Với giải Trái tim Đan Kô (Trích Bà lão I-déc-ghin) SBT Ngữ văn 11 Cánh diều chi tiết trong Bài 5: Truyện ngắn giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải, từ đó biết cách làm bài tập Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
SBT Ngữ văn 11 Trái tim Đan Kô (Trích Bà lão I-déc-ghin) (Cánh diều)
Câu 1 trang 3 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Trong văn bản Trái tim Đan-kô, nhân vật chính là ai?
A. Bà lão I-déc-ghin
B. Đan-kô
C. Đoàn người
D. Tôi
Trả lời:
Đáp án B
Câu 2 trang 3 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đoạn văn sau cho thấy đoàn người đang lâm vào tình thế gì?
“Cần phải ra khỏi khu rừng này, và muốn vậy chỉ có hai con đường: con đường thứ nhất là trở lại phía sau thì có những kẻ thù mạnh và hung dữ, con đường thứ hai là tiến lên phía trước thì ở đó là những cây khổng lồ, cành to khoẻ, ôm chặt lấy nhau, rễ ngoằn ngoèo đâm sâu xuống đất bùn dính chắc của đầm lầy. Những thân cây trơ trơ như đá ấy ban ngày đứng sừng sững, im lìm trong ánh sáng lờ mờ, xám xịt, và tối đến, khi đốt lửa lên thì cây cối càng dịch sát lại bao quanh đoàn người. Đêm cũng như ngày, xung quanh đoàn người bao giờ cũng có một vòng bóng tối vững chắc chỉ chực nghiến bẹp họ, mà họ thì đã quen với thảo nguyên bao la. Khi gió đập các ngọn cây và cả khu rừng gào thét như hăm doạ và hát bài ca đưa đám họ thì cảnh tượng càng ghê rợn hơn.”.
A. Đảo ngược
B. Khó khăn
C. Thảm hại
D. Thuận lợi
Trả lời:
Đáp án B
Câu 3 trang 3 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Lời nói của Đan-kô thể hiện triết lí nhân sinh nào?
“− Nghĩ ngợi không thể hất bỏ được tảng đá trên con đường ta đi. Kẻ nào không mó tay vào việc thì chẳng làm nên công chuyện gì. Cứ lo nghĩ làm chỉ cho hao tâm tổn sức? Hãy đứng lên, chúng ta sẽ đi sâu vào rừng và xuyên qua rừng, bởi vì rừng cũng có chỗ kết thúc, mọi cái trên đời đều có chỗ kết thúc! Ta đi đi! Nào! Tiến bước! ...”.
A. Khẳng định lẽ sống, hành động
B. Mọi người không nên hành động
C. Nên tin tưởng người hay lo nghĩ
D. Vận động có lợi cho sức khoẻ
Trả lời:
Đáp án A
A. Bắt trói và giết chết
B. Đuổi đánh
C. Oán trách, khép vào tội chết
D. Xa lánh, ruồng bỏ
Trả lời:
Đáp án C
A. Buồn rầu - Hiên ngang - Phẫn nộ - Yêu thương
B. Hiên ngang - Uất hận - Yêu thương - Buồn rầu
C. Hiên ngang - Phẫn nộ - Buồn bã - Yêu thương
D. Phẫn nộ - Rầu rĩ - Yêu thương - Khuất phục
Trả lời:
Đáp án B
A. Coi thường đoàn người
B. Khẳng định tài năng vượt trội
C. Phẫn nộ, uất hận
D. Sẵn sàng hi sinh vì đoàn người
Trả lời:
Đáp án D
Câu 7 trang 4 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Nhân vật Đan-kô là người như thế nào?
A. Can trường, bao dung
B. Hèn nhát, yếu đuối
C. Ích kỉ, tàn bạo
D. Mưu mô, xảo trá
Trả lời:
Đáp án A
Trả lời:
- Văn bản Trái tim Đan-kô có hai người kể chuyện. Đó là bà lão I-déc-ghin và nhân vật xưng “tôi”.
- Bà lão I-déc-ghin kể câu chuyện về chàng Đan-kô dũng cảm dẫn đoàn người vượt qua rừng rậm và đầm lầy hôi thối để đến thảo nguyên bao la và tự do (đoạn 2, đoạn 3). Nhân vật xưng “tôi” miêu tả quang cảnh thảo nguyên nơi bà lão kể chuyện, ghi cuộc đối thoại giữa họ (đoạn 1), bình luận về câu chuyện, về nhân vật Đan-kô; bình luận về giọng điệu kể chuyện của bà lão I-déc-ghin,... (đoạn 3).
Văn bản Trái tim Đan-kô có hình thức truyện khung (truyện trong truyện). Khung bên ngoài là chuyện “tôi” được bà lão I-déc-ghin kể cho nghe câu chuyện về chàng Đan-kô. Ở khung bên ngoài này, nhân vật xưng “tôi” ngầm chỉ tác giả (tôi – tác giả). “Tôi” lúc này đóng vai trò là người kể chuyện ngôi thứ nhất, can dự trực tiếp vào câu chuyện với tư cách là một nhân vật. Lồng trong khung này là câu chuyện về trái tim cháy sáng của Đan-kô do bà lão I-déc-ghin kể. Giờ đây, người kể chuyện ngôi thứ nhất trở thành người nghe chuyện, đưa ra các nhận xét, bình luận về câu chuyện và giọng điệu kê chuyện của bà lão I-déc-ghin. Khác với tôi – tác giả, nhân vật bà lão I-déc-ghin đứng bên ngoài câu chuyện về chàng Đan-kô do bà lão kế, hoàn toàn không can dự gì vào các sự việc. Vì thế, câu chuyện về chàng Đan-kô có hình thức trần thuật từ người kể chuyện ngôi thứ ba. Sự luân phiên giữa kể, tả, bình luận của người kê chuyện và người nghe chuyện tạo nên nét độc đáo của văn bản.
Trả lời:
* Tóm tắt:
Thuở xưa, có một đám người sinh sống ở một khu vực nọ, xung quanh có ba bề rừng rậm bao bọc, một bề là thảo nguyên. Rồi những bộ lạc khác từ đâu xuất hiện, xua đuổi họ vào tít trong rừng sâu, ở đó chỉ có đầm lầy và bóng tối ghê rợn. Mọi người cứ ở đó lo nghĩ, những ý nghĩ buồn rầu làm họ hoang mang và kiệt sức. Nỗi khiếp sợ dân nảy nở trong họ, vì thế họ đã định nộp mình cho kẻ thù, chấp nhận kiếp sống nô lệ. Đúng lúc đó Đan-kô xuất hiện. Anh là một chàng trai đẹp và can đảm. Anh dẫn dắt đoàn người đi xuyên qua rừng rậm, qua đầm lầy hôi thối. Đường đi vô cùng khó khăn, sức đoàn người suy kiệt. Họ bắt đầu oán trách, kết tội chết, muốn vây bắt và giết Đan-kô. Dù phẫn uất sôi sục nhưng lòng thương người, tình yêu đối với đoàn người rừng rực trong trái tim Đan-kô. Anh liền xé toang lồng ngực của mình, dứt trái tim cháy rực sáng, soi tỏ con đường, đưa đoàn người vượt qua rừng rậm âm u, đầm lầy hôi thối, đến thảo nguyên bao la và tự do. Đúng lúc nhìn thấy thảo nguyên, Đan-kô gục xuống và chết. Một người cẩn thận trong đoàn người dẫm lên trái tim rực cháy của Đan-kô. Trái tim toé ra một loạt tia sáng rồi tắt ngấm.
* Bối cảnh (không gian, thời gian) diễn ra các sự kiện:
- Không gian diễn ra sự kiện là rừng rậm và thảo nguyên. Rừng rậm là nơi cây cối lâu đời, rậm rạp, toàn bóng tối và đầm lầy thì bốc hơi hôi thối vây chặt lấy đoàn người. Bối cảnh thiên nhiên khắc nghiệt thử thách ý chí, phẩm chất của đoàn người. Trong thử thách này, đoàn người vốn gồm “những người vui vẻ khoẻ mạnh và dũng cảm”, nay bộc lộ dần sự mất can đảm và trở nên hèn yếu. Đối lập với họ là Đan-kô. Trong bối cảnh thiên nhiên đó, anh bộc lộ phẩm chất can trường, lòng yêu thương con người, tinh thần dám xả thân vì đoàn người.
- Thời gian diễn ra các sự kiện trong câu chuyện về chàng Đan-kô là “thuở xưa”, khoảng thời gian không xác định. Khoảng thời gian này tô đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại, bộc lộ trí tưởng tượng phi thường của tác giả và tính chất lãng mạn của truyện.
