Vào chùa gặp lại: tác giả, tác phẩm, tóm tắt, bố cục, dàn ý - Cánh diều Ngữ văn 11

662

Toptailieu.vn xin giới thiệu Tóm tắt kiến thức trọng tâm về tác giả tác phẩm Vào chùa gặp lại Ngữ văn 11 (Cánh diều) với đầy đủ các phần quan trọng như: tác giả tác phẩm, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... Sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức Ngữ văn, từ đó học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

Tác giả tác phẩm Vào chùa gặp lại – Ngữ văn 11 (Cánh diều)

I. Tác giả Minh Chuyên

Vào chùa gặp lại - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

- Nhà văn Minh Chuyên, tên khai sinh là Nguyễn Minh Chuyên, sinh năm 1948.

- Quê quán: Xã Minh Khai – Vũ Thư – Thái Bình

- Ông là nhà văn quân đội, nhà báo, đạo diễn phim tài liệu để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện kí, tiểu thuyết, kịch bản văn học về đề tài hậu chiến. Ông được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập Kỷ lục là nhà văn sáng tác đề tài hậu chiến tranh Việt Nam nhiều nhất.

- Phong cách nghệ thuật: tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu cảm xúc chân thành…

- Tác phẩm chính: Người lang thang không cô đơn, Thủ tục làm người còn sống, Vào chùa gặp lại, Nước mắt làng, Di họa chiến tranh,...

II. Tìm hiểu tác phẩm Vào chùa gặp lại

1. Thể loại

- Văn bản thuộc thể loại: truyện kí.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời

- Xuất xứ: Trích trong tập truyện kí “Người lang thang không cô đơn” (1993).

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: thuyết minh, nghị luận.

4. Bố cục văn bản Vào chùa gặp lại

- Phần 1: kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ của tác giả với sư thầy Đàm Thân và cùng nhau ôn lại những kỉ niệm nơi chiến trường ác liệt cũng như lí do cô ấy xuất gia.

- Phần 2: kể chuyện sư thầy đã làm được rất nhiều việc tốt sau khi về nơi Cửa Phật.

- Phần 3: Kể về việc Sau khi phục viên, Lương Thị Thân đã trở về quê nhà mang theo vết thương do chiến tranh để lại và nỗi đau mất đi Quân – một nửa sự sống của cô - tìm tới cửa Phật, quyết định xuống tóc đi tu làm những việc tốt đời, đẹp đạo…

5. Tóm tắt Vào chùa gặp lại

Trong tác phẩm "Vào chùa gặp lại", nhà văn Minh Chuyên viết về những nữ quân nhân hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Mỹ. Những chiến sĩ này đã đóng góp rất nhiều cho sự giải phóng đất nước, nhưng sau đó phải đối mặt với những hậu quả khó khăn, như nhiễm chất độc màu da cam. Nhiều cô gái đã bị ảnh hưởng về sức khỏe và tương lai hôn nhân. Trong tác phẩm, Minh Chuyên kể về cuộc đời của Lương Thị Thân, một sĩ quan công tác trong trạm quân y, đã hy sinh trong cuộc chiến tranh. Sau đó, cô trở về quê hương và quyết định xuống tóc đi tu vì không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho người yêu. Tác phẩm mang lại niềm xúc động về sự hy sinh của những nữ quân nhân và sự tôn vinh của Minh Chuyên trong việc khai thác những vấn đề chưa được đề cập trong văn học Việt Nam.

6. Giá trị nội dung

- Truyện kể và ca ngợi về sự hi sinh thầm lặng, bản lĩnh phi thường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh. Người phụ nữ ấy không gục ngã vì những mất mát, hi sinh trong chiến tranh, bước ra từ chiến tranh, chị đã hòa nhập vào đời sống, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm mới, sống nghĩa tình, nhân hậu, yêu thương giữa cuộc đời.

