.