Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng) hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:
Mời các bạn đón xem:
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng)
I. Giới thiệu
– Quê hương là nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ, trong đó có Nguyễn Trung Ngạn.
– Bài thơ “Đói trở về” được viết lúc ông đi công việc ở Trung Quốc.
II. Thân hình
Ý nghĩa của bài thơ:
+ Bài thơ được viết với niềm mong mỏi sớm được trở về quê hương của tác giả.
+ Được viết bằng những hình ảnh chân thực, bình dị nhất, mang đậm màu sắc làng quê Việt Nam.
– Hai câu thơ đầu: Hình ảnh thân thuộc của quê hương.
+ Mở đầu bằng những hình ảnh thân thuộc: Cây dâu, con tằm, bông gạo, con cua.
+ Cảnh vật, con vật thân thuộc với trẻ em lớn lên ở nông thôn
+ Hình ảnh chân thực, giàu sức gợi tả, gợi lên hình ảnh một vùng quê nghèo nhưng giàu sản vật.
+ Thi sĩ ko sử dụng những hình ảnh thông thường nhưng mà sử dụng những hình ảnh bình dị, dân dã nhất
=> Diễn tả nỗi nhớ quê hương rất chân thực, sâu lắng.
=> Góp phần khẳng định thiên hướng tầm thường hóa trong thơ cổ, phá vỡ quy phạm trang trọng trong văn học trung đại.
– Hai câu thơ cuối: Nỗi nhớ quê da diết, khát khao được trở về quê hương.
+ Hình ảnh đối lập: sóng trào lên tận lưng trời, rồi mây rơi xuống đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp.
+ Cảnh vật chuyển động dữ dội tạo nên một bức tranh vừa hùng vĩ vừa bi tráng.
– Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau tạo nên bức tranh mùa thu rộng lớn vừa âm u, vừa dữ dội, hùng vĩ.
– Bốn câu thơ sau trình bày nỗi nhớ quê hương da diết, tình cảm của những con người xa xứ.
+ Hoa cúc là loài hoa của mùa thu, là biểu tượng của sự tươi vui và sắc đẹp nhưng nhìn vào lại rơi nước mắt gợi cho thi sĩ một nỗi buồn da diết, nhìn hoa cúc lại nhớ tới mùa thu trên quê hương.
+ Từ “rơi lệ” trong bài thơ khó phân biệt được nước mắt của người hay của hoa.
+ “Cố Chu” con đò lẻ loi, lòng tác giả càng xốn xang lúc nhìn thấy con đò, nỗi nhớ quê hương da diết.
Hình ảnh con đò lênh đênh, lạc lõng là phương tiện duy nhất nhưng mà thi sĩ gửi gắm ước nguyện trở về quê hương, “hệ thống lòng người” rất đặc thù nó gắn chặt lòng người với quê hương nhờ con đò trôi về. quê hương của họ. .
+ Cảnh người dân giặt quần áo cũ, tiếng trống đánh vải rộn ràng trên sông để sẵn sàng cho mùa đông sắp tới.
– Sử dụng ko gian dài, rộng, cao vừa, sâu, thấp tới cao và từ cao xuống thấp và các ẩn dụ lạ mắt, đối xứng chặt chẽ. Văn pháp tả cảnh ngụ tình, tiếng nói tình cảm, dùng quá khứ để nói hiện nay.
– Bài thơ còn ẩn chứa trong đó tấm lòng yêu nước thâm thúy của Nguyễn Trung Ngạn, đồng thời cũng chứa đựng lòng tự hào dân tộc.
III. Hoàn thành
– Bài thơ là nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả và khát khao trở về quê hương.
– Chứa đựng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc.
– Khẳng định dù có đi đâu, về đâu thì quê hương vẫn là nơi hạnh phúc nhất để trở về.
Video Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng)
Video Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng)
Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng) – Mẫu 1
Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi, Hưng Yên), là một danh thần của nhà Trần, làm quan đến chức Thượng thư. Ông để lại tác phẩm Giới Hiên thi tập và nổi bật lên đó là bài thơ Hứng trở về (Quy hứng).
