Top 50 bài Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu 50 bài văn Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 7 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm

Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm

1. Mở bài:

- Trong ca dao, bên cạnh những câu đề cao và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động còn có những câu phê phán, đả kích thói hư tật xấu với mục đích làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn.

- Dưới đây là một số câu lưu truyền rộng rãi trong dân gian.

2. Thân bài:

+ Câu thứ nhất: Cái cò lặn lội bờ ao... đêm thừa trống canh.

- Là lời giới thiệu đầy mỉa mai, châm biếm về hạng người lười biếng, chỉ ham chơi bời, hưởng thụ.

- Hình ảnh: Cái cò lặn lội bờ ao là ẩn dụ tượng trưng, chỉ người nông dân lam lũ, nghèo khổ. Cái cò đứng ra giới thiệu về người chú của mình (chú tôi) với cô yếm đào (chỉ người con gái trẻ trung xinh đẹp).

- Câu hỏi: Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? vừa có ý mai mối, vừa có ý bỡn cợt.

- Tiếp theo là những lời “khoe tốt, khoe hay” về người chú: hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Hay là từ dân gian, có nghĩa là tài giỏi, trong câu này lại có nghĩa là ưa thích nghiện ngập. Người chú luôn ao ước, nhưng: Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. (Ước ngày mưa để khỏi phải đi làm, ước đêm dài để ngủ cho đẫy mắt.)

- Chân dung người chú của cô đã được vẽ lên đầy đủ, sinh động. Đó là một kẻ siêng ăn, nhác làm rất đáng bị mọi người cười chê.

+ Câu thứ hai: Số cô chẳng giàu thì nghèo... Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

- Nhại lời các thầy bói chuyên lừa đảo, bịp bợm để kiếm tiền của những người nhẹ dạ, cả tin.

- Điệp từ Số cô ... Số cô lặp đi lặp lại ở đầu câu, đặc tả cách nói trịnh trọng kiểu “thánh phán”, nhưng liền sau đó lại là lời đoán tầm phào, nước đôi rất buồn cười: chẳng giàu thì nghèo..., mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông... sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai...

- Nghệ thuật dùng gậy ông đập lưng ông, nghệ thuật gây cười làm cho ý nghĩa đả kích thêm sâu cay, thấm thía.

+ Câu thứ ba: Con cò chết rũ trên cây... vác mõ đi rao.

- Vẽ lên cảnh tượng một đám ma dưới thời phong kiến, được biến thành dịp để nhiều kẻ vô liêm sỉ kiếm ăn.

- Các con vật trong bài ca đều là ẩn dụ tượng trưng, tiêu biểu cho những hạng người khác nhau trong xã hội.

- Bài ca mượn chuyện loài vật để nói chuyện loài người (ngụ ngôn). Hình ảnh tương phản (đám ma mà như đám hội, ăn uống lu bù, rượu chè thả sức...) phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Bọn quan lại, chức dịch có chút quyền hành ở nông thôn không bỏ qua bất cứ dịp nào để ăn chơi, vơ vét, kể cả cái chết của người nghèo.

+ Câu thứ tư: Cậu cai nón dấu lông gà... quần dài đi thuê.

- Đây là “chân dung” rất hài hước, buồn cười về đám tay sai trong chính quyền phong kiến thường vênh váo, ra oai với dân đen nhưng thực chất bọn chúng chẳng ra gì.

- Cách gọi: Cậu cai có vẻ trang trọng nhưng lại hàm ý mỉa mai. Nón dấu lông gà: nón lá sơn đỏ, chóp đính chùm lông gà, lính lệ thường đội. Ngón tay đeo nhẫn: hàm ý mỉa mai loại tay sai mạt hạng cũng học đòi bắt chước kẻ giàu sang khoe của, đàn ông mà đỏm dáng như đàn bà.

- Thái độ mỉa mai của dân chúng thể hiện qua cách tả ngắn gọn gần như định nghĩa. Như vậy là chỉ cần có nón dấu lông gà và ngón tay đeo nhẫn là được mọi người sợ sệt, kính nể, gọi là cậu cai (!)

- Hình thức thì như vậy, thực chất thì ra sao? Giọng điệu mỉa mai, châm biếm bộc lộ rất rõ thái độ coi thường của dân chúng đối với loại người này: Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. Tiếng cười trào lộng hả hê bật ra từ những chi tiết bất ngờ này.

3. Kết bài:

- Chùm ca dao trên phản ánh rất rõ quan điểm của nhân dân ta trong việc nhận xét, đánh giá con người.

