Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến: tác giả, tác phẩm, tóm tắt, bố cục, dàn ý - Chân trời sáng tạo Ngữ văn 10

434

Toptailieu.vn xin giới thiệu Tóm tắt kiến thức trọng tâm về tác giả tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến Ngữ văn 10 (Chân trời sáng tạo) với đầy đủ các phần quan trọng như: tác giả tác phẩm, bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... Sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức Ngữ văn, từ đó học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

Tác giả tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến – Ngữ văn 10 (Chân trời sáng tạo)

I. Tác giả

- Khuyết danh

II. Tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

1. Thể loại: Tuồng đồ

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

Đoạn trích “Huyện Trìa, Đế Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến” được trích trong vở tuồng nổ tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến” 

Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

3. Phương thức biểu đạt: Tự sự  

4. Tóm tắt tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

Ba người Nghêu, Đề Hầu, huyện Trìa đều muốn có được Thị Hến. Trời tối Thị Hến hẹn Nghều đến đến nhà, nhưng Nghêu không biết được Thị Hến mời luôn cả hai người kia đến. Nghêu đến đầu tiên, khi đang ngồi ngồi tán tán tỉnh Thị Hến thì Đề Hầu gõ cửa vào khiến Nghêu phải chui vào gầm phản trốn. Khi Hầu Đề vào nhà chưa được ấm chỗ thì Huyện Trìa đến, Đề Hầu vội tìm chỗ trốn. Khi đủ cả ba người trong nhà, Thị Hến liền bày mưu để cho Nghêu từ gầm giường bò ra, Đề Hầu ngồi trong thúng chui ra. Tất cả cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt. 

5. Giá trị nội dung tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ mưu trí, hiện đại, ma mãnh, biết giữ gìn phẩm hạnh,

- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện: tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

- Nghệ thuật xây dựng tuyến nhân vật với những tính cách đa dạng thể hiện được mọi góc nhìn về xã hội đương thời 

- Tình huống tuồng đắt giá giúp các nhân vật bộc lộ hết bản chất

II. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến

1. Nhân vật Thị Hến

- Một người phụ nữ góa chồng thông minh, ma mãnh: ''Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên'', lừa được cả 3 tên đàn ông vào bẫy và khiến chúng tự cúi mình nhận tội. Một người phụ nữ có bản lĩnh

- Thị Hến còn là một người biết gìn giữ phẩm hạnh :''Giữ tiết hạnh một đường cho toại/ Nỗi nhân duyên đôi chữ không màng''

2. Đặc điểm của tuồng đồ được thể hiện trong văn bản

Đề tài: Lấy đề tài trong cuộc sống đời thường. Ở đây chính là việc 3 nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu ham mê nữ sắc để rồi phải tự gánh hậu quả

- Nhân vật: Các nhân vật chính thường có danh xưng nghề nghiệp Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu. Tính cách nhân vật không thay đổi. xuyên suốt cả đoạn tuồng

- Lời thoại: có cả đối thoại, độc thoại, bàng thoại

3. Nhân vật Thầy Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa

- Chỉ vì thói đam mê nữ sắc mà ự mình nhận lấy một kết quả đáng xấu hổ.

- 3 người lần lượt tự nhìn thấy tội lỗi của mình trong khi cả 3 mang danh Thầy, Đề, Huyện Trìa. những người có danh, có quyền nhưng hành xử không hề phù hợp với thuần phong mỹ tục

IV. Đọc tác phẩm Huyện Trìa, Đế Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến

(Lược dẫn: Sau khi được Huyện Trìa tha bổng ở huyện đường. Thị Hến bị Thầy Nghêu, một gã thầy tu phá giới trong vùng đến gạ gẫm chuyện ái ân. Thị bày ra một kế nhằm chấm dứt mọi sự quấy nhiễu của Thầy Nghêu cùng bọn chức sắc, nhằm “Giữ tiết hạnh một đường cho toại”. Thị cho mời cả ba gã đàn ông mê gái – Thầy Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa – cùng đến nhà mình và cả ba cùng sập bẫy. Dưới đây là lớp XIX, cũng là lớp kết thúc vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Nhan đề do người biên soạn đặt).

THỊ HẾN:

– Từ sai người tới đó

tới độ sáng tạo

Sao chưa thấy tới đây?

Ông Huyện Trìa bị mụ Huyện trói tay,

Thầy Để Lại mắc cô Đề buộc cổ.

Còn lão sãi trọc vắng tới nhà mà múa mỏ,

Hay là ta may hết thói lăng nhăng?

Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,

Lại bị quỷ nhà chạy tới phá.

THẦY NGHÊU:

– Trời tăm tối đi hầu bố ngửa,

Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.

(Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)

THỊ HẾN:

- Chào thầy mới tới

Trà nước vội vàng.

Đành lòng đây đó giao duyên

(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi.)

THẦY NGHÊU:

– Vốn đà trước liệu

Lọ phải sau lo

Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa

Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.

(Này này!) Khuyên cùng với đó,

Chớ khá phụ đây,

Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy,

Ở như vậy uổng tài bà goá.

(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)

THỊ HẾN:

(-Ủa!)

Tiếng ai kêu chỉ lạ

Hay là thầy Lại đến đây?

(Này! Này! Mô Phật!)

Đi ra kẻo tội với thầy,

Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu!).