Bài thơ đã thể hiện nỗi nhớ thương quê hương da diết, nhớ những sự vật ở quê nhà:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
(Ca dao)
Những hình ảnh quen thuộc gần gũi với tác giả đó là hình ảnh canh rau muống, nhớ cà dầm tương, và những hình ảnh dầm mưa dãi nắng của thời tuổi thơ, những hình ảnh quen thuộc khiến tác giả hồi tưởng lại những cảm xúc quen thuộc đó. Tấm lòng tha thiết của mỗi người đối với quê hương mình, một tình yêu quê hương bình dị mà chân thành tha thiết. Các nhà thơ trung đại cũng viết nhiều về tình yêu quê hương, nhưng điều đáng lưu ý là ở bài thơ này, nỗi nhớ ấy được gợi lên bằng những hình ảnh vô cùng quen thuộc: cây dâu già lá rụng, nong tằm vừa chín, lúa trổ bông sớm thoang thoảng hương thơm, cua đang lúc béo… Tất cả những hình ảnh này đều rất giàu sức gợi bởi nó gắn bó máu thịt với cuộc đời của mỗi con người, nhất là với những ai sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Và nó thật gần với những hình ảnh mà tác giả dân gian đã từng lựa chọn để thể hiện tình cảm của mình. Những hình ảnh quê hương đã gắn bó máu thịt với cuộc đời tuổi thơ của tác giả, vì vậy tình yêu của tác giả đối với quê hương là rất lớn, tác giả yêu quê hương bằng cả tấm lòng của mình:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê.
Những hình ảnh ở cánh đồng quê, những bông lúa chín vàng, thơm mùi lúa chín, rồi những con cua đồng béo ngộ ngộ, những cành dâu chín rộ đỏ vàng cả góc ao, những hình ảnh làng quê vừa đẹp vừa bình dị nó mang một màu sắc và thi vị đậm đà vị ngọt của quê hương. Dù quê hương nghèo đói nhưng tác giả vẫn thích những cảm giác quen thuộc của quê hương đó là những cảm giác gần gũi, dù sống nơi phồn hoa đô thị nhưng tấm lòng yêu quê hương đất nước của tác giả cùng không hề nguôi ngoai:
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dầu vui đất khách chẳng bằng về
Sống nơi đất khách quê người dù có xa hoa, nồng nhiệt nhưng cái cảm giác khi được ở quê hương nơi mình sinh ra đó vẫn là những điều tuyệt vời nhất đối với tác giả. Phồn hoa đô hội, giàu có và mới lạ cũng không đủ sức níu giữ bước chân của li khách. Nỗi nhớ quê vẫn canh cánh bên lòng. Đỗ Phủ nhớ quê trong cảnh loạn li, nước mắt tuôn rơi bao nhiêu lần. Còn người khách li hương này lại nhớ quê khi đứng giữa chốn phồn hoa. Tình yêu đối với quê hương đất nước thật sâu nặng và thiêng liêng. Trong hoàn cảnh của tác giả, điều đó còn có ý nghĩa sâu xa hơn nỗi nhớ quê. Nó còn thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, còn khẳng định tấm lòng son sắt với quê hương của ông. Không gì có thể cám dỗ được người Việt Nam yêu nước ấy. Trong bài Hứng trở về, tình yêu quê hương đất nước không được nói bằng những ngôn từ trực tiếp mà là bằng những hình ảnh dân dã quen thuộc đối với mỗi chúng ta. Xa quê có ai không xúc động khi nghĩ về nong tằm, ruộng dâu, nghĩ về những ruộng lúa với những bông lúa mới trổ hoa hương đưa thoang thoảng hay nghĩ về một bữa canh cua giản dị mà ngon ngọt đến khó phai. Tình yêu quê hương được tác giả nhớ lại qua những hình ảnh quen thuộc rất đỗi thân thương đó là những khoảnh khắc khó quên của tác giả đối với quê hương của mình.