- Cái xấu, cái dở được đem ra châm biếm, cười cợt, hoặc phê phán, đả kích với mục đích làm cho con người và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Video Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm

Video Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm - Mẫu 1

Trong ca dao – dân ca, ngoài những câu hát yêu thương, tình nghĩa, những câu hát than thân… còn nhiều câu hát mang nội dung hài hước, châm biếm nhằm phơi bày các hiện tượng ngược đời, phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng ngược đời, những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Dưới đây là những bài được phổ biến rộng rãi trong dân gian:

Cái có lặn lội bờ ao,

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

Chú tôi hay tửu hay tăm,

Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

Ngày thì ước những ngày mưa,

Đêm thì ước những đem thừa trống canh.

2.

Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.

Số cô có vợ có chồng,

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

3.

Con cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.

4.

Cậu cai nón dấu lông gàm

Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

Ba năm được một chuyến sai,

Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.

Những câu hát châm biếm phê phán các thói hư tật xấu qua một số hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và qua lối nói trào lộng gây cười.

Bài thứ nhất là lời giới thiệu, quảng cáo về nhân vật chú tôi. Chân dung của người chú là bức biếm họa được vẽ toàn bằng những nét giễu cợt, mỉa mai.

Hai câu mở đầu: Cái cò lặn lội bờ ao, Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng làm nhiệm vụ bắt vần và chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật.

Cô yếm đào là hình ảnh tương phản với hình ảnh của nhân vật chú tôi. Chiếc yếm đào tượng trưng cho những cô gái nông thôn trẻ, đẹp. Xứng đáng lấy cô yếm đào phải là chàng trai chăm chỉ, giỏi giang chứ không thể là người có nhiều thói hư tật xấu.

Cái cò giới thiệu về chú của mình với cái giọng cố làm ra vẻ phô trương, trịnh trọng: Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ý nghĩa phê phán, chỉ trích nằm cả ở từ hay. Theo cách hiểu dân gian thì hay có nghĩa là tài giỏi, nhưng trong văn cảnh này thì nó có nghĩa ngược lại. Tưởng hay lam hay làm, ai dè lại hay rượu hay chè đến mức nghiện ngập, bê tha. Ý mỉa mai của từ hay còn hàm chứa ở tầng nghĩa sâu hơn nữa. Tuổi thanh niên sức dài vai rộng mà không lo chí thú làm ăn, lại chấp nhận sống đời tầm gửi thì quả là chẳng đáng mặt làm trai. Người xưa có câu: Làm trai cho đáng nên trai, xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên… để khẳng định khí phách nam nhi. Bên cạnh đó cũng có câu: Đời người ngắn một gang tay, Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang với nội dung phê phán những kẻ siêng ăn nhác làm. Nhân vật chú tôi trong bài ca dao trên là loại người như thế.

Câu ca dao đã cụ thể hóa sự lười biếng của nhân vật chú tôi thành những điều ước trái lẽ tự nhiên: Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh để được tha hồ ngủ. Vậy là ngoài tật nghiện rượu, nghiện chè, chú tôi lại còn thêm nghiện … ngủ (!) Rõ là con người lắm thói hư tật xấu, rất đáng chê cười.

Thông thường, để tác thành việc nhân duyên cho ai, người đứng ra mai mối phải nói tốt, nói đẹp cho người đó. Nhưng ở bài ca dao này thì ngược lại. Bài ca dùng ngôn ngữ hài hước, châm biếm để giới thiệu nhân vật chú tôi – tiêu biểu cho hạng người bất tài vô dụng. Liệu có cô yếm đào nào đủ can đảm để trao thân gởi phận cho những “anh chồng” như thế?!

Bài ca dao thứ hai nhai lại lời của ông thầy bói nói với người xem bói. Nó chỉ “ghi âm” một cách khách quan chứ không đưa ra lời bình luận, đánh giá nào. Đây là nghệ thuật dùng “gậy ông đập lưng ông”, có tác dụng gây cười và châm biếm rất thâm thúy.

Chúng ta thử nghe xem ông thầy bói giỏi giang kia đã phán những gì? Ông ta phán toàn những chuyện hệ trọng mà người đi xem bói (là nữ) rất quan tâm: giàu – nghèo, cha – mẹ, chồng – con. Chuyện nào thầy cũng nói vanh vách và hết sức cụ thể. Chỉ buồn cười là thầy nói theo kiểu nước đôi (!). Thầy khẳng định chắc như đinh đóng cột những sự việc hiển nhiên mà người trần mắt thịt nào cũng thấy, cũng biết, chẳng cần đến thần thánh phán bảo qua miệng lưỡi trơn tru, dẻo quẹo của thầy.