- Qua truyện ngắn, nhà văn ngợi ca tính cách kiên cường, phẩm chất tốt đẹp giàu lòng vị tha, đức hi sinh, nhân hâu của người phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh.

6. Giá trị nghệ thuật

- Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc; cốt truyện chặt chẽ, giàu kịch tính.

- Điểm nhìn chuyển đổi linh hoạt, từ điểm nhìn bên ngoài (tác giả) sang điểm nhìn bên trong (nhân vật) và ngược lại.

- Nghệ thuật miêu tả cảnh và miêu tâm lí nhân vật tinh tế.

- Xây dựng nhân vật qua ngoại hình, lời nói, hành động, đặc biệt là diễn biến nội tâm phức tạp.

- Ngôn ngữ gần gũi.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Vào chùa gặp lại

1. Tình huống truyện

- Nhà văn đã tạo dựng được tình huống truyện đặc sắc, đó là: Nhân vật “tôi” gặp lại người nữ quân y trong tình huống bất ngờ: tại chùa Đông Am, xã Quảng Bình, huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình).

- Ý nghĩa của tình huống: khiến người đọc ngạc nhiên, bất ngờ và chú ý dōi theo câu chuyện.Từ đó, tác giả đã bày tỏ thái độ, tình cảm yêu mến, trân trọng và cảm phục đối với nhân vật chính.

Nhận xét: Bằng hồi ức văn chương tả thực cùng sự lao động sáng tạ, cảm tác bằng trái tim nhân ái, Minh Chuyên đã tạo ra vẻ đẹp huyền thoại từ nhân vật ngoài cuộc đời. Nhà văn không chỉ thấu hiểu cho những nỗi đau, sự mất mát cả về thể xác và tinh thần của họ mà còn ca ngợi tính cách kiên cường, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ thương binh nói riêng và người phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh nói chung.

2. Không gian, thời gian trong truyện

* Không gian: Câu chuyện diễn ra ở các không gian khác nhau: Không gian tại chùa Đông Am, Quảng Bình, Kiến Xương, Thái Bình, không gian sinh hoạt gia đình (nhà bố mẹ sư thầy Đàm Thân), không gian chiến trường cũng được gợi nhắc qua lời kể của nhân vật chính.

Thời gian: Thời gian hiện tại khi nhân vật “tôi” gặp lại nữ quân y tại chùa Đông Am, ; thời gian quá khứ khi ở chiến trường và khi gặp lại người yêu tưởng đã hi sinh nơi chiến trường. Thời gian tuyến tính được xen kẽ bởi những khoảng thời gian quá khứ được gợi lại qua các hồi ức, đối thoại giữa các nhân vật…

3. Hình tượng nhân vật Đàm Thân

3.1. Hoàn cảnh sống

Trước khi tình nguyện vào chiến trường:

+ Lương Thị Thân - một cô gái xinh đẹp, trẻ trung quê ở Thái Bình

+ Có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú Quân.

+ Nhưng phải chia tay nhau vì chú Quân ra chiến trường. Còn Đàm Thân thì xung phong làm cô y sĩ nơi mặt trận. → Mỗi người mỗi ngả

+ Đau đớn khi nghe tin người yêu hi sinh, bản thân nhiều lần cận kề cái chết

Khi từ chiến trường bom đạn trở về:

+ Bị 62% thương tật, nhiễm chất độc màu da cam

+ Bố mẹ ngăn cấm không cho xuất gia

→ Mang trong mình nhiều nỗi đau về thể xác và tinh thần.

3.2. Ngoại hình

- Trước khi đi xung phong:

+ Là một cô gái làng biển duyên dáng, trẻ trung, xinh đẹp

+ Đôi má trắng tròn, mái tóc đen dài, óng mượt.

Khi từ chiến trường bom đạn trở về:

+ Với 62% thương tật, da xanh xao vì những cơn sốt rét rừng, bị nhiễm chất đọc da cam, mang trong mình nỗi đau khi người yêu không còn nữa, ..;

→ Bom đạn chiến tranh đã lấy đi tuổi thanh xuân, nhan sắc, tình yêu tươi đẹp của những người con gái đôi mươi.