Bài thơ Hứng trở về đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc bởi nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ, những hình ảnh quê hương quen thuộc đã gợi ra nhiều thi vị cho quê hương những màu sắc quê hương trong sáng dịu ngọt.
Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng) – Mẫu 2
“Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu”
Nguyễn Trung Quân đã từng băn khoăn hỏi lại như thế, quê hương là gì mà ai cũng phải nhớ, phải yêu, phải tìm về dù có đi tới bất cứ đâu. Quê hương – hai tiếng đơn giản, mộc mạc ấy lại chứa đựng biết bao ý nghĩa. Không ít những nhà văn nhà thơ luôn tìm thấy một nguồn cảm hứng dạt dào mỗi khi nhắc tới quê hương của mình và Nguyễn Trung Ngạn cũng vậy. Trong một lần đi sứ bên Trung Quốc, ông đã sáng tác lên tác phẩm “Hứng trở về” – Quy hứng để bày tỏ nỗi nhớ quê hương tha thiết và ước mong được mau chóng trở về quê nhà.
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dầu vui đất khách chẳng bằng về”.
Nguyễn Trung Ngạn sáng tác bài “Hứng trở về” khi đang đi sứ ở Giang Nam – Trung Quốc. Cuộc sống của một vị sứ giả cũng đầy đủ, tiện nghi, thế nhưng, dù có bao nhiêu bổng lộc, vinh hoa chốn quê người, lại chẳng bằng những gì dân dã, mộc mạc nhất của quê hương. Vậy nên, nhà thơ đã dùng những hình ảnh quen thuộc nhất của làng quê Việt mà dựng lại bức tranh về nỗi nhớ nhà của mình.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trung Ngạn đã cho chúng ta thấy nỗi nhớ quê của ông da diết như thế nào. Nỗi nhớ ấy đến từ những vật, những thứ tưởng chừng như đơn giản nhất, chất phác nhất:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê”.
Hai câu thơ mở đầu toàn là những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê ta, nào là cây dâu, con tằm, những bông lúa đang trổ bông, một đàn cua béo. Phải nói, đây là những hình ảnh sớm đã in đậm vào tâm trí của những đứa trẻ lớn lên bên lưng trâu, lớn lên bên những cánh đồng lúa bát ngát, rộng lớn. Những hình ảnh này là những dòng hồi tưởng của Nguyễn Trung Ngạn về quê nhà, ông đang nhớ quê hương, nhớ từ những vật đơn thuần nhất, quen thuộc nhất với tuổi thơ của mình. Sự liệt kê một loạt những cảnh vật ấy cho thấy nỗi nhớ đang cuộn lại, bùng lên trong sâu thẳm con người ông. Nỗi nhớ ấy cũng rất cụ thể, rất chân thực, tưởng chừng như còn gợi lên mùi vị của bông lúa thơm, của những con cua béo tốt với bát canh riêu của mẹ. Thật là những hình ảnh giàu sức gợi tả, bởi nó là máu, là xương, là thịt, gắn bó với cuộc đời của bất cứ đứa trẻ nào đã từng lớn lên ở vùng nông thôn. Như cha ông ta cũng từng thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết ấy vào từng câu chữ:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”.