Dân gian quan niệm rằng con người ta có số. Mỗi người một số phận khác nhau, có kẻ giàu, người nghèo, có kẻ sang, người hèn. Thầy bói phán: Số cô không giàu thì nghèo, có nghĩa là bất luận thế nào thì lời thầy cũng đều đúng cả (!) Nói về ba ngày Tết, tục ngữ có câu: Đói quanh năm, no ba ngày Tết. Dù giàu dù nghèo thì mỗi nhà cũng cố mà lo cho được miếng thịt, đĩa xôi để cúng tổ tiên, ông bà, đó là lẽ đương nhiên. Nhà cô Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà, chắc chắn là thế, thầy chẳng có nói sai đâu (?!)

Tính chất trào lộng, châm biếm của bài ca dao được đẩy lên tới đỉnh điểm ở những lời thầy phán về phụ mẫu: Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông và về nhân duyên: Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. Điệp từ Số cô được đặt ở đầu mỗi câu và lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người đọc hình dung lão thầy bói cố làm ra vẻ trịnh trọng, thiêng liêng nhưng thực chất là thủ đoạn lừa bịp để moi tiền của những người nhẹ dạ,c ả tin. Tiếng cười đả kích, phê phán bật lên từ đó. Ca dao có câu châm biếm hạng người lười biếng, chuyên đi lừa đảo, dụ dỗ người khác: Thầy đi xem bói cho người, Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

Cách nói ỡm ờ nước đôi trong bài đã lật tẩy bản chất giả dối của những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng lòng tin của người khác để kiếm tiền. Bài ca dao cũng phê phán sự mê tín đến mức mù quáng của không ít người trong xã hội đương thời. Với nội dung tích cực như vậy nên cho đến nay, bài ca dao vẫn nóng hổi ý nghĩa thời sự.

Bài ca dao thứ ba vẽ lên cảnh tượng một đám ma theo tục lệ cũ. Mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, một hạng người trong xã hội. Con cò tượng trưng cho người nông dân nghèo. Cà cuống tượng trưng cho những kẻ có máu mặt như lí trưởng, chánh tổng và đám chức dịch trong làng. Lũ chim ri, chào mào gợi liên tưởng đến bọn cai lệ, lính lệ tay sai. Chim chích giống như anh mõ chuyên đi rao việc làng trong các tích chèo cổ.

Người xưa chọn các con vật để “đóng vai” như thế là nhằm mục đích mượn thế giới loài vật để nói về xã hội loài người (giống truyện ngụ ngôn). Từng con vật với những đặc điểm riêng là hình ảnh sinh động tiêu biểu cho từng loại người, hạng người trong xã hội phong kiến đương thời. Do vậy mà nội dung châm biếm, phê phán của bài ca dao trở nên kín đáo hơn, sâu sắc hơn.

Cảnh được miêu tả trái ngược với cảnh tượng thường thấy ở một đám ma. Cuộc đánh chén lu bù, vui vẻ diễn ra trong không khí tang tóc. Con cò có thể chết vì đói khát, vì bệnh tật nhưng cái chết thương tâm của nó lại bị biến thành dịp kiếm chác béo bở cho những kẻ bất nhân, bất nghãi. Bài ca dao châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Tàn dư của hủ tục ấy đến nay vẫn còn, chúng ta cần phê phán mạnh mẽ để loại trừ nó ra khỏi đời sống văn minh.

Bài ca dao thứ tư miêu tả chân dung anh chàng cai lệ – kẻ đứng đầu đám lính canh gác và phục dịch ở công đường phủ, huyện thời xưa. Chỉ cần vài nét cơ bản là bức biếm họa sinh động về chân dung cậu cai đã hiện lên đầy đủ trước mắt người đọc.

Trước tiên, phải kể đến cái bề ngoài nhố nhăng của cậu cai. Đầu đội nón dấu lông gà chứng tỏ cậu cai là lính, nhưng chi tiết ngón tay đeo nhẫn lại đặc tả tính thích phô trương, làm dáng và trai lơ của cậu. Tính cách này cũng được miêu tả trong một số bài ca dao khác, ví dụ như: Cậu cai buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa…

Lâu lâu được các quan phủ, quan huyện sai phái đi làm một công việc nào đó, dù là việc vặt thì cậu cai cũng coi đó là dịp may để pho trương “quyền lực”. Khổ nỗi về hình thức, cậu cai chẳng có gì ra hồn để thị oai với thiên hạ. Do vậy mà cậu phải vất vả xoay sở sao cho đủ bộ: Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. Chính cách ăn mặc xộc xệch, tạm bợ ấy tự nó đã nói lên cái thân phận bé mọn đến thảm hại của kẻ đầy tớ chốn công đường. Đã vậy mà cậu cai vẫn còn cố khoe mẽ, vênh váo, cáo mượn oai hùm để bắt nạt người dân nghèo thấp cổ bé họng.

