Thị Mầu lên chùa: tác giả, tác phẩm, tóm tắt, bố cục, dàn ý - Cánh diều Ngữ văn 10

567

Toptailieu.vn xin giới thiệu Tóm tắt kiến thức trọng tâm về tác giả tác phẩm Thị Mầu lên chùa Ngữ văn 10 (Cánh diều) với đầy đủ các phần quan trọng như: tác giả tác phẩm, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... Sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức Ngữ văn, từ đó học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

Tác giả tác phẩm Thị Mầu lên chùa – Ngữ văn 10 (Cánh diều)

I. Tác phẩm Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)

1. Thể loại: Chèo

2. Xuất xứĐoạn trích Thị Mầu lên chùa được trích từ vở chèo Quan Âm Thị Kính

3. Phương thức biểu đạt: Tự sự + Biểu cảm

4. Tóm tắt tác phẩm Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)Đoạn trích thuật lại sự việc Thị Mầu lên chùa để tán tình, trêu đùa với Tiểu Kính với thái độ trơ trẽn điệu bộ lẳng lơ. Tuy nhiên Tiểu Kính vẫn liêm chính, không quan tâm và giữ khoảng cách với Thị Mầu.

Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)- Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

5. Giá trị nội dung tác phẩm Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)

- Thể hiện cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa

- Đồng thời khẳng định phẩm chất liêm chính của Tiểu Kính

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)

- Ngôn ngữ, hành động, lời thoại thể hiện đặc sắc trong vở chèo

- Những câu hát tập trung thể hiện tính cách nhân vật

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)

1. Nhân vật Tiểu Kính

- Ngôn ngữ, hành động của Tiểu Kính: Giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”

=> Nhân vật Tiểu Kính đẹp trai ngời ngời mà lòng dạ thẳng băng, trơ trơ như gỗ đá, người tĩnh tọa đều đều, liên hồi gõ mõ, niệm Nam mô A di đà Phật, vẻ mặt càng cố tỏ ra bất động, lạnh lùng giỏi nhẫn nhịn, cam chịu.

2. Nhân vật Thị Mầu

- Hành động của Thị Mầu: xông ra nắm tay chú tiểu

- Ngôn ngữ thể hiện Thị Mầu: của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”

+ “Cấm gía” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba

Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

+ “Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:

“Người đâu ở chùa này

Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

Ấy mấy thầy tiểu ơi”

“Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua              

- Thị Mầu không quan tâm đến việc vào lễ Phật.

- Hành động, ngôn ngữ bày tỏ tình cảm của Thị Mầu được thể hiện qua câu:

“Người đâu ở chùa này

Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

Ấy mấy thầy tiểu ơi”

“Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua”.

=> Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu.

“Thầy như táo rụng sân đình

Em như gái rở, đi rình của chua”

+ Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát.

+ Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng.

=> Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến.

=> Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem.

III. Đọc Vở chèo Thị Màu lên chùa

THỊ MẦU: Này chị em ơi
Nay mười tư mai đã là rằm
Ai muốn ăn oản thì năng lên chùa.
Chị em lên chùa từ bao giờ nhỉ?
TIẾNG ĐẾ: Mười tư, rằm!
THỊ MẦU: Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá! tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng!.
(xưng danh) Tôi Thị Mẫu con gái phú ông
Thầy mẹ tôi tôn kính một lòng
Tiền cùng gạo lên chùa tiến cúng.
Bạch nhà sư trong ấy, cho chú tiểu ra nhận lễ, cho tôi còn về nào.
KÍNH TÂM: A di đà Phật! Chào cô lên chùa!
THỊ MẦU: A di đà Phật!
KÍNH TÂM: A di đà Phật 
Tam Bảo Như Lai 
Của ai phúc nấy 
A di đà Phật! Cô cho biết tên để tôi vào lòng sớ
THỊ MẦU: Tên em ấy à?
Là Thị Mầu, con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!
KÍNH TÂM: A di đà Phật!
Khấn nguyện thập phương
Kính trình Tam Bảo!
Lòng người có đạo
Đêm của cúng dường?
Một nén cũng biên
Một đồng cũng kể
Tuy vân bạc lễ
Đãn kiến thành tâm?
Phật tổ giám lâm
Quý thần soi xét!
A di đà Phật! Tôi đã đèn nhang xong, mời cô vào lễ Phật.
THỊ MẦU: Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ? 
TIẾNG ĐẾ: Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi! 
THỊ MẪU: Đẹp thì người ta khen chứ sao 
Này chị em oi, 
Người đâu đến ở chùa này
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật!
THỊ MẪU: Ấy mấy thầy tiểu ơi
TIẾNG ĐẾ: Mẫu ơi mất bò rồi!
THỊ MẪU: Nhà tao còn ối trâu!
Này thầy tiểu ơi!
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở!, đi rình của chua.
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật.
TIẾNG ĐẾ: Mẫu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?
THỊ MẪU: Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhấtđấy!
TIẾNG ĐẾ: Dơ lắm! Mầu ơi
THỊ MẪU: Kệ tao! Này thầy tiểu ơi, ăn với em miếng trầu đã nào, rồi để mõ đấy em đánh chol
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật!
THỊ MẪU: Ấy mấy thầy tiểu ơi!
(hát ghẹo tiểu)
Song đứng trước cửa chùa 
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thì lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Mẫu đơn giống cảnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Muốn cho có thiếp có chàng.
Ba sáu mười tám, cơm hàng có canh
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!
(Nói) Bỏ mõ em đánh chỗ nào! Người đâu thấy gái mà lại chạy hết
(Kính Tâm bỏ chạy)
Chẳng trăm năm cũng một ngày
Gương kia còn đó, tấm áo này còn hơi
Chị em ơi, tôi lấy hơi thầy tiêu xem, chị em nhé!
À, kinh mõ của chú tiểu còn bỏ đó, thế nào cũng phải ra đây.
Tôi tìm chỗ nấp, thế nào tôi cũng nắm tận tay chú tiểu thì tôi mới nghe!
(nấp)
KÍNH TÂM: (ra, nói) Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là…
THỊ MẪU: (xông ra, nắm tay Kính Tâm) Đây rồi nhé!
KÍNH TÂM: Mô Phật!
THỊ MẪU: Bó mô Phật đi!
KÍNH TÂM: Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người quở chết!
THỊ MẪU: Đưa chối đây em quét rồi em nói chuyện này cho mà nghel
Này chú tiểu oil
Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cằm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!
Nào, ăn với em miếng giấu! đã nào! (Kính Tâm bỏ chạy)
Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi!
Ới này thầy tiểu ơi!
Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu? tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri Âm chẳng tỏ tri ân
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!
TIẾNG ĐẾ: Sao lẳng lơ thế, cô Mầu ơi!
THỊ MẦU: Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thòi

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá