Tác giả tác phẩm Âm mưu và tình yêu– Ngữ văn 11 (Chân trời sáng tạo)

299

Toptailieu.vn xin giới thiệu Tóm tắt kiến thức trọng tâm về Tác giả tác phẩm Âm mưu và tình yêu– Ngữ văn 11 (Chân trời sáng tạo) với đầy đủ các phần quan trọng như: tác giả tác phẩm, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... Sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức Ngữ văn, từ đó học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

Tác giả tác phẩm Âm mưu và tình yêu– Ngữ văn 11 (Chân trời sáng tạo)

I. Tác giả Si – le

- Si – le (Sile/ Schiller) tên đầy đủ là Johann Christoph Friedrich Schiller (1759–1805).

- Ông là một nhà thơ, nhà viết bi kịch và triết gia người Đức. Ông được xem như là nhà viết bi kịch có tầm quan trọng nhất và cùng với Goethe, Wieland và Herder là người đại diện quan trọng nhất của phong trào Văn học cổ điển Weimar.

- Ông được mệnh danh là "Shakespeare của văn học Đức". Các khúc ca ballad của ông thuộc vào trong số những bài thơ Đức được yêu thích nhất.

- Phong cách sáng tác:

+ Schiller là người đã đem kịch trường để nâng cao trình độ dân trí, óc thẩm mỹ và nhân sinh quan của dân chúng, cho người Đức có một tinh thần quốc gia mạnh mẽ. Quan niệm của ông là: sự "vĩ đại" của nước Đức không nằm trong "quyền lực chính trị", mà chính là ở "sức mạnh văn hóa".

+ Văn của ông được giới bình dân yêu thích hơn là giới trí thức, bởi ông rất mạnh tay khi đả kích các thói rởm đời, tính chất xấu xa của cả giới quý tộc lẫn trí thức. Ông truyền bá những tư tưởng tự do, dân quyền, khoan dung, khoan dung tôn giáo, khoan dung chính trị. Nhờ vậy, thơ, kịch của ông được giới bình dân thuộc nhiều và truyền tụng đi khắp.

- Tác phẩm tiêu biểu: Lũ cướp, Âm mưu của Fiesco ở Genua (1783), Trinh nữ ở thành phố Orléan, Người thợ lặn (1797) …

II. Tìm hiểu tác phẩm Âm mưu và tình yêu

1. Thể loại: Bi kịch

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- In trong Âm mưu và tình yêu, bản dịch của Nguyễn Đình Thi, NXB Sân khấu, 2006, tr50-55; 137-141; riêng phần văn bản thuộc Hồi II – Cảnh 2 sử dụng văn bản dùng trong Văn học 11, tập hai, Ban Khoa học Xã hội, Phùng Văn Tửu, Đặng Anh Đào, Phạm Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến, Lưu Đức Trung, Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, 1998, tr23-29)

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản Âm mưu và tình yêu có phương thức biểu đạt là tự sự & biểu cảm.   

4. Bố cục bài Âm mưu và tình yêu

Gồm 2 phần:

+ Phần 1: Hồi I – Sự lo lắng của vợ chồng nhạc sĩ Min-le và tâm trạng của Luy-dơ.

+ Phần 2: Hồi II – Âm mưu của tể tướng và sự đau khổ của Phéc-đi-năng.

5. Tóm tắt Âm mưu và tình yêu

Vở kịch có 5 hồi bằng văn xuôi. Luizơ là con gái nhạc công Mile yêu thiếu tá Fecđinăng là con trai Tể tướng Fôn Vante. Phu nhân Minfo là tình nhân của Công tước nay đã bị Công tước chán bỏ. Tể tướng bắt ép thiếu tá phải kết duyên cùng phu nhân Minfo để lấy lòng Công tước. Fecđinăng gặp Minfo nói cho phu nhân biết là chàng đã có người yêu là nang Luizơ, cô vô cùng xấu hổ. Tể tướng làm nhục Luizơ, gọi nàng là con đĩ, mạt sát ông bà Minle. Tể tướng và thiếu tá đấu khẩu dữ dội. Thiếu tá kiếm tuốt trần, đâm bị thương một số nhân viên pháp đình. Đổng lí Vuôm hiến kế bắt giam ông bà Mile. Muốn cứu bố mẹ, Luizơ phải viết một bức thư tình gửi cho Thị vệ trưởng Fôn Canbơ do chúng đọc. Chúng đưa bức thư tình ấy cho Fecđinăng. Fecđinăng thách Thị vệ trưởng đấu súng làm cho hắn vô cùng sợ hãi. Đau khổ... Fecđinăng pha thuốc độc bắt người yêu cùng mình uống. Uống xong thuốc độc, Luizơ mới nói ra sự thật đau lòng! Cùng lúc ấy, Tể tướng phải nộp mình cho nhân viên pháp đình.

6. Giá trị nội dung

-  Âm mưu và tình yêu là tác phẩm tố cáo chế dộ phong kiến mãnh liệt nhất của Sile. Xung đột của vở kịch được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn giữa tình yêu trong trắng, thắm thiết của một đôi trai tài, gái sắc và những âm mưu xấu xa, đen tối của triều đình phong kiến cùng bọn quan lại.

7. Giá trị nghệ thuật

-   Tác giả sử dụng ngôn ngữ với mức độ gay gắt, quyết chiến càng tăng dần tạo sự căng thẳng và mâu thuẫn dâng đến đỉnh cao.