Từng món ăn quen thuộc, từng cảnh vật thân thương, chỉ vậy thôi cũng gợi lên biết bao nhiêu là nỗi nhớ trong lòng một kẻ đang xa quê. Nỗi nhớ ấy thật dạt dào, thật sâu sắc! Ở đây, Nguyễn Trung Ngạn không sử dụng bất cứ một hình ảnh ước lệ tượng trưng nào của thi ca cổ, ông chỉ đưa vào thơ của mình những hình ảnh bình dị nhất, quen thuộc nhất để gợi lên nỗi nhớ quê hương trong ông. Điều này đã góp một phần không nhỏ khẳng định xu hướng bình dị hóa trong nền thơ ca trung đại, phá vỡ quy phạm trang trọng vốn có trong thơ ca cổ điển. Nếu như ai đã từng đọc qua những bài thơ cổ, có thể thấy, văn chương cổ rất chú trọng sự trang trọng của lời thơ, sử dụng rất nhiều hình ảnh ước lệ để tăng tính tao nhã và thâm thúy cho lời thơ. Như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta thấy những hình ảnh ước lệ như:
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Thế nhưng, Nguyễn Trung Ngạn đã phá vỡ quy phạm này để sáng tạo nên một nỗi nhớ quê thật bình dị, khiêm nhường mà không kém phần sâu sắc.
Sang hai câu cuối, người đọc lại càng cảm nhận sâu sắc hơn nỗi nhớ quê của ông:
“Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dầu vui đất khách chẳng bằng về”.
Đi sứ là một công việc tuy có gian khổ nhưng lại được hưởng rất nhiều bổng lộc, được hưởng vinh hoa, cũng như được thưởng thức nhiều danh lam thắng cảnh, món ăn của các nước khác, thế nhưng điều đó chẳng làm cho Nguyễn Trung Ngạn cảm thấy vui sướng hơn. Bởi hình ảnh của những cánh đồng lúa thơm mùi lúa chín, vị ngon của những con cua đang thời béo tốt, những đàn tằm ăn lá,… cứ quanh quẩn trong tâm trí ông. Quê hương tuy có nghèo, tuy chẳng sang trọng, nhưng cái đẹp, cái bình dị, thân thương mà nó mang đến lại chẳng nơi nào sánh bằng.
Tuy đang được sống nơi đất khách xa hoa, náo nhiệt, thế nhưng cái cảm giác được sống ở quê hương vẫn là điều tuyệt vời nhất với ông. Những phồn hoa, phú quý chẳng đủ sức níu kéo bước chân của người xa quê. Li khách với nỗi nhớ quê canh cánh trong lòng, chẳng thể nào nguôi. Chẳng thế, ông đã ngầm so sánh giữa việc được ở nhà và việc đi sứ, rằng cuộc sống ở quê nghèo nhưng vui vẻ hạnh phúc, cuộc sống nơi đất khách sung sướng nhưng “chẳng bằng về”. Nhà thơ đang mong mỏi được trở lại quê hương, được mau chóng trở về nhà để được sống ở nơi có những hình ảnh bình dị, thân thương. Hai câu thơ đều sử dụng biện pháp so sánh, thế nhưng lại ở hai tầng nghĩa khác nhau, mang hai cảm xúc khác biệt. Nhà thơ nhắc về quê với niềm vui, hạnh phúc, còn nhắc về nơi “đất khách” với nỗi sầu không nguôi.
Qua những câu chữ của bài thơ “Hứng trở về”, người ta thấy ẩn chứa trong từng câu chữ của ông là một nỗi nhớ quê hương tha thiết, một tình yêu đất nước sâu nặng. Không chỉ thế, ông còn đặt vào đó niềm tự hào dân tộc thông qua những hình tượng thơ hết sức chân thực và bình dị, mang dấu ấn đậm nét của quê hương Việt Nam. Bằng những ngôn từ dân dã nhất, Nguyễn Trung Ngạn đã gợi lên trong lòng tất cả chúng ta một tình yêu nước, yêu quê hương đến tha thiết, thật xúc động. Những hình ảnh về những nong tằm, những vườn dâu xanh, những cánh đồng lúa chín, vị ngon của món canh cua sẽ in đậm vào sâu trong tâm trí chúng ta thật khắc khoải, khó quên.
Khép lại bài thơ, người đọc chúng ta không khỏi cảm động với nỗi nhớ quê hương thật sâu sắc mà bình dị, chân thành của Nguyễn Trung Ngạn. Tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào tự tôn dân tộc trong lúc đi sứ xa quê chính là niềm cảm hứng để ông viết nên tác phẩm đặc sắc này. Qua đó, Nguyễn Trung Ngạn cũng muốn nói với chúng ta một triết lý sâu sắc rằng: Chúng ta có nhiều nơi để đi nhưng chỉ có một chốn để trở về, và đó là quê hương!