Trong thời gian “thuở xưa” đó, có “một hôm” dông bão gầm thét. Đây là thời khắc đặc biệt, thời điểm thiên nhiên thể hiện sức mạnh dữ dội, khủng khiếp của nó với đoàn người, thử thách phẩm chất ý chí và nghị lực của họ. Đây cũng là thời khắc người anh hùng toả sáng bằng hành động xé toang lồng ngực, giơ cao trái tim cháy sáng, dẫn đoàn người đi xuyên qua rừng rậm và đầm lầy, đến thảo nguyên và tự do.
Thiên nhiên thù nghịch với đoàn người nhưng lại cộng hưởng với bản lĩnh, sức mạnh của người anh hùng, tạo nền và gây phấn khích để phẩm giá người anh hùng toả sáng rực rỡ.
Trả lời:
Em rất tán thành quan điểm “Văn bản Trái tim Đan-kô chứa đựng thông điệp có ý nghĩa triết lí nhân sinh về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng”. Văn bản đã truyền tải những những triết lí:
- Triết lí nhân sinh thể hiện trực tiếp trong lời nói của Đan-kô với đoàn người nhằm khẳng định lẽ sống hành động, khích lệ con người hành động: “Nghỉ ngơi không thể hất bỏ được tảng đá trên con đường ta đi. Kẻ nào không mó tay vào việc thì chẳng làm nên công chuyện gì. Cứ lo nghĩ làm chỉ cho hai tâm tổn sức? Hãy đứng lên, chúng ta sẽ đi sâu vào rừng và xuyên qua rừng, bởi vì rừng cũng có chỗ kết thúc, mọi cái trên đời đều có chỗ kết thúc! Ta đi đi! Nào! Tiến bước! ...”
Trên hết, hành động cần được thúc đẩy từ những suy xét, ngẫm nghĩ kĩ càng Nhưng lo nghĩ mà không dẫn đến hành động hoặc không chịu hành động thì không thể giải quyết được vấn đề thực tiễn, không thể dẫn đến thành công trong thực tiễn. Lời nói của Đan-kô nêu cao vai trò, giá trị của hành động, thôi thúc ta phải vận động tích cực, tham gia các hoạt động thực tiễn nhằm thể hiện, phát triển bản thân, giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần tạo ra sản phẩm vật chất, tinh thần cụ thể, đóng góp cho sự phát triển giàu mạnh của cộng đồng.
- Triết lí nhân sinh thể hiện gián tiếp qua mối quan hệ giữa hình tượng Đan-kô và đoàn người. Đây là triết lí nhân sinh sâu sắc, thể hiện ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống vì lợi ích cộng đồng, vì lợi ích nhân loại.
Trong văn bản Trái tim Đan-kô, Đan-kô không phải là kẻ xa lạ, đột nhiên từ đâu đến mà vốn là một thành viên của đoàn người, xuất hiện đúng lúc đoàn người rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Đoàn người đòi hỏi Đan-kô dẫn dắt họ. Anh không từ nan mà sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Trong quá trình di chuyển, đoàn người dần mất đi sự can đảm, trở nên yếu hèn, tỏ thái độ bất công, thù địch, đòi giết người anh hùng. Đan-kô phẫn nộ sục sôi nhưng rồi anh thấu hiểu, yêu thương đoàn người. Anh sẵn sàng hi sinh thân mình để đưa đoàn người đến thảo nguyên bao la và tự do.
Bàn luận mở rộng:
- Mỗi cộng đồng được tạo nên nhờ sự liên kết, ràng buộc tự nguyện của các cả nhân với nhau. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng vừa mang giá trị cá nhân vừa phát triển những phẩm chất, tính cách phù hợp với hệ giá trị của cộng đồng. Mỗi cá nhân sẽ chỉ cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa đích thực khi được sống giữa cộng đồng, gắn bó với cộng đồng, thuộc về một cộng đồng.
- Trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển, các cộng đông thường gặp những tình thế khó khăn, thử thách. Mỗi khi ở vào tình thế đó, các cộng đồng đều đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hi sinh của các thành viên cho lợi ích chung của cộng đồng. Những người dũng cảm, cao thượng, dám xả thân dẫn dắt cộng đồng thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, vươn lên giành lấy cuộc sống tự do, hạnh phúc (như Đan-kô) sẽ luôn lo nghĩ cho mình, không dám hi sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cộng đông sẽ bị. Những người hèn nhát hoặc ích kỉ, chỉ biết cộng đồng khinh ghét, xa lánh, ruồng bỏ (như La-ra).
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.