- Nghệ thuật tạo dựng kịch tính được phát huy cao độ qua các bước xây dựng tình huống kịch.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Âm mưu và tình yêu

1. Mâu thuẫn – xung đột kịch

Xung đột cha – con, bắt nguồn từ bắt nguồn từ một mâu thuẫn sâu xa, lớn lao, toàn diện hơn được khái quát bằng hai từ âm mưu và tình yêu:

Xung đột giữa người cha - viên tể tướng, điển hình của tầng lớp quý tộc phong kiến già cỗi, xấu xa và tàn bạo, luôn có ý thức cao về, địa vị và quyền lực > < người con - Fecđinăng, điển hình cho tầng lớp thanh niên quý tộc và tư sản tiến bộ, giàu lí tưởng, nhiệt tình, trung thực.

= > Đây là là xung đột giữa cái ác và cái thiện, và cao hơn là xung đột giữa ý thức hệ phong kiến lỗi thời, trì trệ với ý thức hệ của các lực lượng tiên tiến trong thế kỉ ánh sáng.

- Diễn biến của xung đột:

+ Cao trào: Fecđinăng đòi giết Luizơ, nhưng tể tướng không sợ mà vẫn thách thức: “Đâm đi, nếu mũi kiếm của mày còn đủ nhọn”

+ Đột biến: Fecđinăng tuyên bố phơi bày bí mật của tể tướng.

+ Mở nút: Tể tướng thôi không hạ lệnh bắt Luizơ: “Buông con bé ấy ra”. Năm bước phát triển của một vở kịch dường như được tập trung trong một đoạn trích ngắn ngủi! Nghệ thuật tạo dựng kịch tính (một trong những đặc điểm thể hiện tài năng xuất sắc của Sile), được phát huy cao độ qua các bước xây dựng tình huống. Đầu tiên là cách bố trí thế và lực của hai bên. Tình huống căng thẳng thể hiện trong số lượng nhân vật cùng một lúc xuất hiện rất đông, dàn thành hai lực lượng đối địch không cân xứng. Nếu bên Âm mưu là cha, là quận công, là các nhân viên pháp đình, là số đông, nhiều tay kiếm, thì bên tình yêu là con, là dân thường và một tay kiếm của Fecđinăng. Sự chênh lệch về thế lực hai phe càng làm tăng sự đối lập gay gắt.

+ Đỉnh điểm của xung đột: Sự căng thẳng của xung đột còn được tạo nên bởi những pha (kết hợp các hành động) khác nhau, tăng dần mức độ quyết chiến. Lúc đầu, Fecđinăng (chắc vì còn do dự trong việc đối đầu với cha) đã chỉ dùng đốc kiếm ngăn cản, tiếp đến, vì mức độ dữ dội của xung đột tăng, chàng quay mũi kiếm đâm bị thương mấy nhân viên pháp đình. Không thể ngăn cản được mức độc tàn bạo và quyết liệt của tể tướng chìa mũi kiếm vào Luizơ, hòng mong cái chết của nàng khiến tể tướng run sợ.

2. Ngôn ngữ và thái độ của nhân vật trong xung đột kịch

- Ngôn ngữ nhân vật cũng được đẩy tăng dần mức độ căng thẳng

+ Đầu tiên, tể tướng không nói trực tiếp với Fecđinăng mà chỉ ra lệnh ngày càng sôi sục, giận dữ đối với bọn nhân viên pháp đình: “Chúng bây giúp tao một tay. Bắt lấy nó... tao phải nhắc lại lệnh của tao hay sao?... Quân tôi đòi hèn mạt”.

+  Còn Fecđinăng, đối với bọn quan quân rất kiên quyết: “Chớ có đứa nào tìm cách động vào nàng... Thề độc có tử thần cùng tất cả mọi loài ma quỷ, lùi lại!”, nhưng đối với cha lúc đầu còn nhún nhường, van xin... “Xin cha hãy nghĩ đến bạn thân cha, cha ơi, đừng dồn ép con thêm nữa”. Trọng lượng lời van xin tăng dần: “Đừng dồn ép con đến chỗ cùng đường cha ơi!”.

+ Đến lúc tể tướng đối thoại trực tiếp với Fecđinăng: “Tao muốn xem liệu chính tao có phải nếm lưỡi kiếm này không?” thì Fecđinăng cay đắng thốt lên: “Thượng đế đã lầm, đã lẫn, chọn tên đao phủ đê hèn lên làm tể tướng mạt hạng”. Lời nói đối chọi nhau gay gắt: "Lôi nói đi/ Cha vẫn cương quyết ư? Lôi nó đi/ cha vẫn cương quyết ư? Lôi nó đi/ Thà tôi đâm lưỡi kiếm này qua xác vợ tôi còn hơn".

= > Ngôn ngữ nhân vật được đẩy tăng dần mức độ căng thẳng, dẫn đến mâu thuẫn dâng đến đỉnh cao với những lời lặp đi lặp lại, với mức độ gay gắt, quyết chiến càng tăng dần.

- Thái độ của hai nhân vật chính cũng tăng dần mức độ gay gắt:

+ Tể tướng từ đe dọa tới sôi sục giận dữ, cường độ, khiêu khích rồi như bị sét đánh.

+ Fecđinăng từ giận dữ đến van xin, cương quyết rồi ghê gớm.

= > Các pha hành động, ngôn ngữ và thái độ nhân vật được dẫn dắt khéo léo, hợp lôgic, dồn dập, làm xung đột kịch càng ngày càng gay gắt, thúc đẩy hành động và sự kiện, làm cho nhân vật bắt buộc lộ rõ nét tính cách. 

Xem thêm các bài Tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, ngắn gọn khác:

Tác giả - tác phẩm: Sống, hay không sống – đó là vấn đề

Tác giả - tác phẩm: Chí khí anh hùng

Tác giả tác phẩm: Chiều sương

Tác giả tác phẩm: Muối của rừng

Tác giả tác phẩm: Tảo phát bạch đế thành

Đánh giá

0

0 đánh giá