Nghệ thuật trào lộng trong bài ca dao này thật đặc sắc. Người xưa châm biếm ngay trong cách gọi chàng cai lệ là cậu cai, mới nghe qua tưởng trân trọng nhưng thực ra đó là thái độ mỉa mai, phê phán thói háo danh đến mức lố lăng, kệch cỡm của những kẻ có tí chức quyền, dù là bé cỏn con, không đáng kể. (Cai: chức vụ thấp nhất trong quân đội thời phong kiến).

Chân dung cậu cai được phơi bày chỉ vẻn vẹn trong hai dòng lục bát và cái gọi là uy quyền của cậu cai tất tật cũng chỉ có bấy nhiêu thôi. Bài ca dao đặc tả chân dung nhân vật bằng vài nét “điểm chỉ” rất chọn lọc và đắc địa. Qua trang phục và công việc, cậu cai xuất hiện như một kẻ bắng nhắng, đáng cười.

Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại để châm biếm cái gọi là quyền hành và thân phận thảm hại của cậu cai. Chi tiết: Ba năm được một chuyến sai là phóng đại. Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê cũng là phóng đại. Thế nhưng đằng sau chuyện như đùa ấy lại là một sự thật khác: Cậu cai đã bỏ tiền túi ra thuê mướn quần áo, thì chắc “cậu” phải cố tìm cách kiếm chác để gỡ gạc lại cho bõ chuyến sai ba năm mới có một lần.

Thời trước, tiếp xúc với hạng của đội, dân nghèo thường phải chịu sự sách nhiễu của chúng. Vì vậy, họ rất hiểu và coi thường hạng người này. Bức biếm họa bằng ngôn ngữ đã thể hiện thái độ mỉa mai, khinh ghét pha chút thương hại của người dân đối với đám tay sai của giai cấp phong kiến thống trị.

Đọc bài ca dao trên, chúng ta không chỉ hả hê trước thái độ châm biếm, đả kích của nhân dân lao động mà còn thích thú bởi đời sống tinh thần phong phú, lạc quan yêu đời của họ. Sức sống mãnh liệt của ca dao – dân ca xuất phát từ niềm tin bất diệt đó.

Phát biểu cảm nghĩ về ca dao dân ca Những câu hát châm biếm -  HocTotNguVan.vn

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm - Mẫu 2 

Trong kho tàng – dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược vù phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đáng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta.

Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất.

Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dân ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì ? Đó là “chú tôi” – một chàng trai làng – nào đó, là một ông thầy bói, là một “cậu cai” (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là “con mèo” – một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông “quan tướng” (trong phần đọc thêm), về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa… Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,… Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án.

Trước hết là cái anh chàng “chú tồi” mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với “cô yếm đào” xinh đẹp, trẻ trung. “Chú” lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. “Chú” nghiện rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều “ngày mưa”, ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ (“hay” nhắc lại bốn lần, “ngày” hai lần, “ước” hai lần, “đêm” hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,…) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay.

Tiếp sau chân dung “chú tôi” là chân dung ông thầy bói và “cậu cai”. Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô “đệ tử” ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. “Số cô chẳng giàu thì nghèo – Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà…”, đấy là thầy đoán về “tài lộc” của cô gái. Còn về “gia cảnh”, về “nhân duyên” thì… “cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai”… Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu “thầy bói nói mò”. Ông thầy bói này không chí “nói mò” mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật “nói nước đôi”, nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết “Bói ra ma, quét nhà ra rác”. Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn “cậu cai” – trong bài thứ tư – thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào ? Chân dung “cậu cai” được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào “nón dấu lông gà”, nào “ngón tay đeo nhẫn”. Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyển thì “Áo ngắn đi mượn, quần dài di thuê”, nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi ! Tác giả dân gian đã dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ “cậu cai”, cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lớp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười…

Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội dáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cò – một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, “cò con” lo “làm ma”, vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, “cà cuống” thì uống rượu. Chim ri thì “lấy phần”. Chào mào “đánh trống”. Chim chích “vác mõ đi rao”, chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến… Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,… Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép “la đà”, “ríu rít”, “cởi trần”,… chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chính bỏng trớ nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và … đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa…

Mỗi bài một giọng điệu, với những biện pháp nghệ thuật, bật ra những tiếng cười khác nhau, nhưng chùm ca dao châm biếm này đều giống nhau là: nghiêm khắc phê phán những con người xấu xa, những hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là vũ khí tinh thần sắc bén mà nhân dân ta đã sử dụng để mong muốn xoá bỏ những cái xấu, cái ác, mong muốn xây dựng một xã hội, những con người lành mạnh, lương thiện. Tuy đây là lời người xưa, nói về ngày xưa, nhưng đọc, rồi hiểu và suy ngẫm, chúng ta vẫn thấm thía những bài học thiết thực cho ngày nay…