THẦY NGHÊU:

Lão Đề Lại làm chi quá ngặt,

Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.

(Thím oi! Thím!)

Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!

(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!

THỊ HẾN:

- Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.

 

(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây,

Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây,

(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.

(Thầy Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)

Lại nói — Thưa thầy!

Nghe kêu lật đật,

Mở cửa vội vàng

Thỉnh lại gia trang,

Sẽ bày tình tự.

ĐỀ HẦU:

- Ơn mỗ cứu cho bữa trước

Nay nường còn nhớ chưa quên?

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,

Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)

THỊ HẾN:

– Xin thầy hãy nghĩ lại

Quan huyện dạy (tôi) phải vâng,

Đành đôi ta là cái duyên hằng

(Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Phải lắm! Thế mới biết

Đèn không khêu không tỏ,

Chuông không đánh không kêu.

(Ta nói thiệt) Đó không thương đây cũng quyết liều,

(Chừ) Duyên đã khẳn nàng tua giữ dạ.

THỊ HẾN:

– Ái ân việc còn thong thả,

Rượu trà xin hãy vui chơi

Chẳng mấy khi dặng hiệp một nơi

Bây giờ đã gặp nhau hai mặt

(Chừ có việc này)

 

Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!

Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,

Tu (mà) phá giới tội chi khinh trọng, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Lỗ tai nghe quá chướng

Trong luật lệ rất to,

Hễ phá giới tức hành trảm quyết!

(Huyện Trìa tới)

HUYỆN TRÌA:

(nói ngoài cửa)

– Viên ngoại diễu văn tế thuyết

Môn tiền hữu ngã quan nhon

Mỏ của ra! Mau tiếp đại tân!

Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện, (nào!)

ĐỀ HẦU:

(- Chui chao!)

Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!

Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!

Nếu mà ông Huyện tri tình,

Chắc hẳn thầy Đề mang khổ

(Thầy Đề trốn, ông Huyện vào)

HUYỆN TRÌA:

– Việc thuế má, án từ quá gấp

Đêm tối tăm đường xá (lại) khó đi!

Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khi

Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sắp.

Khi sớm, tối đợi mình khổ lắm

Từ rày xin tới mụ cho liên

Gẫm đà phải nợ phải duyên,

Thôi chó làm hòn, làm giận, (nữa mà!)

THỊ HẾN:

- Nghĩ mà tủi phận

Đâu dám trách ai

 

 (Nhưng tôi nghĩ lại, như ông)

Vợ còn, còn sẵn, thiếu chi

(Mà buộc tôi không đặng?)

Trai quá gái không thường lệ

(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ.

(Nhưng mà tôi)

E chánh thể cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)

(Cho nên tôi)

Lánh một xó, lọ một nơi

Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!

HUYỆN TRÌA:

(-Ui chao! Chừ)

Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,

Nói dài lắm cũng buồn

Khuyên khuyên đừng chớ làm tuồng

Bớt bớt xin đừng nói bợm!

THỊ HẾN:

– Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp

Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?

Rượu trà hãy xin mời,

Ái ân rồi có đó.

(Bây giờ tôi xin nhờ quan)

Vốn tôi chưa rõ,

Xin hói một lời:

Người từng xem luật lệ nơi nơi

(Là) Có một việc ở đòi lạ

Rầy có chú thầy tu rất chạ

Hay đến nhà mà ve bà goá;

Đã xuất gia phá giới làm vơ,

Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?

HUYỆN TRÌA:

(-Uẩy!)

Nói làm chi việc rối

Ai có tiếc làm chi.

Phàm tu hành mà đã xuất gia,

 

Có phá giới đánh đòn phát lạc!

THẦY NGHÊU:

 (Từ gầm giường bò ra)

ĐỀ HẦU:

– Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!

Thiện xử phân! Thiện xử phân!

(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chứ thầy Đề ngồi trong

thúng mơ kia nói mới ức chó! Bẩm quan lớn!)

Chơn vi phụ mẫu chỉ dân.

(Chứ thầy Đề)

Chỉ thị dâm ô chi loại!

Như thầy tu phá giới,

Thời bất quá đánh đòn,

Còn thầy Lại phạm giam

Thật ắt là tội chết!

ĐỀ HẦU:

(Lồm cồm bò ra)

– Đầu đuôi tại mụ Hến,

Mưu mẹo bởi lão thầy tu.

Rày quan Huyện trớ trêu,

Mắc đàn bà quá tội.

Tôi cam chịu lỗi

Ai biết mà chê

Trong nha môn từ Huyện đến Đề

Còn tạo lệ không mời luôn thể!

HUYỆN TRÌA:

- Thầy Lại làm nên quá tệ,

Như nhà sư bắt chước cố trêu.

Mắc cỡ lêu lêu!

Lêu lêu mắc cố!

not on they tạo

Rất nên quái gở,

Làm việc lăng nhăng

Hễ miếng to bây quyết kiếm ăn,

Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.

Thầy Tu khá lui về cho khỏi

Để Lại mau cõng mỗ về nhà.

Dằn lòng thôi chó ngứa nghề,

Giữ dạ đừng tham của lạ.

(Hạ)

THỊ HẾN:

– Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!

Kế hoan nhiên! Kế hoạn nhiên!

Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,

Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy.

Giữ tiết hạnh một đường cho loại

Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng

(Hạ)

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá