Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo hay, chọn lọc giúp học sinh lớp 11 viết các bài văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Văn mẫu: Chí Phèo (Nam Cao)
Dàn ý phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo
I. Mở bài
- Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam.
- Chí Phèo là kiệt tác mà ở đó người ta thấy được bi kịch của những lớp người nông dân thấp cổ bé họng, có số phận bi thảm khi bị tha hóa về cả nhân hình lẫn nhân tính, cùng với đó là bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, bần cùng, xơ xác vào những năm 1940-1945. Trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã kết thúc cuộc đời hắn trong đau đớn, tuyệt vọng.
II. Thân bài
* Tổng quan:
- Làng Vũ Đại là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại.
- Không chỉ một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở cái làng ấy cũng có nhiều người bị tha hóa, mỗi một con người đều có cho mình những bi kịch riêng.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với tầng lớp thống trị tàn ác, khôn khéo, lọc lõi, tha hóa về nhân cách:
- Bá Kiến: Có chức quyền, nhưng bất lực, sợ vợ, hay ghen, rất mực khôn ngoan trong chốn quan trường.
- Lý Cường: Hống hách, tàn ác, nhưng manh động, ưa bạo lực.
- Các bà vợ của Bá Kiến: Lắm chuyện, bà ba thì bản chất dâm đãng, lăng loàn.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với những người nông dân cùng khổ, chất chồng bi kịch:
- Chí Phèo: Vốn hiền lành lương thiện, nhưng bị bắt đi tù oan vì bá Kiến ghen tuông, sau trở thành lưu manh, tha hóa về nhân cách, bi kịch bị chặt đứt con đường quay trở về làm người lương thiện vì những định kiến tàn khốc trong xã hội.
- Năm Thọ một kẻ cướp giật, đi tù rồi vượt ngục về liều chết uy hiếp lí Kiến cho tiền, sau bỏ đi biệt xứ.
- Binh Chức hiền lành lương thiện, nhưng cũng bị xã hội ấy chèn ép đến bực phải bỏ đi lính, rồi vợ ở nhà phạm tính đa dâm, lang chạ với người khác. Binh Chức trở thành một kẻ liều chết như Chí Phèo, ngang nhiên đòi tiền lý Kiến mà không phải tội, lại được sống yên ổn trên chính quê hương với vợ con và làm chân tay cho lý Kiến đến hết đời.
- Ông thầy cúng kiêm nghề thiến lợn - Tự Lãng, vợ chết, con gái chửa hoang rồi bỏ đi, chỉ còn lại một mình lão cũng trở nên nát rượu như Chí Phèo.
- Một Thị Nở đã nghèo lại còn xấu đau xấu đớn, thêm cái tính dở hơi, hơn 30 tuổi vẫn ế chỏng ế chơ, cùng sống với thị là bà cô già cũng ế chồng, hai cô cháu sống tạm bợ trong cái nhà tre tạm bợ, gần với nhà Chí Phèo.
* Những cái khốn nạn, lạc hậu xen lẫn cái nghèo nàn của ngôi làng đã dồn ép con người ta vào đường cùng:
- Tuy nghèo khó, nhưng con người người đây vẫn không thôi được cái bản tính ích kỷ, nhiều chuyện, thích xuyên tạc vấn đề (chuyện của Chí Phèo với bà ba).
- Người ta cố chấp với định kiến xã hội ăn sâu vào tiềm thức, chứ nhất quyết không chịu mở một con đường bao dung cho Chí Phèo quay trở về làm người lương thiện.
- Xã hội mà đạo đức, tính người xuống cấp, tha hóa, đàn bà thì lăng loàn, đa dâm, chửa hoang, bố mẹ thì vứt bỏ con cái, đàn ông kẻ thì nát rượu, lưu manh đâm thuê chém mướn,...
III. Kết bài:
- Trong truyện ngắn Chí Phèo hình ảnh làng Vũ Đại đã hiện thật rõ ràng qua hình ảnh, đặc biệt là qua những nỗi khổ, những bi kịch của từng con người đã và đang sinh sống ở dưới cái làng ấy.
- Đó một cái xã hội phong kiến hủ bại, thối nát, một ngôi làng nghèo nàn, lạc hậu, nặng nề những định kiến, hỗn loạn về đạo đức và nhân phẩm, là bức tranh hiện thực tàn khốc của nông thôn Việt Nam những năm trước cách mạng, của chính cái chế độ thực dân nửa phong kiến độc ác, tha hóa về mọi mặt.
Video phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo
Video phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo
Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.
Là nơi quần ngư tranh thực với các phe nghịch, đi lại với nhau để bóc lột con em, ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông Đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng... Đội Tảo ngang ngược, là cựu bỉnh cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh. Còn Bá Kiên vô cùng xảo quyệt, biết mềm nắn rắn buông, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được năm đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì thương anh túng quá! Cụ không cần than thở: trị không lại thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém... gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.
Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh Chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo - cùng với Bá Kiến là hai con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!
Một Thị Nở dòng giống của một nhà có mả hủi… một bà cô thị suốt đời cô đơn, một Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn đi... Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?
Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam, hai đề tài chính của ông là viết về người trí thức và người nông dân ở xã hội cũ, những con người cùng khổ, bị cái xã hội vô nhân đạo dồn ép vào đường cùng để rồi chết mòn trong bi kịch tinh thần, bi kịch đói nghèo. Nếu như với đề tài người trí thức cũ, Nam Cao không phải tốn quá nhiều công sức để tưởng tượng, đặt mình vào tâm hồn nhân vật, bởi vì chính bản thân ông cũng là một trí thức nghèo, ông thấu hiểu cái khổ của người trí thức hơn bao giờ hết. Thì đến với đề tài của người nông dân người ta mới thực sự thấy được cái tài năng bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng và bi kịch của người nông dân cùng khổ dưới đáy xã hội lúc bấy giờ. Chí Phèo chính là kiệt tác mà ở đó người ta thấy được những lớp người nông dân thấp cổ bé họng, bi thảm bị tha hóa về cả nhân hình lẫn nhân cách, thế nhưng tận thẳm sâu tâm hồn họ vẫn giữ gìn cái bản chất lương thiện, hiền lành, chỉ là họ bị chính cái xã hội tàn khốc chà đạp, chối bỏ. Cùng với đó là bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, bần cùng, xơ xác vào những năm 1940-1945, mà trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã kết thúc cuộc đời hắn trong đau đớn, tuyệt vọng.
Nếu chỉ đọc một đoạn trích Chí Phèo, nói về cuộc đời và những bi kịch của hắn thì có lẽ khó mà có thể tưởng tượng ra một hình ảnh làng Vũ Đại hoàn chỉnh, phải đọc cả truyện ngắn ấy người ta mới thấy dần hiện lên một ngôi làng mà trong ấy ngự trị đủ mọi cái xấu xa, cái éo le trong cuộc đời. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại, nơi mà cái ác trở thành chúa tể, nơi đã biến một anh canh điền lương thiện trở thành một kẻ nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ. Không chỉ một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở làng Vũ Đại cũng có nhiều người giống Chí, mỗi người đều có cho mình những bi kịch riêng, mà chốt lại cũng tại chính cái chính quyền phong kiến tàn ác đã khiến họ trở nên như vậy.
Trước hết vẫn nói về thân phận của Chí Phèo, thông qua đó ta đã thấy hình ảnh của ngôi làng lờ mờ hiện ra trước mắt, nghèo đói, bần cùng. Hắn mồ côi từ nhỏ, có lẽ là cha mẹ hắn vì nghèo đói quá nên không nuôi nổi đành đem bỏ rơi hắn, hoặc cũng có nhẽ là mẹ hắn chửa hoang rồi vì sợ cái định kiến cay nghiệt của làng nước mà giấu giếm đẻ rồi vứt hắn ở cái lò gạch cũ. Cuộc đời của Chí đã khởi đầu đầy bất hạnh như thế, thiếu thốn tình thương, sự giáo dục của gia đình, rồi thậm chí trở thành một món hàng để người ta bán lấy tiền, cũng chỉ vì họ nghèo khổ quá. Số kiếp không cho hắn được làm người lương thiện, hắn bị vu oan rồi bị đi tù, chỉ vì cái lòng ghen cay nghiệt của bá Kiến. Từ đó người ta mới nhận ra một hình ảnh nữa của làng Vũ Đại, một ông bá Kiến có chức quyền, nhưng bất lực và sợ vợ, thành thử ông ta đổ hết cái uất ức ấy lên đầu Chí, một người đàn bà dâm đãng, tuy có chồng nhưng vẫn phải ve vãn người đàn ông khác, thối nát cực kỳ. Qua sự kiện Chí được bà ba yêu thích, tin cẩn, qua miệng người làng Vũ Đại nó lại trở thành những câu chuyện khác nhau, trở thành chuyện cho người ta suy đoán những lúc rỗi mồm rảnh việc. Từ đó người ta lại thấy được cái bản chất ích kỷ, lắm chuyện, những cái định kiến chua ngoa, gay gắt gián tiếp giết chết một con người đang dần ươm mầm trong xã hội.
Làng Vũ Đại ngày ấy là ngôi làng nghèo nàn với sự thống trị của những kẻ nắm quyền tàn ác, nhưng manh động ví như lý Cường một kẻ "nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác", sẵn sàng lên tay bạo lực với kẻ như Chí Phèo, tuy nhiên cũng chẳng phải là hạng người khôn khéo, sành sỏi bởi mới thấy Chí rạch mặt thì hắn cũng bắt đầu lo sợ. Người ta lại thấy một làng Vũ Đại hóng hớt, nhiều chuyện khi ra xem cảnh một tên ác bá và một thằng say rượu đánh nhau với sự thích thú, hả hê. Thực tế, Lí Cường chẳng là gì so với bố của hắn là bá Kiến, bá Kiến mới thực sự là tên đầu sỏ đại diện cho cái xã hội cường quyền tàn ác lúc bấy giờ, khôn ranh đủ đường, sẵn sàng dỗ ngọt, cho tiền Chí Phèo rồi thu hắn làm vây cánh đi thay mình đâm thuê chém mướn luôn. Thế mới nói ở cái chức tổng lý chẳng phải dễ ngồi, bởi làng có hơn 2000 khẩu, lại xa tổng lý, nhưng có tới một bộ máy biết bao nhiêu vị trí nào là "lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu". Cũng minh tranh ám đấu, kèn cựa nhau không ít, không khôn khéo chắc cũng bị hất cẳng từ lâu lắm rồi.