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm - Mẫu 3 

Từ đời sống thường ngày và đời sống lao động, những kinh nghiệm, những bài học, những hiện thực cuộc sống đã được nhân dân ta đúc kết thành những câu ca dao, tục ngữ làm phong phú thêm cuộc sống sinh hoạt của mình. Ca dao châm biếm cũng là một phần trong đó thể hiện tiếng cười dân gian sự trào phúng trước những hiện thực cuộc sống thông qua các phép ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ từ đó phê phán những thói hư tật xấu ở đời. Ta sẽ vô cùng tức cười khi nghe lời của con cò khi giới thiệu về chú của mình với cô yếm đào:

  • Cái cò lặn lội bờ ao,

  • Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

  • Chú tôi hay tửu hay tăm,

  • Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

  • Ngày thì ước những ngày mưa,

  • Đêm thì ước những đên thừa trống canh.

Hai câu đầu tiên là dẫn dắt, lời giới thiệu đầy hóm hỉnh của cò con. Ta thấy hiện ra ở đó một cô gái nhỏ nhắn duyên dáng xinh đẹp qua hình ảnh “ cô yếm đào”. Và có lẽ để hợp với cô thì chú của cò cũng phải là một người rất xứng đáng. Ấy vậy mà qua lời cò con ta lại thấy trái ngược hoàn toàn. Chú tôi vừa hay tửu lại hay tăm hay nước chè đặc lại hay nằm ngủ trưa. Điệp từ “hay” xuất hiện tưởng chừng sẽ mở ra một loạt tài năng của chú nhưng nó lại là hay rượu che còn lười biếng ham ngủ. Bức chân dung biếm họa về chú cò làm ta liên tưởng đến hình tượng những người lười lao động ham mê hưởng thụ ăn chơi. Không chỉ sự lười biếng còn làm nảy sinh những ước muốn không giống ai của người chú. Người ta thích nắng thì chú lại thích mưa thích ngày dài đêm ngắn để có nhiều thời gian lao động thì chú lại mong đêm thừa trống canh. Chỉ vài dòng lục bát mà hình ảnh người chú lười biếng ham ăn chơi rượu che với suy nghĩ trái nết đã hiện ra một cách rõ nét. Với những “đức tính” của chú liệu cô yếm đào có trao thân gửi phận cho chú. Cuộc mai mối chênh lệch này đã tạo ra tiếng cười đả kích những con người lười làm ham hưởng thụ trong xã hội.

Bài ca dao dưới đây lại là tiếng cười trước lời phán của ông thầy bói :

  • Số cô chẳng giàu thì nghèo,

  • Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà.

  • Số cô có mẹ, có cha,

  • Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.

  • Số cô có vợ có chồng,

  • Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

Con người ngày xưa quan niệm ai cũng có số mệnh, ai cũng muốn biết trước số phận của mình và họ tin là những ông thầy bói có thể biết trước điều đó. Nếu thật vậy thì những lời tiên đoán sẽ chẳng có gì đáng cười nhưng ở đây lại tạo nên tiếng cười trào phúng bởi những lời phán nước đôi. Phán về gia đình, tình duyên, con cái, đều là những điều quan trọng mà ai cũng quan tâm. Nhưng cách phán chả giàu thì nghèo, mẹ đàn bà, cha đàn ông, gia đình, con cái đều ba phải nước đôi toàn là những điều ai cũng biết. Những chuyện chẳng ra đâu vào đâu ấy lại được phán bằng chất giọng nghiêm nghị thiêng liêng. Đây chính là mánh khóe sự bịp bợm lừa đảo dựa vào tính mê tín dị đoan để hòng moi tiền những người nhẹ dạ, cả tin của những kẻ giả danh thầy bói. Bài ca dao tạo nên tiếng cười cũng là lời phê phán việc lợi dụng lòng người để kiếm tiền đồng thời cảnh báo những người nhẹ dạ cả tin.

Chỉ qua hai bài ca dao ta đã thấy được những hiện thực xã hội đương thời với những nét hủ tục mê tín. Một xã hội đen tối nhếch nhác thảm hại được khắc họa qua tiếng cười đầy trào phúng lại cũng chứa đồng thời sự phê phán lên án thói hư tật xấu ở đời.

Soạn bài Những câu hát châm biếm trong sách Ngữ văn 7

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm - Mẫu 4 

Cuộc đời vốn đa sắc, đa màu, muôn hình, muôn vẻ. Văn học dân gian trong đó có ca dao đã phản ánh được điều ấy. Trong ca dao ta bắt gặp cảnh đẹp làm ngơ ngẩn lòng người của non sông, đất nước. Cũng có khi gặp những cảnh ngộ tnương tâm, sự ngược đời khiến ta không nén nỗi thương cảm. Lại có những câu hát châm biếm trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 khiến ta phải bật cười. Cái cười trong chùm ca dao cũng đa dạng, phong phú: cười đả phá cái xấu, đề cao cái tốt, cười chua xót, mỉa mai.

 

 Đọc bài ca dao thứ nhất ta tưởng đó là lời một cô cháu ngoan đang hăm hở đi tìm vợ cho chú minh. Nhưng thử đọc kĩ xem, ta sẽ nhận ra sự bất thường của việc đi tìm vợ cho chú. Để được cô yếm đào ưng thuận làm vợ chú, bản "lí lịch" của chú được hé lộ dần qua lời của đứa cháu. Nào là thích rượu chè, thích ngủ muộn, nằm ườn thích những ngày mưa, thích đêm kéo dài. Để làm gì ư: ngày mưa để khỏi phải ra đồng cày cấy, đêm thừa trống canh để ngủ cho no mắt... tóm lại toàn là những thói xấu mà người lao động xưa thậm ghét. Điều thú vị là tất cả những thói xấu đó được nói một cách rất lạc quan, mà mới đọc ta có cảm tưởng như đó là lời khen, khen ông chú tài giỏi. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán lại rất sâu cay qua từ "hay" được hiểu theo cả hai nghĩa, lối chơi chữ được kết hợp với điệp từ và cách nói ngược... tất cả làm cho lời mỉa mai cứ nhẹ tênh như là biểu dương, khâm phục. Chân dung ông chú chính là đại diện tiêu biểu cho những gã đàn ông lười nhác, những gã chồng hèn chỉ biết bám váy vợ, kiểu như:

 

 Chồng người đi ngược về xuôi

 Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo

 Hay:

 Chồng người năng vũ năng văn

 Chồng tôi chỉ chủ miếng ăn

 Đong ít thì nó cằn nhằn

 Bốc thêm nắm nữa nó nhăn răng cười.

 

 Tạm biệt ông chú lười chảy thây ấy, ta lại chiêm ngưỡng chân dung một ông thầy bói giả cầy. Một loạt những điều hiển nhiên, vớ vẩn đến trẻ con cũng biết lần lượt xuất hiện trong lời của thầy:

 

 Số cô chẳng giàu thì nghèo

 Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà

 Số cô có mẹ có cha

 Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

 Số cô có vợ có chồng

 Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

 

 Những điều vốn thế, hiển nhiên thế chẳng cần phải tìm đến bói toán người ta cũng biết lại được thầy nói bằng cái vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng. Lại nữa, bằng cách nói nước đôi theo kiểu chẳng thế này thì thế nọ. Chấn tướng của thầy càng rõ hơn. Bộ mặt thật của kẻ chuyên lừa bịp kiếm tiền bị vạch trần, bị phơi bày, bị lôi ra ánh sáng. Nhục nhã và xấu xa, hắn xứng đáng để người ta mỉa mai, bêu riếu. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả dân gian còn muốn phê phán những người mê tín đến mức lú lẫn, không phân biệt đâu là thực, là hư. Tìm đến lễ bái vu vơ, tiền mất mà tật mang, mua thêm nỗi lo lắng vào lòng. Bời thế tiếng cười lại đa sắc, đa diện và ý nghĩa của nó lại càng thấm thìa, sấu xa.

 

 Bài ca dao thứ ba lại vẽ ra cảnh thương tâm của một đám tang ở nông thôn xưa qua hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa. Tang chủ là gia đình cò - một thân phận bé mọn tận cùng của xã hội và cái chết thật thương tâm:

 

"Con cò chết rũ trên cây"

 

 Hình ảnh cò "chết rũ" khiến cho ta liên tưởng đến cái chết vì đói khát, chết vì kiệt sức khi không có nổi miếng ăn. Vậy mà, đã chết rồi, cò vẫn không được yên. Khốn khổ cho cái gia đình cò ấy khi có người nằm xuống, mất mát, đau thương tưởng có người sẻ chia, ai ngờ. Xa gần kéo đến rất đông nào cà cuống, chim ri, chào mào, chim chích... nhưng hẳn là chẳng để chia buồn vì cái ồn ào, láo nháo không chút tang ma kia đã nói lên điều đó. Chúng đến để "uống rượu la đà", để "ríu rít bò ra lấy phần", để "đánh trống quân"... nghĩa là để làm cho gia đình tang chủ thêm rối ren, trong lúc vốn đã rối lên vì có người chết. Mỗi một con vật, một hành động là một ẩn dụ cho một loại người, hạng người, một việc làm của con người. Tang ma vốn là một việc hiếu, việc nghiêm trọng, việc để mọi người chia sẻ bỗng bị biến thành màn hài kịch, biến thành cơ hội để tất cả xúm vào xâu xé, kiếm chác, đánh chén no say, chia chác om sòm. Mỉa mai thay, đau đớn thay. Đằng sau những lời ca châm biếm ấy là giọt nước mắt cảm thương cho gia đinh cò, cảm thương cho những kiếp người bé mọn phải chịu khổ trăm bề. Bài ca dao cũng là lời tố cáo, lên án hủ tục ma chay lạc hậu ở nông thôn xưa. Lời ca dao vì thế mà khiến cho mỗi người không thể dửng dưng trước nỗi đau của người khác, nhắc nhở người ta bài học về sự cảm thông và chia sẻ.