3.3. Tính cách, phẩm chất

Vẻ đẹp tính cách, phẩm chất của nhân vật được nhà văn dồn sức diễn tả, thể hiện qua hai tình huống, sự kiện tiêu biểu:

* Tình huống, sự kiện thứ nhất: Khi ở chiến trường

Khi được cử ra Bắc học tập chị tình nguyện xin ở lại phục vụ hết chiên dịch mới ra, hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận.

- Khi nghe tin chú Quân – người yêu hi sinh chị bàng hoàng đau đớn, đau xót như một nửa đời mình “đã chết”. Nhưng chị phải nén nỗi đau để tiếp tục nhiệm vụ của mình, chứng kiến những chiến sĩ vì bảo vệ mình mà hi sinh, bản thân bị thương nặng nhưng vẫn cố gắng vượt lên tất cả

=> Đàm Thân nhận thức rõ hoàn cảnh, đưa ra quyết định tỉnh táo, dứt khoát.

Tình huống này cho thấy Đàm Thân là người có tình cảm da diết, sâu nặng, có ý chí mạnh mẽ, bản lĩnh vững vàng và có lòng nhân hậu, vị tha sâu sắc.

*Tình huống, sự kiện thứ hai: Khi từ chiến trường trở về

- Do thời gian chị nằm điều trị tại một gia đình Phật tử, ngày ngày được nghe gia chủ thỉnh kinh, gõ mõ nên chị ấp ủ nguyện vọng phó thác cuộc đời nơi Tam Bảo.

- Những ngày đầu bố mẹ ngăn cấm không cho xuất gia, chị phải trốn đi

- Khi gặp lại chú Quân- người yêu từ cõi chết trở về đã tìm tới tận chùa để xin cưới hỏi và khuyên bảo cô trở về. Nhưng dù Quân có năn nỉ như thế nào thì cô cũng nhất quyết không đồng ý bởi cô biết di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống sẽ khiến Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được.

Qua tình huống thấy được phẩm chất của nhân vật Đàm Thân: Giàu lòng vị tha, đức hi sinh, nhân hậu,…thông qua những hành động, việc làm như:

- Chǎm sóc sư bác Trần Diệu Tánh bị di chứng chất độc da cam;

- Nuôi dưỡng những đứa trẻ bị tàn tật, con của đồng đội bị nhiễm chất độc da cam;

- Làm viêc cần mẫn, vừa chǎm chỉ tụng kinh vừa tích cực tăng gia sản xuất;

- Cải tạo, mở mang chùa...

Nhận xét chung: Chiến tranh đã lấy đi của chị tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu; thân thể bị thương tật, ra khỏi cuộc chiến còn gặp tình huống trớ trêu, éo le song với bản lĩnh phi thường, với tấm lòng nhân hậu cao cả và sự hi sinh thầm lặng, Đàm Thân đã mạnh mẽ vượt lên trên nghịch cảnh, vươn lên sống tốt đời, đẹp đạo, nhân hậu, vị tha…

- Thái độ của tác giả: Yêu mến, trân trọng và cảm phục đối với nhân vật chính.(+ Người y sī tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.

+ Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể.

IV. Đọc tác phẩm Vào chùa gặp lại

[….] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi.

Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...]

Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa dời mình “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo – Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 năm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoa.

Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...]

Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường – Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân. Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa:

“Đâu vì thân độ đấng thân

Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn".

Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu.

Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô dành chấp nhận. [...]

Những ai mơ tưởng vào nơi cửa Phật là trút bỏ mọi nhọc nhằn của kiếp người trầm luân, là những mong “đắc đạo hoá toan phận mình” thì không phải. Với Lương Thị Thân, những ngày bước vào cửa thiền là những ngày đầy khổ ải, vất vả, gian nan.

Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng sư bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật do di chứng nhiễm chất độc da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân. [...] Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya. Vừa quét dọn chùa, chuẩn bị nhang đèn, sắm sửa đồ lễ, vừa trồng cấy, chăn nuôi tự túc lương ăn, vừa giặt giũ, tắm rửa, thuốc men chăm sóc sư bác Trần Diệu Tánh. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm. Đều đặn, gần năm năm khổ công thử thách và hành đạo, chú tiểu Lương Thị Thân được lên sư bác và mấy năm sau nữa được phong là sư thầy. Sư thầy Đàm Thân được Giáo hội Phật giáo điều về trụ trì chùa Đông Am, xã Quang Bình này.

Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời.

Đàm Thân bảo:

– Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiêu, tối mộ), là bổn phận của nhà chùa.

Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn.

Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...]

Trò chuyện với Lương Thị Thân, Vũ Thị Bích, tôi cảm thấy như khoảng cách giữa nhà sư và khách dần được thay bằng tình cảm của đôi bạn: tình cảm của hai cô gái từng chung sống trong một cái lán dưới rừng Trường Sơn hơn hai mươi năm trước. Và họ đằm thắm thổ lộ tâm tình cùng nhau. Bích hỏi:

– Thân vẫn đẹp như ngày xưa. Ở chùa, có người nào đến quấy quở không?

Nhìn Thân thoáng buồn, người thừ ra, im lặng. Bích tiếp:

– Ở chùa cảnh tĩnh lại trăng thanh gió mát, Thân đẹp thế, sao mà tránh khỏi phải không?

– Mô Phật. Không. – Thân lắc đầu. – Chỉ có một đêm... – Thân nói rồi im lặng.

Bích hiểu ở nơi xa rời phàm tục, chắc là có một đêm không bình thường. Thân nhìn Bích rồi khẽ khàng kể lại cái đêm ấy.

Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng dọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.

– Mô Phật. – Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật – Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ.

Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói:

— Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao?

Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chia lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại:

— Anh là ... Quân thật ư?

– Thật. Anh là Quân đây mà.

— Trời ơi! Anh còn sống. Vậy mà...

Các chú tiểu, người đốt nến, thắp hương, người lấy nước tiếp khách và họ được chứng kiến cảnh tượng gặp lại người thân của sư thầy thật éo le. Khi còn hai người ngồi đối diện nhau qua cái bàn gỗ lim của nhà chùa, Hồng Quân đã kể lại vì sao “thần chết” lại tha anh.

Hôm ấy, đơn vị Quân tập kích một đại đội lính nguy bên sườn núi Bà Đen. Bị lộ, địch gọi máy bay tới bắn phá, huỷ diệt lực lượng của ta. Nhiều chiến sĩ trúng bom thân hình tan nát. Quân bị trọng thương và sức gió của trái bom nổ gần hất tung vào một khe đá, bất tỉnh. Sau đêm đó, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu cho cả trung đội, trong đó có Hồng Quân. Nằm chờ chết trong khe đá đến ngày thứ tư, mùi vết thương bay ra làm những người đi rừng dừng lại tìm kiếm. Lần theo, họ vạch lùm cây bên tảng đá, thấy Quân đang thoi thóp. Họ khiêng Quân về bản Tà Keo, chạy chữa thuốc men rồi giao lại cho một đội điều trị gần đấy. Quân sống sót là nhờ dân bản. Khi tỉnh táo, Quân nhận được tin Thân đã hi sinh ở chiến trường Lao Bảo. Anh nói:

- Vì thế khi giải phóng miền Nam, phần thì phải ở lại chờ phẫu thuật vết thương tái phát, phần thì nghĩ về quê Thân có còn đâu.

Hồng Quân tiếp:

– Đến khi sang bên này thăm thầy mẹ, mới hay là Thân còn sống và đang ở chùa. Quân cảm động nói tiếp:

– Người ta bảo Thân đi chùa là vì tôi. Xin cảm ơn Thân nhiều. Nay biết Thân tu ở chùa này, tôi đến đón Thân về đây.

