TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 HAY NHẤT

293

Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) Ngữ văn 8 Kết nối tri thức gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)

Đề bài: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 HAY NHẤT (ảnh 2)

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 1

Nhà thơ Tú Xương có nhiều bài thơ trào phúng hay. Trong đó, Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm khá tiêu biểu. Với bài thơ, tác giả đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương năm 1897 tại Nam Định. Hai câu đề nói về nét mới của khoa thi:

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Trước đây, việc thi cử do triều đình tổ chức nhằm mục đích kén chọn nhân tài ra làm quan để giúp vua, giúp nước. Trong hoàn cảnh bấy giờ, nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa”. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Trước đây, ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở đây đã bị bãi bỏ. Nên các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

Tiếp đến, hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh đặc sắc mà cũng đầy khôi hài:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” - những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.

Ở hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm:

“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” - lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười.

Cuối cùng, hai câu thơ cuối bộc lộ một niềm cay đắng, xót xa cho cảnh ngộ đất nước:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” như một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì. Qua đó, tác giả bộc lộ sự tủi nhục, xót xa trước thực tại đau đớn của nước nhà.

Như vậy, bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước.

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 HAY NHẤT (ảnh 1)

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 2

Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích: Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lý.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.

Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn… hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội. Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.

Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.

Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.

Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự" của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.

Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 3

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của nhà thơ Tú Xương.

Bài thơ được sáng tác năm 1987, còn có tên gọi khác là “Vịnh khoa thi Hương”. Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu:

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Trong xã hội phong kiến, việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” - trường thi ở Hà Nội. Nhưng từ lúc thực dân Pháp nắm quyền, trường thi ở Hà Nội đã bị bỏ. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

Hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

“Sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên. Họ thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa”.

Hai câu luận tiếp tục tô đậm sự nhố nhăng của trường thi bằng việc khắc họa hình ảnh quân sự và mụ đầm:

“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Việc tiếp đón những kẻ cướp nước chẳng biết lúc nào lại trở nên trang trọng nhưng khôi hài như vậy. Đặc biệt hơn cả là việc tác giả miêu tả hình ảnh mụ đầm. Theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì trọng nam khinh nữ. Phụ nữ không được những nơi trang nghiêm như trường thi. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” khiến ta thêm nức cười đó mà cũng thật xót xa. Xã hội phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mức nào.

Hai câu thơ cuối là lời bộc tâm trạng của tác giả về cảnh ngộ đất nước lúc bấy giờ:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Tú Xương đã sử dụng câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 4

Nguyễn Khuyến là một cây bút trào phúng nổi bật trong làng văn học trung đại Việt Nam. Bút pháp trào phúng của ông nhẹ nhàng, kín đáo nhưng vô cùng sâu cay. Đọc tác phẩm Hội Tây, em mới thực sự cảm nhận được đỉnh cao trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyễn.

Hội tây là một tác phẩm thơ thất ngôn bát cú mẫu mực về cấu tứ và nội dung. Ở ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu đến người đọc một sự kiện tưng bừng gọi nôm na là hội Tây:

“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo”

“Hội Thăng Bình” là ngày hội vui mừng do các quan Tây tổ chức tại Thăng Bình. Trong thời gian làm Bố Chánh ở Quảng Nam, Nguyễn Khuyến đã có dịp trực tiếp quan sát các lễ hội này. Nhưng cũng có người lại cho rằng, hội Thăng Bình này là lễ hội người Pháp tại Hà Nội tổ chức để ăn mừng Cách mạng Pháp thành công tại mẫu quốc. Và họ tổ chức lễ hội cho dân đen ở xứ An Nam được chung vui, được hưởng “ké” niềm vui của mẫu quốc. Dù là theo nghĩa nào, thì lễ hội được nhắc đến ở câu thơ đầu cũng chẳng phải một lễ hội truyền thống của dân tộc ta, của người Việt ta tổ chức.

“Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”

Bầu không khí của lễ hội trở nên rạo rực với “cờ kéo” và “đèn treo” - hai món đồ trang trí đến từ Tây phương. Sự hiện diện của nó đã gián tiếp khẳng định đây chỉ là lễ hội của người Pháp mà thôi, chứ chẳng phải của chúng ta. Qua lời kể của Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên thật tươi vui và sống động. Dù là lễ hội Tây, nhưng các trò chơi xuất hiện vẫn mang đậm truyền thống văn hóa của nước ta, như hát chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột… Tuy nhiên, cách cách trò chơi được tả lại thì thật là khác lạ. Nhà thơ sử dụng rất nhiều các tính từ giàu sức gợi, sức tả cho người đọc mặc sức tưởng tượng về lễ hội. Mấy bà quan vốn sang trọng, quý phái thì lại được miêu tả với dáng vẻ tênh nghếch kém duyên. Phận nữ nhi lại tụ tập đi xem người ta cởi trần bơi lội, đã vậy lại còn là các mệnh phụ phu nhân quyền quý. Đối với xã hội phong kiến đương thời thì thật là thiếu đứng đắn. Trong sân hát chèo, nơi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, thì lại có mấy thằng bé phải lom khom nghe hát chèo. Sao chúng lại phải lom khom để nghe hát, dù sân chèo rộng đến vậy? Chắc bởi các quan Tây, các phú ông phú bà đã chiếm hết chỗ ngồi, còn chúng phải đứng hầu, rồi tranh thủ nghe hát nên mới phải lom khom. Đến trò chơi đánh đu quen thuộc vào các hội xuân cũng được xuất hiện trong lễ hội. Động tác di chuyển của người chơi được khắc họa bằng từ “cậy sức” làm cho trò chơi vốn mang đến không khí tươi vui, tràn ngập sức sống phút chốc lại trở nên thô thiển, kém duyên dáng của các chị. Còn các anh thì hớn hở trèo lên các cột bôi mỡ vì tiền đang treo trên ngọn cây. Tính từ “tham” được đẩy ngay lên đầu câu, đã nhấn mạnh động cơ, mục đích của người tham gia chơi hội. Tất cả tạo nên một bầu không khí nhốn nháo, lộn xộn.

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”

Lễ hội vui vẻ, nhộn nhịp đó được khen là “khéo vẽ trò”. Cụm từ đó khẳng định tính chất mua vui, giải trí của lễ hội theo chiều hướng tiêu cực. “Vẽ trò” là cụm từ mà dân gian thường nói khi nhắc đến một sự kiện được tổ chức rầm rộ, cầu kì nhưng chẳng có ý nghĩa, giá trị gì cả. Hội Tây được khắc họa trong bài thơ này cũng vậy. Người Tây tổ chức lễ hội để mua vui cho chính họ. Và kẻ được đem ra mua vui chính là những người dân An Nam vì tham tiền, ham vui mà mặc kệ danh dự, nhân phẩm, liều mình phấn đấu tham gia. Chúng gom hết những trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc từ từ hát chèo đến leo cột, rồi đánh đu. Những trò chơi đặc sắc của dân tộc ta, là niềm tự hào của nền văn hiến nghìn năm, nay bị đem ra làm trò mua vui cho những kẻ xâm lược. Ấy thế mà các nam thanh nữ tú vẫn nhiệt tình tham gia, phô bày dáng vẻ kệch cỡm, kém duyên để đem lại tiếng cười cho lũ thực dân Pháp. Vui sao? Càng vui bao nhiêu thì càng nhục bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ tăng tiến bao nhiêu - bấy nhiêu đã khiến người đọc cảm nhận được sự phẫn uất của nhà thơ khi chứng kiến đồng bào mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ ngoại xâm. Tinh thần tự tôn của dân tộc bị đạp xuống dưới những đồng tiền bẩn thỉu của lũ ngoại bang. Vậy mà họ lại không hề thấy nhục nhã chút nào, vẫn vui vẻ, vẫn hào hứng lắm. Dường như chẳng ai hay về cái thực tại ê chề đang diễn ra ở trước mắt mình.