Từ cái chuyện ăn vạ của Chí Phèo ta mới lần mở được bộ mặt khác của làng Vũ Đại, không phải chỉ nghèo nàn, cường hào ác bá chèn ép mà còn là nơi tụ tập, sản sinh đủ loại lưu manh, đủ kiểu tha hóa nhân cách. Hóa ra chẳng phải chỉ có Chí Phèo là kẻ liều chết số một, mà trước đó còn có năm Thọ "một thằng đầu bò đầu bướu" kẻ cướp, vượt ngục, dùng dao liều chết uy hiếp bá Kiến để lấy 100 đồng rồi trốn biệt đến giờ. Tre già măng mọc, năm Thọ vừa mất dạng thì lại đẻ ra một Binh Chức, có lẽ đây là người có số phận gần giống với Chí Phèo nhất, cũng hiền lành, tử tế, nhịn nhục chăm làm ăn, nhưng cái xã hội lúc bấy giờ nó nào có nể nang gì kẻ hiền lành, "cái nghề đời hiền quá cũng hoá ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được". Phũ phàng và đau đớn đến thế, hắn phải bỏ cả nhà để đi lính, bi kịch không dừng lại ở đó, đi lính thì mất luôn cả vợ, chị vợ ở nhà "nghiễm nhiên thành một con nhà thổ không phải trả tiền để bọn lý dịch trong làng chuyên đổi", cũng lại là tính đa dâm, tha hóa nhân cách của một người đàn bà khác trong làng. Thành thử ra mọi thứ hoang tàn trong cái xã hội ấy đã ép Binh Chức trở thành một kẻ liều chết như Chí Phèo, ngang nhiên đòi tiền lý Kiến mà không phải tội, lại được sống yên ổn trên chính quê hương với vợ con và làm chân tay cho lý Kiến đến hết đời. Quả thói đời lạ lùng, kẻ hiền thì không được sống yên, cứ phải ác, phải liều lĩnh thì may ra mới sống được ở cái làng Vũ Đại ngày ấy. Đó chính là cái cách phản kháng duy nhất mà người nông dân cùng khổ lúc bấy giờ còn có thể làm được, dẫu rằng nó có tàn bạo, mất nhân tính thế nhưng chí ít nó vẫn cứu họ khỏi cái đói, cái chết, chí ít vẫn khiến bọn cường hào ác bá phải kinh sợ, dè chừng. Họ chấp nhận trở thành tay sai cho bè lũ thống trị phong kiến, và dĩ nhiên bọn chính quyền cũng xem đó là cái lợi lớn, bởi "có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền lành và yên phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế", khốn nạn đến thế là cùng.
Làng Vũ Đại còn có gì nữa, vẫn còn những kiếp người cũng khốn khổ với những niềm đau riêng, ấy là ông thầy cúng kiêm nghề thiến lợn - tự Lãng, vợ chết, con gái chửa hoang rồi bỏ đi, chỉ còn lại một mình lão cũng trở nên nát rượu như Chí Phèo. Một thị Nở đã nghèo lại còn xấu đau xấu đớn, thêm cái tính dở hơi, hơn 30 tuổi vẫn ế chỏng ế chơ, cùng sống với thị là bà cô già cũng ế chồng, hai cô cháu sống tạm bợ trong cái nhà tre tạm bợ, gần với nhà Chí Phèo. Một con người dở hơi như thị nhưng lại chính là người thấu hiểu và đánh thức được cái lương thiện vẫn ngủ yên trong sâu thẳm tâm hồn Chí, còn bà cô có vẻ già đời, tỉnh táo thế nhưng lại chính là người giết chết cái ý nghĩ quay lại làm người lương thiện của Chí Phèo. Có thể nói rằng bà cô chính là đại diện tiêu biểu cho cái định kiến tàn ác của cả làng Vũ Đại, đã chặn đứng con đường hoàn lương của Chí Phèo, khiến hắn phải đi đến bước đường cùng là chết.
Như vậy trong truyện ngắn Chí Phèo hình ảnh làng Vũ Đại đã hiện thật rõ ràng qua hình ảnh, đặc biệt là qua những nỗi khổ, những bi kịch của từng con người đã và đang sinh sống ở dưới cái làng ấy. Người ta đã thấy một cái xã hội phong kiến hủ bại, thối nát, một ngôi làng nghèo nàn, lạc hậu, nặng nề những định kiến, hỗn loạn về đạo đức và nhân phẩm. Đó chính là bức tranh hiện thực tàn khốc của nông dân Việt Nam những năm trước cách mạng, của chính cái chế độ thực dân nửa phong kiến độc ác, tha hóa về mọi mặt.
Chắc hẳn, khi nghe đến làng Vũ Đại, chúng ta đều nghĩ đến nhân vật Chí Phèo, thị Nở, Bá Kiến và cả nồi cá kho làng Vũ Đại. Với lối văn tính tế, chân thực đi sâu vào cuộc sống người dân làng Vũ Đại lúc bấy giờ, Nam Cao đã làm nên một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian, khắc sâu trong tâm trí bao thế hệ người Việt. Và làng quê Vũ Đại đó xưa như thế nào.
Làng Vũ Đại là địa danh nổi tiếng gắn liền với truyện ngắn Chí Phèo. Trên thực tế làng được lấy nguyên mẫu từ làng Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam – quê hương của nhà văn Nam Cao. Đây là hình ảnh quen thuộc đối với những độc giả Việt Nam. Nếu như trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao miêu tả như một bức tranh về xã hội phong kiến thu nhỏ, nơi có rất nhiều bè phái với những mưu toan, thủ đoạn, áp bức người nghèo thì bây giờ, khi đến đây, mọi người sẽ rất ngạc nhiên trước một làng quê thanh bình. Làng Vũ Đại xưa kia luôn gắn liền cái nghèo, cái khổ nhưng ngày nay du khách không khỏi ngỡ ngàng trước sự đổi thay trong từng ngõ xóm. Nhưng vẫn còn đó những giá trị văn hóa trường tồn là ngôi nhà Bá Kiến cùng những đặc sản thơm ngon.