 

 Cuối cùng là chân dung "cậu cai" với "nón dấu lông gà" hiện lên khá oai, oách:

 Cậu cai nón dấu lông gà

 Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai

 Ba năm được một chuyến sai

 Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê

 

 Tìm một cách "định nghĩa" về cậu cai, người dân muốn vạch trần bản chất, vạch trần sự thật về bọn tay sai cho giai cấp thống trị. Hãy thử xem cậu cai thuộc thứ hạng gì trong cái bộ máy cai trị, bóc lột ấy nhé. Trong bộ máy cai trị ấy, nhỏ nhất là cậu lệ (cậu lính lệ) và cậu cai kia, hơn hẳn cậu lính lệ một bậc. Thật oách, trong con mắt dân đen phải không. Và bởi thế, xét cho cùng chả là gì cả nhưng cậu vẫn tha hồ lên mặt với dân, bắt nạt dân làng, lắng nhắng, lắm sự. Cũng bởi thế, người dân được nhìn tận mặt cậu cai, bởi được cái vố "nón dấu lông gà", "ngón tay đeo nhẫn" của cậu. Họ phát hiện ra cái sự thật nực cười mà cậu cai cố tìm cách dấu đậy nó đi:

 Ba năm được một chuyến sai

 Áo ngắn đi mượn, quằn dài đi thuê

 

 Thảm hại biết bao vì tất cả những thứ hào nhoáng kia đều thuộc về người khác, cậu ta chả có gì, chả là cái gì vậy mà lại hay khoe mẽ. Thân phận rờm, uy quyền cũng rởm, tác giả dân gian đã vạch trần con người thật của cậu cai, phơi cậu ta ra trước bàn dân thiên hạ, gọi tất cả ánh mắt hướng về. Nhưng nếu chỉ "cởi trần" cái nhân vật cậu cai kia thôi thì chưa có nhiều điều để nói, cũng không phải là mục đích của người xưa. Đằng sau cậu cai là cả một tập hợp những kẻ rởm như cậu. Nghĩa là, tất cả bọn tay sai của tầng lớp thống trị, của những ông quan cai trị người Pháp đều một duộc như cậu cai. Hào nhoáng, lố lăng nhưng bản chất thì tầm thường và quyền hành chỉ là cái vỏ mà chúng thì luôn sống trong ảo tưởng. Dùng phép đối trong hình ảnh, thâm ý của tác giả dân gian thật sâu sắc. Vừa thổi chúng bay lên chín tầng mây ở hai câu đầu thì lại kéo chúng rơi xuống thực tại mỉa mai. Vừa khoác lên người chúng nón dấu lông gà, áo ngắn, quần dài vừa vạch trần chúng ra, phơi bày con người thật trước bàn dân thiên hạ. Ta thì hả hê cười, còn hẳn bọn chúng sẽ tím ruột, tím gan khi đọc những câu ca dao thâm thúy như thế. Tác giả dân gian quả thật rất tài.

 

 Mỗi bài ca dao một cách cười, một kiểu cười, một ẩn ý sâu sa. Tuy nhiên, điểm gặp gỡ của cả bốn bài ca dao là thái độ phê phán những con người xấu xa, những sự việc, hiện tượng, những hủ tục rườm rà, sự bóng bẩy hào nhoáng mà không thực chất. Qua đó, tác giả muốn xem nó như một vũ khí để loại bỏ cái xấu, cái ác để cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Xưa nhưng không cũ, tiếng cười phê phán và những sự việc, con người bị đem ra phê phán trong bài ca dao ta vẫn có thể bắt gặp trong cuộc sống ngày nay. Bởi thế, hơn ai hết, ta hãy biết dùng tiếng cười để điều chỉnh mình, hoàn thiện mình và sống đẹp hơn.

 

Viết cảm nghĩ của em về bài ca dao số 1 trong bài

 

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát châm biếm - Mẫu 5 

Ca dao là một thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam, những bài ca dao khi là lời thổ lộ tâm tình, khi là những giãi bày tâm sự, tình cảm thầm kín sâu sắc, khi là những tiếng cười hài hước, và cũng có khi đó là những câu ca châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu của con người, của xã hội. Việt Nam có một hệ thống lớn những bài ca dao châm biếm hài hước, đó là những bài ca đả kích những thói xấu, những điều tiêu cực trong tính cách, cũng như những hạn chế của xã hội. Mượn tiếng cười để phản ánh khiến cho những bài ca dao châm biếm không chỉ có giá trị nội dung triết lí mà còn mang tính thẩm mĩ, đặc sắc về nghệ thuật.