Ngay từ nhan đề “Hội Tây”, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nhấn mạnh về chủ quyền của ngày hội. Ông phân biệt rành rọt đó là hội của người chứ chẳng phải hội của ta. Từ các vần thơ, hình ảnh tả thực, tác giả đã châm biếm sâu cay về cách tham gia hội người vô cùng hăng hái đến quên mất tự tôn, danh dự của người dân ta. Từ đó, ông vạch trần tấm màn che giả dối nhân danh quyền con người của lũ thực dân Pháp. Bởi khi chúng đem người dân An Nam ra làm trò mua vui, thì nghĩa là chúng chẳng hề xem họ là con người, chẳng hề đối xử bình đẳng với họ. Đó cũng là cái tát thẳng vào những con người đã tự biến mình thành trò vui. Để đánh thức lương tri, lòng tự tôn dân tộc trong chính họ. Đó chính là ngụ ý cao cả của nhà thơ thông qua những vần thơ châm biếm trong Hội Tây.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 5

Sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước ta gặp cơn sóng dữ của thời đại đến từ phương Tây, khiến cho thuần phong mĩ tục của một nước thuần phong kiến được xây dựng cả ngàn năm bị rung chuyển. Trần Tế Xương đã xuất sắc biến ngòi bút của mình thành thứ vũ khí sắc bén để bảo vệ chút nào đó nền văn hóa truyền thống dân tộc. Ông đã chọn cách biến bút pháp của mình thành bút pháp trào phúng, để châm biếm, lên án cái xã hội với cái văn hóa lai căng đương thời. Điều đó đã thể hiện rõ nét qua tác phẩm thơ nổi tiếng của ông “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

Câu thơ đầu tiên, Tế Xương khẳng định sự quý trọng, hiếm hoi của khoa thi - ước mơ của bao sĩ tử nước ta lúc bấy giờ:

“Nhà nước ba năm mở một khoa”

Ba năm một lần, khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước được mở ra cho các thanh niên tài tử muốn đem tri thức ra để giúp nước giúp đời có cơ hội thể hiện mình. Trong bề dày lịch sử gần một ngàn năm phong kiến, đây vẫn là con đường tiến thân lập nghiệp quen thuộc của những sĩ tử “bụng đầy chữ thánh Hiền”. Sự trang trọng, quy mô của sự kiện này là không phải bàn cãi. Thế nhưng, khoa thi mà nhà thơ miêu tả lại của năm Canh Dậu, lại có gì đó thật khác, thật kì lạ:

“Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Từ “lẫn” gợi sự lẫn lộn, thiếu rành rọt, rõ ràng, thiếu sự nghiêm túc, trang nghiêm. Tựa như người dân ta vẫn dùng từ lẫn cho mớ rau, mớ vải. Nay nhà thơ lại sử dụng cho các sĩ tử đến từ những nơi chuyên đào tạo nhân tài. Sĩ tử nơi này lẫn với sĩ tử nơi kia. Cách dùng này khiến các nhân tài nước Nam ta trở nên kém phần quan trọng, trở nên tầm thường như mớ ra, mớ vải ở ngoài chợ. Nhưng vì sao tác giả lại tả về các đồng môn bằng sắc thái đó? Điều này đã thể hiện rõ ở ngay hai câu thơ sau:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”

Tính từ “lôi thôi’ được đưa lên ngay đầu câu bằng thủ pháp đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh dáng vẻ thiếu nghiêm túc, đứng đắn của các vị sĩ tử. Đến với hội thi ba năm mới mở một lần, các hiền tài đến từ các vùng miền chuẩn bị cho bản thân một dáng vẻ lôi thôi thì thật đáng buồn và chê trách. Sự xuất hiện của những lọ nước khoác trên vai, khiến họ càng thêm ì ạch, di chuyển lạch bạch. Dáng vẻ của những bậc nam nhi lòng mang chí lớn, mà lại luộm thuộm, lôi thôi chẳng khác gì người dân buôn bán mưu sinh ngoài chợ. Cũng bởi vậy, mà nhà thơ lại dùng từ lẫn khi khắc họa trưởng thi năm Canh Dần.