Trước năm 1945, dệt vải là nghề truyền thống của người dân trong làng. Khung dệt mỏ quạ là công cụ phổ biến để cho ra đời những tấm vải đũi thô sơ. Tuy nhiên cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám quanh năm khiến người dân ở nơi đây phải kiếm ăn từng bữa. Mặc dù tên Vũ Đại chỉ xuất hiện khi có tác phẩm Chí Phèo nhưng ngôi nhà của Bá Kiến trong truyện ở Đại Hoàng tồn tại đã trăm năm. Ngôi nhà 3 gian truyền thống của người Việt Nam này được dựng từ 16 cây cột lim, mái lợp ngói, và có nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo. Trên nóc có khắc dòng chữ Nho nói về thời gian làm ngôi nhà. Cửa nhà là loại ghép bức bàn, ngoài hiên có một hàng dọc để chống mưa nắng. Xưa kia ngôi nhà này có nhiều thứ rất đáng giá như tranh, ảnh, hoành phi, câu đối cổ…, nhưng bị bán và mối mọt hết. Điều đặc biệt là nhà đã qua 7 đời chủ với hai lần “chết hụt”. Lần đầu tiên là năm 1953, ngôi nhà được cứu sau trận càn quét, phóng hỏa của thực dân Pháp. Lần thứ hai, ngôi nhà suýt bị đem xẻ lấy gỗ nếu cụ Trần Thế Lễ bấy giờ mua được, nhưng may thay, ngôi nhà đã được một Việt kiều mua lại để định cư. Chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà là cụ Trần Duy Hanh, một lái buôn giàu có. Vào khoảng những năm 1910, cụ thuê hơn 20 thợ tài hoa làm nghề mộc ở Cao Đà, phủ Lý Nhân về làm mấy tháng ròng rã mới xong. Cụ Hanh mất đi người thừa kế lại ngôi nhà là con trai Trần Duy Xầm. Cụ Xầm sau đó để lại cho con là Cựu Cát. Là người chơi bời, rượu chè nên Cựu Cát nhiều lần vay tiền ngụy viên Bắc Kỳ Bá Bính (tên thật là Trần Duy Bính, mất năm 1946). Bá Bính được cố nhà văn Nam Cao tiết lộ là nguyên mẫu nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo.
Bá Bính thời bấy giờ giữ 3 chức vụ quan trọng, gồm ngụy viên Bắc Kỳ, chánh tổng và lý trưởng. Chức ngụy viên Bắc Kỳ tương đương với đại biểu Quốc hội ngày nay, vì vậy ông được phong hàng Bá, là Bá Bính. “Hồi đó Bá Bính làm quan to nên nhiều người đi hầu, đất của ông ta rộng gần nửa làng Đại Hoàng. Ngôi nhà này được Bá Bính mua lại để làm nhà thờ”, cụ Huấn kể.
Bá Bính mất đi để lại gia sản cho con là Trần Duy Tảo hay còn gọi là Binh Tảo. Bản tính nghiện rượu nên những đồ đạc trong nhà Binh Tảo đều mang đi cầm cố và bán sạch. Căn nhà là tài sản quý giá nhất cũng bị Binh Tảo rao bán. Cụ Cai Hậu sau đó mua ngôi nhà với giá 4.500 đồng (khoảng 20 cây vàng thời bấy giờ).
Chủ nhân tiếp theo của ngôi nhà là ông Trần Hữu Hòa, cháu cụ Cai Hậu. Đến năm 2007, UBND tỉnh Hà Nam quyết định lưu giữ ngôi nhà này nên đã thương thảo với bà Trần Thị Sâm (vợ ông Hòa) để mua lại với giá 700 triệu đồng. Trải qua nhiều đời chủ, nhưng kiến trúc ngôi nhà còn khá nguyên vẹn, tất cả được giữ nguyên cho đến hôm nay.
Cũng từ cuốn truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao, người ta còn nhắc đến Vũ Đại với bát cháo hành Thị Nở tình nghĩa khiến Chí Phèo có những cảm xúc mong muốn trở thành người lương thiện nhưng “ai cho tao lương thiện” và vườn chuối sau nhà. Có lẽ bấy giờ, đây chính là đặc sản mộc mạc, chân quê của người dân Vũ Đại.
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam, hai đề tài chính của ông là viết về người trí thức và người nông dân ở xã hội cũ, những con người cùng khổ, bị cái xã hội vô nhân đạo dồn ép vào đường cùng để rồi chết mòn trong bi kịch tinh thần, bi kịch đói nghèo. Nếu như với đề tài người trí thức cũ, Nam Cao không phải tốn quá nhiều công sức để tưởng tượng, đặt mình vào tâm hồn nhân vật, bởi vì chính bản thân ông cũng là một trí thức nghèo, ông thấu hiểu cái khổ của người trí thức hơn bao giờ hết. Thì đến với đề tài của người nông dân người ta mới thực sự thấy được cái tài năng bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng và bi kịch của người nông dân cùng khổ dưới đáy xã hội lúc bấy giờ. Chí Phèo chính là kiệt tác mà ở đó người ta thấy được những lớp người nông dân thấp cổ bé họng, bi thảm bị tha hóa về cả nhân hình lẫn nhân cách, thế nhưng tận thẳm sâu tâm hồn họ vẫn giữ gìn cái bản chất lương thiện, hiền lành, chỉ là họ bị chính cái xã hội tàn khốc chà đạp, chối bỏ. Cùng với đó là bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, bần cùng, xơ xác vào những năm 1940-1945, mà trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã kết thúc cuộc đời hắn trong đau đớn, tuyệt vọng.