Cảm nghĩ về bài thơ Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn của Nguyễn Trung Ngạn.
Cảm nhận bài thơ Hứng trở về (Quy hứng) – Mẫu 3
Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370) đỗ Hoàng Giáp năm 16 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư thời nhà Trần. Ông còn để lại "Giới Hiên thi tập " bằng chữ Hán.
Bài thơ "Quy hứng" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, sáng tác trong thời gian Nguyễn Trung Ngạn đi sứ sang triều nhà Nguyên, Trung Quốc.
"Quy hứng" thể hiện nỗi nhớ gia đình, quê hương với bao niềm tự hào của một người đang sống nơi đất khách quê người:
"Lão tang điệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc, bất như quy"
Hai câu đầu nói lên bao nỗi nhớ của khách tha hương: Nhớ lá dâu già cuối vụ, vàng sẫm rụng khắp các nương bãi, nhớ những lứa tằm vừa chín vàng óng, vàng khươm trong nhà, ngoài sân, nhớ lúa sớm trổ trắng phau cánh đồng dâng hương ngào ngạt, nhớ vị béo đậm cua đồng, Thời gian mà nhà thơ nói lên nỗi nhớ đó là tháng tư hay tháng mười? Có hai chi tiết: "Dâu già lá rụng" và "cua béo" cho ta biết đó là vào dịp tháng mười khi gió heo may đã thổi về. Khí trời lành lạnh ấy càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê thêm phần thấm thìa:
"Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì"
(Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sơm bóng thơm, cua béo ghê)
Các chi tiết nghệ thuật như dâu, tằm, hương lúa sớm, cua béo, đều là cảnh vật đồng quê, màu sắc, hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Thật là bình dị, mộc mạc, dân dã. Khách li hương xứ sở mới có nỗi nhớ ấy. Cảnh vật ấy, hương vị ấy đã trở thành máu thịt, tâm hồn của nhà thơ.
Nỗi nhớ của ông quan đi sứ trong thế kỉ XIV sao giống nỗi nhớ của anh trai cày ngày nay thế? Cũng là nỗi nhớ hương vị đậm đà quê hương:
"Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương"
(Ca dao)
Và nỗi nhớ của người lính chiến:
"Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng "
(Mắt người Sơn Tây - Quang Dũng)
Qua đó, ta càng thấy rõ nỗi nhớ gia đình quê hương là nỗi nhớ đẹp, thể hiện tấm lòng thủy chung của con người Việt Nam chúng ta.
Trở lại hai câu cuối bài thơ, ba chữ "bất như quy" vang lên như một mệnh lệnh của tâm hồn:
"Kiến thuyết tại gia bần diệc hào,
Giang Nam tuy lạc bất như quy".
(Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách, chẳng bằng về)
Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản so sánh rất lí thú: "bần diệc hảo " (nghèo vẫn tốt), "gia bần" với "GiangNam tủy lạc". Cái "vui " quê người sao bằng cái "nghèo " của quê hương? Tình nghĩa của khách li hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn thật vô cùng sâu nặng. Giang Nam là đất đô hội; quan sứ được đón tiếp linh đình, thiếu gì dê béo rượu ngon, thế mà đêm ngày lòng vẫn nhủ lòng: "bất như quy " - chẳng bằng về.
Cảm xúc "quy hứng" dào dạt vần thơ. Tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc thấm vào từng câu chữ, từng vần thơ.
"Quy hứng" là một bài thơ hay và cảm động. Hay vì cái tình của khách ly hương. Hay vì lời thơ mộc mạc, giản dị mà ý vị thì sâu sắc đậm đà. Sau vần thơ là cả một tình quê vơi đầy, một tâm hồn rộng mở thủy chung.
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.