Nổi bật hơn cả thí sinh, chính là những vị quan lớn, bộ mặt của triều đình, của chính quyền trong trường thi:

“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Quan trường - người đứng đầu khoa thi xuất hiện với âm thanh “ậm ọe”. Một lần nữa, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp đảo ngữ để thể hiện sự châm biếm sâu sắc với dáng vẻ của một vị quan lớn. Ậm ọe là âm thanh nạt nộ, hăm dọa. Một vị quan lớn, mà xuất hiện bằng cái âm thanh chua chát đi đằng trước, thật thiếu đi sự oai nghiêm cần có. Ông ta đến trường thi để trông thi - quản lí những sĩ tử bụng đầy kinh thư. Vậy mà lại phải hăm dọa, phải nạt nộ. Hình ảnh đó đã gián tiếp khẳng định sự lộn xộn trong tác phong của các sĩ tử. Rõ là người có học thức, mà hành động thì nhếch nhác, chẳng có chút gì nho nhã. Xứng với các sĩ tử đó, là một viên quan coi thi “to mồm gào rống” như đang giải tán đám đông ở chợ. Sự phối hợp nhịp nhàng của hai nhóm người đó “giúp” cho trưởng thi mất hẳn sự nghiêm trang, trịnh trọng cần có. Bối cảnh trưởng thi cũng nhở vậy mà trở thành một bức tranh lộn xộn, nhếch nhác đến không thể nhìn thẳng.

Sự châm biếm của nhà thơ chẳng hề dừng lại ở đó. Bởi ngay sau quan trường là sự xuất hiện của quan sứ và mụ đầm. Đây là hai nhân tố rất mới - đại diện cho hơi thở của văn hóa phương Tây đang xâm lấn nghiêm trọng. Họ xuất hiện một cách hiên ngang giữa trường thi - đất học linh thiêng của văn hóa phong kiến. Sự xuất hiện ấy thật kệch cỡm và nhố nhăng với lọng che rợp trời và vạt váy dài lê quét đất. Trường thi vốn là nơi linh thiêng, mang ý nghĩa văn hóa, chính trị quan trọng của cả một dân tộc vậy mà nay lại trở thành sân chơi cho những kẻ hợm hĩnh, kệch cỡm của nước ngoài. Họ mang theo thứ văn hóa lai căng đó vào làm cả cái trường thi vốn đã lộn xộn, nhếch nhác về hình thức, nay bỗng trở thêm càng lẫn lộn, nhố nhăng về ý nghĩa, bản chất.

Điều đó khiến một sĩ tử chân chính với lòng khát cầu giúp nước cứu dân như Tế Xương vô cùng đau lòng. Là một sĩ tử đi qua nhiều cuộc thi, từ thời các khoa thi vẫn vô cùng trang nghiêm, cho đến dáng vẻ kệch cỡm hiện nay, làm sao mà không đau lòng được. Có thể nói, chính ông đã nhận ra và cảm nhận sự thay đổi theo chiều hướng đi xuống đáy vực của nền thi cử nước nhà sâu sắc hơn bất kì ai. Cũng bởi vậy, mà nhờ thơ cay đắng thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!”