Đường đột gặp lại người thương và nghe Quân kể chuyện từ cõi chết trở về, Thân vừa mừng vừa thương. Mừng vì anh còn sống, thương vì cô không thể chăm lo phần đời còn lại của Quân được nữa.

Thân nói, lòng nghẹn ngào:

– Anh Quân ơi! Nếu em chưa phát nguyện tu hành thì nhất định em sẽ về với anh. Nhưng bây giờ em đã theo đạo Phật rồi, anh thông cảm cho em nhé anh.

Nhìn Thân vẫn khuôn mặt vầng trăng, và đôi mắt đẹp thơ mộng như ngày xưa, vẫn nước da trắng mịn và lời nói dịu dàng, Quân bảo:

— Tu nơi cửa Phật, nhiều người vẫn phá giới về với cõi đời. Thân về với tôi đi. Tôi sẽ xin cho Thân hoàn tục.

– Mô Phật! Không. Em đã hoàng dương rồi. Nhà Phật không cho người hoàng dương về đâu.

Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau.

Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu.

Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ:

– Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc!

Rồi đêm đó hai người chia tay nhau.

Thân quay sang Bích và bảo:

– Cái đêm hôm ấy là thế đấy.

Bích nắm bàn tay bạn, thở dài:

– Vậy mà mình cứ ngỡ… thì ra anh Quân vẫn còn sống và vẫn nhớ tới Thân.

Bích tiếp:

– Bây giờ anh Quân ở đâu? Lâu nay, Thân có gặp lại anh ấy không?

- Có! — Thân nói — Vừa qua, tôi đi lễ Phật Đản bên chùa Bình Dương. Vừa tới cửa tam quan), bỗng giật mình khi gặp một người đàn ông đầu trọc, chít vành khăn nâu, vận quần áo nhà chùa. Thấy tôi, người ấy lúng túng vẻ muốn tránh mặt. Tôi nhận ra và thốt lên: “Anh Quân. Anh đi chùa sao không cho Thân biết?”. Lúc đó, anh ấy chẳng nói gì.

Nghe Thân kể, Vũ Thị Bích từng được chứng kiến bao cảnh đời éo le, vẫn không ngờ Quân lại tìm vào nơi cửa Phật, Bích hỏi:

— Thân có biết vì sao anh Quân lại đi tu?

Thân ngượng ngùng, nói:

– Anh Quân bảo, anh bị nhiễm chất độc đi-ô-xin(2 ngày còn ở núi Bà Đen. Khi về quê nhìn thấy cảnh “tật nguyền quái dị” của những người đồng đội cùng bị nhiễm độc như anh, anh Quân sợ làm khổ đời Thân sau này, nên có ý định muốn xa Thân. Nhưng khi gặp nhau, anh ấy bảo, tình yêu đã át hết, nên mới nài nỉ khuyên Thân “phá giới” rời chùa.

Thân nói tiếp:

– Khi Thân từ chối, ra về, anh ấy quyết không xây dựng tổ ấm gia đình nữa, vì biết mình cũng sẽ gây đau khổ cho vợ con như bạn mình. Anh ấy bảo, nghe chuyện Thân vào chùa vẫn làm được nhiều việc hữu ích, vì thế anh ấy đã quyết định đi chùa. [...]

Bích nói như để an ủi bạn mình:

– Gặp được một người như anh Quân, dù phải cách xa nhau, cũng là mãn nguyện, Thân ạ.

Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người.

Bố cục Vào chùa gặp lại (Cánh diều) chính xác nhất (ảnh 1)

Xem thêm các bài Tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Tác giả tác phẩm: Tình ca ban mai

Tác giả tác phẩm: Thương nhớ mùa xuân

Tác giả tác phẩm: Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Tác giả tác phẩm: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Tác giả tác phẩm: Thề nguyền và vĩnh biệt

 

Đánh giá

0

0 đánh giá