Nếu chỉ đọc một đoạn trích Chí Phèo, nói về cuộc đời và những bi kịch của hắn thì có lẽ khó mà có thể tưởng tượng ra một hình ảnh làng Vũ Đại hoàn chỉnh, phải đọc cả truyện ngắn ấy người ta mới thấy dần hiện lên một ngôi làng mà trong ấy ngự trị đủ mọi cái xấu xa, cái éo le trong cuộc đời. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại, nơi mà cái ác trở thành chúa tể, nơi đã biến một anh canh điền lương thiện trở thành một kẻ nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ. Không chỉ một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở làng Vũ Đại cũng có nhiều người giống Chí, mỗi người đều có cho mình những bi kịch riêng, mà chốt lại cũng tại chính cái chính quyền phong kiến tàn ác đã khiến họ trở nên như vậy.
Trước hết vẫn nói về thân phận của Chí Phèo, thông qua đó ta đã thấy hình ảnh của ngôi làng lờ mờ hiện ra trước mắt, nghèo đói, bần cùng. Hắn mồ côi từ nhỏ, có lẽ là cha mẹ hắn vì nghèo đói quá nên không nuôi nổi đành đem bỏ rơi hắn, hoặc cũng có nhẽ là mẹ hắn chửa hoang rồi vì sợ cái định kiến cay nghiệt của làng nước mà giấu giếm đẻ rồi vứt hắn ở cái lò gạch cũ. Cuộc đời của Chí đã khởi đầu đầy bất hạnh như thế, thiếu thốn tình thương, sự giáo dục của gia đình, rồi thậm chí trở thành một món hàng để người ta bán lấy tiền, cũng chỉ vì họ nghèo khổ quá. Số kiếp không cho hắn được làm người lương thiện, hắn bị vu oan rồi bị đi tù, chỉ vì cái lòng ghen cay nghiệt của bá Kiến. Từ đó người ta mới nhận ra một hình ảnh nữa của làng Vũ Đại, một ông bá Kiến có chức quyền, nhưng bất lực và sợ vợ, thành thử ông ta đổ hết cái uất ức ấy lên đầu Chí, một người đàn bà dâm đãng, tuy có chồng nhưng vẫn phải ve vãn người đàn ông khác, thối nát cực kỳ. Qua sự kiện Chí được bà ba yêu thích, tin cẩn, qua miệng người làng Vũ Đại nó lại trở thành những câu chuyện khác nhau, trở thành chuyện cho người ta suy đoán những lúc rỗi mồm rảnh việc. Từ đó người ta lại thấy được cái bản chất ích kỷ, lắm chuyện, những cái định kiến chua ngoa, gay gắt gián tiếp giết chết một con người đang dần ươm mầm trong xã hội.
Làng Vũ Đại ngày ấy là ngôi làng nghèo nàn với sự thống trị của những kẻ nắm quyền tàn ác, nhưng manh động ví như lý Cường một kẻ "nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác", sẵn sàng lên tay bạo lực với kẻ như Chí Phèo, tuy nhiên cũng chẳng phải là hạng người khôn khéo, sành sỏi bởi mới thấy Chí rạch mặt thì hắn cũng bắt đầu lo sợ. Người ta lại thấy một làng Vũ Đại hóng hớt, nhiều chuyện khi ra xem cảnh một tên ác bá và một thằng say rượu đánh nhau với sự thích thú, hả hê. Thực tế, Lí Cường chẳng là gì so với bố của hắn là bá Kiến, bá Kiến mới thực sự là tên đầu sỏ đại diện cho cái xã hội cường quyền tàn ác lúc bấy giờ, khôn ranh đủ đường, sẵn sàng dỗ ngọt, cho tiền Chí Phèo rồi thu hắn làm vây cánh đi thay mình đâm thuê chém mướn luôn. Thế mới nói ở cái chức tổng lý chẳng phải dễ ngồi, bởi làng có hơn 2000 khẩu, lại xa tổng lý, nhưng có tới một bộ máy biết bao nhiêu vị trí nào là "lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu". Cũng minh tranh ám đấu, kèn cựa nhau không ít, không khôn khéo chắc cũng bị hất cẳng từ lâu lắm rồi.
Từ cái chuyện ăn vạ của Chí Phèo ta mới lần mở được bộ mặt khác của làng Vũ Đại, không phải chỉ nghèo nàn, cường hào ác bá chèn ép mà còn là nơi tụ tập, sản sinh đủ loại lưu manh, đủ kiểu tha hóa nhân cách. Hóa ra chẳng phải chỉ có Chí Phèo là kẻ liều chết số một, mà trước đó còn có năm Thọ "một thằng đầu bò đầu bướu" kẻ cướp, vượt ngục, dùng dao liều chết uy hiếp bá Kiến để lấy 100 đồng rồi trốn biệt đến giờ. Tre già măng mọc, năm Thọ vừa mất dạng thì lại đẻ ra một Binh Chức, có lẽ đây là người có số phận gần giống với Chí Phèo nhất, cũng hiền lành, tử tế, nhịn nhục chăm làm ăn, nhưng cái xã hội lúc bấy giờ nó nào có nể nang gì kẻ hiền lành, "cái nghề đời hiền quá cũng hoá ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được". Phũ phàng và đau đớn đến thế, hắn phải bỏ cả nhà để đi lính, bi kịch không dừng lại ở đó, đi lính thì mất luôn cả vợ, chị vợ ở nhà "nghiễm nhiên thành một con nhà thổ không phải trả tiền để bọn lý dịch trong làng chuyên đổi", cũng lại là tính đa dâm, tha hóa nhân cách của một người đàn bà khác trong làng. Thành thử ra mọi thứ hoang tàn trong cái xã hội ấy đã ép Binh Chức trở thành một kẻ liều chết như Chí Phèo, ngang nhiên đòi tiền lý Kiến mà không phải tội, lại được sống yên ổn trên chính quê hương với vợ con và làm chân tay cho lý Kiến đến hết đời. Quả thói đời lạ lùng, kẻ hiền thì không được sống yên, cứ phải ác, phải liều lĩnh thì may ra mới sống được ở cái làng Vũ Đại ngày ấy. Đó chính là cái cách phản kháng duy nhất mà người nông dân cùng khổ lúc bấy giờ còn có thể làm được, dẫu rằng nó có tàn bạo, mất nhân tính thế nhưng chí ít nó vẫn cứu họ khỏi cái đói, cái chết, chí ít vẫn khiến bọn cường hào ác bá phải kinh sợ, dè chừng. Họ chấp nhận trở thành tay sai cho bè lũ thống trị phong kiến, và dĩ nhiên bọn chính quyền cũng xem đó là cái lợi lớn, bởi "có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền lành và yên phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế", khốn nạn đến thế là cùng.
Làng Vũ Đại còn có gì nữa, vẫn còn những kiếp người cũng khốn khổ với những niềm đau riêng, ấy là ông thầy cúng kiêm nghề thiến lợn - tự Lãng, vợ chết, con gái chửa hoang rồi bỏ đi, chỉ còn lại một mình lão cũng trở nên nát rượu như Chí Phèo. Một thị Nở đã nghèo lại còn xấu đau xấu đớn, thêm cái tính dở hơi, hơn 30 tuổi vẫn ế chỏng ế chơ, cùng sống với thị là bà cô già cũng ế chồng, hai cô cháu sống tạm bợ trong cái nhà tre tạm bợ, gần với nhà Chí Phèo. Một con người dở hơi như thị nhưng lại chính là người thấu hiểu và đánh thức được cái lương thiện vẫn ngủ yên trong sâu thẳm tâm hồn Chí, còn bà cô có vẻ già đời, tỉnh táo thế nhưng lại chính là người giết chết cái ý nghĩ quay lại làm người lương thiện của Chí Phèo. Có thể nói rằng bà cô chính là đại diện tiêu biểu cho cái định kiến tàn ác của cả làng Vũ Đại, đã chặn đứng con đường hoàn lương của Chí Phèo, khiến hắn phải đi đến bước đường cùng là chết.
Như vậy trong truyện ngắn Chí Phèo hình ảnh làng Vũ Đại đã hiện thật rõ ràng qua hình ảnh, đặc biệt là qua những nỗi khổ, những bi kịch của từng con người đã và đang sinh sống ở dưới cái làng ấy. Người ta đã thấy một cái xã hội phong kiến hủ bại, thối nát, một ngôi làng nghèo nàn, lạc hậu, nặng nề những định kiến, hỗn loạn về đạo đức và nhân phẩm. Đó chính là bức tranh hiện thực tàn khốc của nông dân Việt Nam những năm trước cách mạng, của chính cái chế độ thực dân nửa phong kiến độc ác, tha hóa về mọi mặt.
Là nơi quần ngư tranh thực với các phe nghịch, đi lại với nhau để bóc lột con em, ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông Đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng... Đội Tảo ngang ngược, là cựu bỉnh cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh. Còn Bá Kiên vô cùng xảo quyệt, biết mềm nắn rắn buông, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được năm đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì thương anh túng quá! Cụ không cần than thở: trị không lại thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém... gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.
Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh Chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo - cùng với Bá Kiến là hai con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!
Một Thị Nở dòng giống của một nhà có mả hủi… một bà cô thị suốt đời cô đơn, một Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn đi... Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?
Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.
Nam Cao là 1 trong những nhà văn hiện thực tuyệt vời nhất của nền văn chương Việt Nam, 2 đề vốn đầu tư của ông là viết về người trí thức và người dân cày ở xã hội cũ, những con người cùng khổ, bị cái xã hội vô nhân đạo thúc ép vào đường cùng để rồi chết mòn trong thảm kịch ý thức, thảm kịch nghèo đói. Ví như với đề tài người trí thức cũ, Nam Cao chẳng hề tốn quá nhiều công lao để hình dung, đặt mình vào tâm hồn đối tượng, bởi vì chính bản thân ông cũng là 1 trí thức nghèo, ông thấu hiểu cái khổ của người trí thức hơn bao giờ hết. Thì tới với đề tài của người dân cày người ta mới đích thực thấy được cái tài năng bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng và thảm kịch của người dân cày cùng khổ dưới đáy xã hội khi bấy giờ. Chí Phèo chính là tuyệt tác nhưng ở đấy người ta thấy được những lớp người dân cày thấp cổ nhỏ họng, bi thương bị tha hóa về cả nhân hình lẫn tư cách, thế mà tận thẳm sâu tâm hồn họ vẫn gìn giữ cái thực chất lương thiện, hiền hậu, chỉ là họ bị chính cái xã hội ác liệt giày xéo, chối bỏ. Cộng với đấy là bức tranh nông thôn Việt Nam đói nghèo, bần hàn, xác xơ vào những 5 1940-1945, nhưng trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã chấm dứt cuộc đời hắn trong đớn đau, thất vọng.