Đây là lời than thở đầy xót xa, tủi nhục, cay đắng và cũng vô cùng bất lực của chính nhà thơ. Nhân tài đất Bắc từng là những ông nghè, ông cống, những người có tài có chữ. Tuy có thể nghèo về vật chất nhưng luôn giàu chữ nghĩa, giàu lòng tự tôn, giàu tinh thần dân tộc. Ấy vậy mà giờ đây, ngay giữa Thăng Long ngàn năm văn hiến, ngay giữa trưởng thi - nơi hội thụ hiền tài cho đất nước lại trở thành nơi cho thứ văn hóa lai căng, kệch cỡm chiếm cứ. Từ phiếm chỉ “nào ai đó” đã hướng tới một nhóm đối tượng cụ thể trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là những nhân tài đất Bắc chân chính, còn giữ tấm lòng vì nước vì dân, còn biết xấu hổ trước cảnh nước nhà bị đô hộ, biết nhục nhã trước cảnh văn hóa dân tộc bị văn hóa phương Tây làm nhơ nhuốc. Động từ “ngoảnh cổ” được đưa lên đầu câu thơ, nhấn mạnh một cách dứt khoát của điều nên làm. Đó không chỉ là cái quay đầu của một bộ phận cơ thể, mà là sự nhìn về quá khứ, nhìn về lịch sử nghìn năm văn hiến huy hoàng của dân tộc. Để thấy được cái dáng vẻ kệch cỡm, nhếch nhác của hiện tại. Hành động ngoảnh cổ, là hành động chỉ xoay phần đầu, còn cơ thể thì giữ nguyên. Chi tiết đó cho thấy sự mắc kẹt ở hiện tại đau khổ, bẽ bàng của Tế Xương - một sĩ tử đương thời. Ông không cam tâm, ông không chấp nhận trở thành một trong những kẻ lôi thôi, nhục nhã ở ngoài đó. Chính vì vậy, Tế Xương đã khắc họa lại cảnh khoa thi năm Đinh Dậu với giọng điệu châm biếm sâu cay.

Ngôn ngữ trào phúng của Tế Xương không trữ tình như của Hồ Chí Minh, mà vô cùng sắc bén, góc cạnh. Ông đay nghiến những cái kệch cỡm, lai căng, nhếch nhác của hiện thực, để thể hiện trực tiếp thái độ của mình. Không chỉ trào phúng người, Tế Xương còn tự trào chính mình. Trào một sĩ tử chẳng thể làm gì giúp ích cho đời, chẳng thể nào xoay chuyển càn không, khôi phục cảnh huy hoàng trong quá khứ. Hiện thực nhố nhăng, nhốn nháo của trường thi mà Tế Xương tham gia đã toát lên những cay đắng, tủi nhục chất chứa như núi trong lòng nhà thơ. Đó chính là cách mà Trần Tế Xương thể hiện nỗi lòng và hồn thơ trào phúng của mình vào “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 6

Lai Tân là một trong những bài thơ thuộc tập thơ Nhật kí trong tù - tập thơ vô cùng nổi tiếng của Hồ Chí Minh.

Lai Tân là nơi mà Bác đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc Quảng Tây (Trung Quốc). Trong hoàn cảnh tù đày, Hồ Chí Minh đã chứng kiến biết bao sự thật về xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.

Tác giả đã khắc họa hiện thực xã hội Lai Tân lúc bấy giờ:

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,”

( Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc)

Bác không nêu tên gọi cụ thể mà chỉ điểm danh từng chức vụ gắn với trọng trách xã hội trong bộ máy công quyền, họ phải làm gương cho dân chúng trong việc thực thi pháp luật. Cách điểm danh và kể việc rành mạch tưởng như ai lo phận nấy, theo đuổi một cách mẫn cán. Ba nhân vật xuất hiện trong bài thơ là ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng. Những tưởng những bậc quan phụ mẫu của dân phải chăm lo công việc quốc gia. Nhưng không, ban trưởng nhà giam thì ngày ngày đánh bạc, cảnh trường thì tìm cách bóc lột các tù nhân, còn huyện trưởng thì chìm đắm trong thuốc phiện. Đó là những hành vi sai trái, cho thấy một bộ mặt xã hội vô cùng thối nát, xấu xa.