 

Những câu hát châm biếm thường mượn tiếng cười để đả kích những cái xấu trong xã hội, đó là những hạn chế, những thói xấu tồn tại trong tính cách của con người, cần lên án để khắc phục. Tiếng cười khiến cho lời phê phán ấy trở nên ý nhị, sâu cay hơn, mặt khác thể hiện được thái độ của người nói đối với người nghe. Trước hết, ca dao châm biếm thói ham vật chất, vinh hoa phù phiếm qua hình ảnh bà già đi chợ cầu Đông:

 

“Bà già đi chợ cầu Đông

Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng

Thầy bói gieo quẻ nói rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”

 

Nhân vật châm biếm trong bài ca dao là một bà già tuổi xế chiều, trong một lần đi chợ Cầu Đông thì bà ta đã đi xem bói hỏi xem lấy chồng có lợi gì chăng. Yếu tố gây cười ở đây ở chỗ, bà già đã quá tuổi để dựng vợ gả chồng, không lo tĩnh dưỡng tuổi già mà lại đi xem bói hỏi về việc chồng con. Yếu tố gây cười thứ hai chính là việc lấy chồng của bà ta không phải mưu cầu hạnh phúc lứa đôi mà xem có lợi gì không. Thái độ châm biếm của tác giả dân gian thể hiện qua câu trả lời của thầy bói, tác giả đã sử dụng từ đồng âm nhưng khác nghĩa để đáp lại lời hỏi của bà lão “Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”. Lợi mà bà lão nói đến là những lợi ích về vật chất, nhưng lợi mà thầy bói nói đến lại là một bộ phận trên cơ thể con người. Bài ca dao phê phán thói ham vật chất, vinh hoa một cách mù quáng ở con người.

“ Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai”

Bài ca dao trên đây lại phê phán thói mê tín dị đoan của người nông dân trong xã hội xưa, họ không chịu lao động mà chỉ trông mong cái gì tốt đẹp xa vời. Người phụ nữ trong bài ca dao đi xem bói nhưng lại được “thầy” phán những điều tất nhiên mà bất cứ người nào cũng biết, hoàn cảnh sống không giàu thì chỉ có thể là nghèo, và dẫu có nghèo đến mấy thì ngày ba mươi tết cũng có thịt để treo trong nhà. Và câu trả lời mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông khiến cho chúng ta phải bật cười, đây đều là những sự thật, quy luật của cuộc sống, những điều ai cũng biết thì đâu cần xem bói. Bài ca dao phê phán những thầy bói rởm, dùng những lời lẽ bịa đặt để ăn tiền, và châm biếm những con người thụ động, mê tín chỉ biết trông vào sự may mắn của số phận.

 

“Làm trai cho đáng sức trai

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng”

Câu ca dao châm biếm những người đàn ông mang tiếng là trụ cột của gia đình nhưng không có sức khỏe, không làm nổi những việc tầm thường nhất, đó chính là thói công tử, yếu đuối nhu nhược không có chí của người đàn ông, sống “ăn bám”, nhờ cậy vào vợ, vào gia thế của gia đình. Câu ca dao là lời châm biếm của chính người vợ về người chồng của mình. Theo lời của chị vợ thì chồng chị ta không đáng mặt nam nhi, yếu đuối vô dụng, không làm nên trò chống gì. Hạt vừng là loại hạt vô cùng nhỏ bé, vậy mà người chồng khom lưng chống gối mới gánh được hai hạt. Câu nói hàm ý chỉ sự vô dụng, bất tài của người chồng.

Cũng nói về người chồng bạc nhược, vô dụng, người vợ trong câu ca dao sau cũng thể hiện sự châm biếm sâu sắc với người chồng của mình:

 

“Chồng người đi ngược về xuôi

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”

 

Theo lẽ thường, người đàn ông là người gánh vác công chuyện của cả gia đình, người phụ nữ chỉ là người nội trợ lo việc bếp núc, nhà cửa, con cái. Nhưng dường như trong câu ca dao này vị trí của hai người bị hoán đổi. Người chồng nhu nhược, yếu hèn đến mức quanh quẩn ở xó bếp, trông chờ vào sự lao động của người vợ “Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”

Những bài ca dao châm biếm đã đả phá sâu sắc đến những thói hư tật xấu trong xã hội. Đó là những lời đả kích, châm biếm ý nhị mà sâu cay cùng với đó là những bài học triết lí vô cùng sâu sắc.

Tài liệu có 15 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.3 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
756 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
839 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
661 1 0
Tải xuống