Nếu chỉ đọc 1 đoạn trích Chí Phèo, nói về cuộc đời và những thảm kịch của hắn thì có nhẽ khó nhưng có thể hình dung ra 1 hình ảnh làng Vũ Đại hoàn chỉnh, phải đọc cả truyện ngắn đó người ta mới thấy dần hiện lên 1 ngôi làng nhưng trong đó ngự trị đủ mọi cái xấu xa, cái trái ngang trong cuộc đời. Ấy chính là hình ảnh thu bé của 1 cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại, nơi nhưng cái ác biến thành chúa tể, nơi đã biến 1 anh canh điền lương thiện biến thành 1 kẻ nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ. Không chỉ 1 mình Chí Phèo bị tha hóa, ở làng Vũ Đại cũng có nhiều người giống Chí, mỗi người đều có cho mình những thảm kịch riêng, nhưng chốt lại cũng tại chính cái chính quyền phong kiến gian ác đã khiến họ phát triển thành tương tự.
Trước 5 1945, dệt vải là nghề truyền thống của người dân trong làng. Khung dệt mỏ quạ là phương tiện tầm thường để cho có mặt trên thị trường những tấm vải đũi thô sơ. Tuy nhiên cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám quanh 5 khiến người dân ở nơi đây phải kiếm ăn từng bữa. Mặc dầu tên Vũ Đại chỉ hiện ra lúc có tác phẩm Chí Phèo mà ngôi nhà của Bá Kiến trong truyện ở Đại Hoàng còn đó đã trăm 5. Ngôi nhà 3 gian truyền thống của người Việt Nam này được dựng từ 16 cây cột lim, mái lợp ngói, và có nhiều hoa văn họa tiết tinh vi. Trên nóc có khắc dòng chữ Nho nói về thời kì làm ngôi nhà. Cửa nhà là loại ghép bức bàn, ngoài hiên có 1 hàng dọc để chống mưa nắng. Xưa kia ngôi nhà này có nhiều thứ rất đáng giá như tranh, ảnh, hoành phi, câu đối cổ…, mà bị bán và mối mọt hết. Điều đặc thù là nhà đã qua 7 đời chủ với 2 lần “chết hụt”. Lần trước tiên là 5 1953, ngôi nhà được cứu sau trận càn quét, phóng hỏa của thực dân Pháp. Lần thứ 2, ngôi nhà suýt bị đem xẻ lấy gỗ nếu cụ Trần Thế Lễ bấy giờ sắm được, mà may thay, ngôi nhà đã được 1 Việt kiều sắm lại để định cư. Chủ nhân trước tiên của ngôi nhà là cụ Trần Duy Hanh, 1 thương lái sang giàu. Vào khoảng những 5 1910, cụ thuê hơn 20 thợ tài giỏi làm nghề mộc ở Cao Đà, phủ Lý Nhân về làm mấy tháng ròng rã mới xong. Cụ Hanh mất đi người thừa kế lại ngôi nhà là đàn ông Trần Duy Xầm. Cụ Xầm sau đấy để lại cho con là Cựu Cát. Là game thủ bời, rượu chè nên Cựu Cát nhiều lần vay tiền ngụy viên Bắc Kỳ Bá Bính (tên thật là Trần Duy Bính, mất 5 1946). Bá Bính được cố nhà văn Nam Cao bật mí là nguyên mẫu đối tượng Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo.
Bá Bính thời bấy giờ giữ 3 chức phận quan trọng, gồm ngụy viên Bắc Kỳ, chánh tổng và lý trưởng. Chức ngụy viên Bắc Kỳ tương đương với đại biểu Quốc hội hiện nay, thành ra ông được phong hàng Bá, là Bá Bính. “Hồi đấy Bá Bính làm quan phệ nên nhiều người đi hầu, đất của ông ta rộng gần nửa làng Đại Hoàng. Ngôi nhà này được Bá Bính sắm lại để làm nhà thờ”, cụ Huấn kể.
Bá Bính mất đi để lại gia bản cho con là Trần Duy Tảo hay còn gọi là Binh Tảo. Bản tính nghiện rượu nên những đồ đoàn trong nhà Binh Tảo đều mang đi cầm cố và bán sạch. Căn nhà là của nả quý giá nhất cũng bị Binh Tảo rao bán. Cụ Cai Hậu sau đấy sắm ngôi nhà với giá 4.500 đồng (khoảng 20 cây vàng thời bấy giờ).
Chủ nhân tiếp theo của ngôi nhà là ông Trần Hữu Hòa, cháu cụ Cai Hậu. Tới 5 2007, UBND tỉnh Hà Nam quyết định lưu giữ ngôi nhà này nên đã đàm phán với bà Trần Thị Sâm (vợ ông Hòa) để sắm lại với giá 700 triệu đồng. Trcửa ải qua nhiều đời chủ, mà kiến trúc ngôi nhà còn khá nguyên lành, tất cả được giữ nguyên cho tới bữa nay.
Cũng từ cuốn truyện ngắn lừng danh của Nam Cao, người ta còn nói đến Vũ Đại với bát cháo hành Thị Nở nghĩa tình khiến Chí Phèo có những xúc cảm mong muốn biến thành người lương thiện mà “người nào cho tao lương thiện” và vườn chuối sau nhà. Có nhẽ bấy giờ, đây chính là đặc sản mộc mạc, chân quê của người dân Vũ Đại.
Chắc hẳn, lúc nghe tới làng Vũ Đại, chúng ta đều nghĩ tới đối tượng Chí Phèo, thị Nở, Bá Kiến và cả nồi cá kho làng Vũ Đại. Với lối văn tính tế, sống động đi sâu vào cuộc sống người dân làng Vũ Đại khi bấy giờ, Nam Cao đã làm nên 1 tác phẩm văn chương sống mãi với thời kì, khắc sâu trong tâm não bao lứa tuổi người Việt. Và làng quê Vũ Đại đấy xưa như thế nào.