Ở đây, Bác đã sử dụng phép liệt kê tăng tiến, từ chức quan nhỏ cho đến lớn, để khẳng định rằng bộ máy chính quyền thối nát từ trên xuống dưới, chức càng cao càng hủ bại. Phép điệp cho thấy công việc của bọn họ khá nhịp nhàng, rành rạch. Nhịp sống vẫn diễn ra bình thường, đều đều. Cái tưởng như bất thường được lặp đi lặp lại hóa ra bình thường. Cái thối nát đến cực đại trở thành sự thường, thành nề nếp quy củ hẳn hoi, họ rất khéo léo che đậy nên cuộc sống vẫn yên ổn. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiều sâu trí tuệ là ở đó.

Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được kể. Theo mạch tự sự thì câu thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác giả kết luận ngược

“Lai Tân y cựu thái bình thiên”

(Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình)

Bộ máy chính quyền thối nát như vậy, mà Lai Tân vẫn “thái bình”. Lời nhận xét thật nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy châm biếm, mỉa mai. Cái xã hội như vậy mà sao nhìn bên ngoài lại thật thái bình. Thế mới thấy rằng, bài thơ mang tính trào phúng, gợi ra tiếng cười mỉa mai, chua chát.

Bài thơ Lai Tân mang một tiếng cười trào phúng độc đáo, thú vị. Hồ Chí Minh đã khắc họa vô cùng chân thực, sinh động hiện thực bộ máy chính quyền của Trung Quốc lúc bấy giờ.

Phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - mẫu 7

Tú Xương là một nhà thơ khá nổi tiếng với mảng đề tài trào phúng. Trong đó, bài thơ Thương vợ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.

Trong bài thơ, Tú Xương đã đứng ở khía cạnh của một người chồng - một người đàn ông để bày tỏ niềm cảm thông với những người phụ nữ. Người vợ trong thơ Tú Xương không ai khác chính là một nhân vật có thật ở ngoài đời - bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Bốn câu thơ đầu đã giới thiệu về công việc của bà Tú - buôn bán vốn là công việc vô cùng vất vả, không lúc nào được nghỉ ngơi. Nhưng bà vẫn tần tảo sớm hôm để “nuôi đủ năm con với một chồng” - việc tách riêng “một chồng” dường như thể hiện được một hoàn cảnh thật éo le. Người chồng đáng ra phải là người chèo chống để nuôi cả gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải một mình mưu sinh nuôi cả chồng con.

Người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng những ràng buộc phong kiến nên không thể kêu ca, than thở mà chỉ biết im lặng chấp nhận, chịu đựng qua từng ngày và coi đó là số phận của bản thân:

“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa chẳng quản công”

Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Vợ chồng là duyên nợ, vậy nên cũng “âu đành phận”, có nghĩa là đành chấp nhận. Dù khó khăn, nhọc nhằn nhưng vẫn chịu đựng, chấp nhận hy sinh.

Hai câu thơ cuối cùng giống như là một lời tự vấn của chính nhà thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”

Tiếng “cha mẹ” vang lên sao mà chua xót, giống như một lời tự trách bản thân vô dụng để rồi khiến vợ phải chịu đựng khổ cực.

Như vậy, với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc động, chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hy sinh qua bài thơ Thương vợ.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 8 (Kết nối tri thức) hay khác:

TOP 10 mẫu Trình bày suy nghĩ về chi tiết phó may may áo ngược hoa (2024) HAY NHẤT

TOP 10 mẫu Suy nghĩ về một tính cách đáng phê phán được nói đến trong những truyện cười Lợn cưới, áo mới; Treo biển; Nói dóc gặp nhau (2024) HAY NHẤT

TOP 10 mẫu Nghị luận về một vấn đề đời sống (một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại) (2024) HAY NHẤT

TOP 10 mẫu Suy nghĩ về ý kiến: Cười là một hình thức chế ngự cái xấu (2024) HAY NHẤT

TOP 10 mẫu Phân tích cảnh và tình trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà (2024) HAY NHẤT

Đánh giá

0

0 đánh giá