Làng Vũ Đại là địa danh lừng danh gắn liền với truyện ngắn Chí Phèo. Trên thực tiễn làng được lấy nguyên mẫu từ làng Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam – quê hương của nhà văn Nam Cao. Đây là hình ảnh thân thuộc đối với những bạn đọc Việt Nam. Ví như trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao mô tả như 1 bức tranh về xã hội phong kiến thu bé, nơi có rất nhiều bè đảng với những mưu toan, âm mưu, áp bức người nghèo thì hiện thời, lúc tới đây, mọi người sẽ rất kinh ngạc trước 1 làng quê yên bình. Làng Vũ Đại xưa kia luôn gắn liền cái nghèo, cái khổ mà hiện nay du khách ko khỏi ngỡ ngàng trước sự thay đổi trong từng ngõ xóm. Nhưng vẫn còn đấy những trị giá văn hóa trường tồn là ngôi nhà Bá Kiến cùng những đặc sản thơm ngon.
Trước hết vẫn nói về thân phận của Chí Phèo, phê duyệt đấy ta đã thấy hình ảnh của ngôi làng mù mờ xuất hiện trước mắt, đói nghèo, bần hàn. Hắn mồ côi từ bé, có nhẽ là bác mẹ hắn vì đói nghèo quá nên ko nuôi nổi đành đem bỏ rơi hắn, hoặc cũng có lẽ là mẹ hắn chửa buộm rồi vì sợ cái thành kiến đay nghiến của làng nước nhưng giấu giếm đẻ rồi vứt hắn ở cái lò gạch cũ. Cuộc đời của Chí đã bắt đầu đầy xấu số như thế, thiếu thốn tình thương, sự giáo dục của gia đình, rồi thậm chí biến thành 1 món hàng để người ta bán lấy tiền, cũng chỉ vì họ nghèo đói quá. Số kiếp ko cho hắn được làm người lương thiện, hắn bị vu vạ rồi bị đi tù, chỉ vì cái lòng ghen tuông đay nghiến của bá Kiến. Từ đấy người ta mới nhìn thấy 1 hình ảnh nữa của làng Vũ Đại, 1 ông bá Kiến có chức quyền, mà bất lực và sợ vợ, thành thử ông ta đổ hết cái uất ức đó lên đầu Chí, 1 người phụ nữ dâm đãng, tuy có chồng mà vẫn phải tán tỉnh người con trai khác, thối nát vô cùng. Qua sự kiện Chí được bà 3 thích thú, tin cẩn, qua mồm người làng Vũ Đại nó lại biến thành những câu chuyện không giống nhau, biến thành chuyện cho người ta phán đoán những khi rỗi miệng rảnh việc. Từ đấy người ta lại thấy được cái thực chất ích kỷ, lắm chuyện, những cái thành kiến ngoa ngoắt, gay gắt gián tiếp làm thịt chết 1 con người đang dần ươm mầm trong xã hội.
Làng Vũ Đại ngày đó là ngôi làng nghèo khó với sự cai trị của những kẻ nắm quyền gian ác, mà manh động giả dụ lý Cường 1 kẻ “lừng danh là hống hách, coi người như rơm rác”, chuẩn bị lên tay bạo lực với kẻ như Chí Phèo, ngoài ra cũng không phải là hạng người khéo léo, sành sỏi bởi mới thấy Chí rạch mặt thì hắn cũng mở màn lo sợ. Người ta lại thấy 1 làng Vũ Đại hóng hớt, nhiều chuyện lúc ra xem cảnh 1 tên ác bá và 1 thằng say rượu loạn đả với sự ham thích, hỉ hả. Thực tế, Lí Cường chẳng là gì so với bố của hắn là bá Kiến, bá Kiến mới đích thực là tên đầu sỏ đại diện cho cái xã hội cường quyền gian ác khi bấy giờ, khôn ranh đủ đường, chuẩn bị dỗ ngọt, cho tiền Chí Phèo rồi thu hắn làm vây cánh đi thay mình đâm thuê chém mướn luôn. Thế mới nói ở cái chức tổng lý không phải dễ ngồi, bởi làng có hơn 2000 khẩu, lại xa tổng lý, mà có đến 1 bộ máy biết bao lăm địa điểm nào là “lý trưởng, chánh tổng, bá hộ thủ chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ quần chúng đại biểu”. Cũng minh tranh ám đấu, kèn cựa nhau ko ít, ko khéo léo chắc cũng bị hất cẳng từ lâu lắm rồi.
Là nơi quần ngư tranh thực với các phe nghịch, di chuyển với nhau để bóc lột con em, ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để nhưng trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông Đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo tai ngược, là cựu bỉnh cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao đấu. Còn Bá Kiên cực kỳ giảo hoạt, biết mềm nắn rắn buông, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, mà rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được 5 đồng mà rồi thì lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá! Cụ ko cần than vãn: trị ko lại thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt tử để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan tành bao cơ nghiệp dân lành.
Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. 5 Thọ đi thì Binh Chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra 1 Chí Phèo – cộng với Bá Kiến là 2 con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có 1 Chí Phèo con nhất mực sẽ có mặt trên thị trường!
1 Thị Nở dòng giống của 1 nhà có mả hủi… 1 bà cô thị suốt đời độc thân, 1 Tự Lãng làm nghề thiến lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa buộm bỏ nhà trốn đi… Bao nhiêu bi kịch, thảm kịch?
Nam Cao đã cáo giác cái hiện thực xấu xa, gian ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, xuất xứ của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào trục đường âu sầu, tội vạ.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.