Top 50 bài Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán đặc sắc của Nguyễn Du thể hiện sự thương xót cho số phận của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh.

– Khát quát những cảm nhận chung về tác phẩm đó: Là bài thơ hay và đem lại nhiều suy tư trong lòng người đọc

II. Thân bài

1. Hai câu đề: Cơ duyên gặp gỡ của Nguyễn Du và Tiểu Thanh.

– “Tây Hồ”: Nơi nổi tiếng với cảnh đẹp và cũng là nơi diễn ra cuộc đời buồn tủi của Tiểu Thanh.

– “Tẫn thành khư”: Cảnh đẹp Tây Hồ trở nên hoang vắng, trơ trụi đìu hiu.

→ Cái đẹp tự nhiên bị hủy hoại cũng chính là sự hủy hoại của cuộc đời Tiểu Thanh.

– Hình ảnh “mảnh giấy tàn”: Mảnh giấy còn xót lại của thơ Tiểu Thanh

→ Cái đẹp tài hoa, cái đẹp nghệ thuật, những giá trị tinh thần bị hủy hoại.

– Tâm trạng của nhà thơ “thổn thức”

→ Xúc động, nghẹn ngào, hẫng hụt, mất mát trước sự lụi tàn của cảnh và vật.

Hai câu thơ tái hiện lại cảnh và vật ở Tây Hồ – bị tàn lụi theo thời gian, điều đó làm nảy sinh nỗi xót xa, tiếc nuối cho Nguyễn Du

Nguyễn Du là người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm.

2. Hai câu thực: Cuộc đời và số phận Tiểu Thanh.

– Hình ảnh ẩn dụ: “Son phấn”, “văn chương”

     + “Son phấn”: Tượng trưng cho sắc đẹp của Tiểu Thanh

     + “Văn chương”: Gợi tài năng và tâm hồn của nàng Tiểu Thanh

→ Hai hình ảnh nhắc tới nỗi đau muôn thuở của những kiếp “hồng nhan bạc phận”.

→ Liên hệ đến số phận nàng Kiều, Đạm Tiên, người cung nữ, ca kĩ trong những sáng tác của Nguyễn Du đều có chung số phận với Tiểu Thanh, xinh đẹp tài năng nhưng phải chịu bất hạnh.

– Nguyên nhân của sự bất hạnh

     + “Son phấn có thần chôn vẫn hận”: “Thần” – thần thái, linh hồn và sự linh thiêng của người đã khuất, “hận” – đau khổ, xót xa không được siêu thoát.

→ Tiểu Thanh có chết cũng vẫn không thể giải thoát khỏi bể khổ của cuộc đời.

     + “Văn chương vô mệnh đốt còn vương”: Văn chương là vật vô tri cũng bị đốt bỏ, nhưng nó vẫn có sức sống lâu bền

→ Văn chương Tiểu Thanh còn xót lại khiến người đời sau thấu hiểu tài hoa của nàng.

→ Tiểu Thanh chỉ có thể bị vùi dập về thể xác, tâm hồn và tài năng của nàng thì còn mãi với thời gian.

Hai câu thơ tái hiện cuộc đời tài hoa, bạc mệnh của Tiểu Thanh, đồng thời cho thấy sự thương xót, đồng cảm của Nguyễn Du.

3. Hai câu luận: Cảm nhận chung về kiếp người tài hoa

– “Nỗi hờn kim cổ”: Nỗi oan khuất tồn tại xuyên suốt bao nhiêu thế hệ. Đó là nỗi oan của Tiểu Thanh nói riêng, nỗi oan của con người tài hoa bạc mệnh nói chung

– “Trời khôn hỏi”: Nỗi oan lạ lùng, không thể hỏi trời

→ Nỗi xót xa đau đớn, bất lực của Nguyễn Du trước hiện thực ngang trái.

– “Phong lưu”: Phong vận, phong thái của con người tài hoa

– “Án phong lưu”: Cách gọi thể hiện sự đau đớn của Nguyễn Du về tài hoa và nhan sắc, là bản án, hình phạt mà kẻ bất hạnh phải gánh lấy.

– “Khách tự mang”: Đồng nhất phận mình với phận kẻ tài hoa. Đau khổ, bất hạnh bởi chính sự đồng cảm của kẻ liên tài.

→ Sự đồng cảm cao độ, thương người như thương mình, thương mình lại càng thương người của Nguyễn Du.

4. Hai câu kết: Câu hỏi của Nguyễn Du

– Nội dung câu hỏi: Hỏi Tiểu Thanh nhưng thực chất là hỏi đời, hỏi chính mình.

     + Khoảng thời gian 300 năm: Không chỉ là con số ước lệ mà là khoảng cách thời đại của Tiểu Thanh và Nguyễn Du.

→ Nguyễn Du tạo mạch nối trong suy tưởng từ 300 năm trước đến 300 năm sau để tìm một tâm hồn, một tiếng nói đồng điệu.

     + Nguyễn Du băn khoăn bây giờ ông đứng đây để thương xót, đồng cảm với cuộc đời, văn chương Tiểu Thanh, 300 năm nữa có ai thấu hiểu được ông.

– “Tố như” – tên tự của nguyễn Du: Tự xưng tên mình trong thơ chính là cách để ông thể hiện cái tôi chính mình – cách viết hiếm có trong văn học trung đại.

Thể hiện tâm trạng cô đơn, lo lắng, buồn rầu, bất an của Nguyễn Du. Muốn được khẳng định bản thân nhưng không thể.

5. Nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn bát cú, ngắn gọn, xúc tích

– Nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ, biện pháp ẩn dụ

– Ngôn ngữ triết lí trữ tình.

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Mở rộng: Đề tài về người phụ nữ, về những số phận tài hoa bạc mệnh trong thơ Nguyễn Du rất phong phú. Liên hệ Truyện Kiều, Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du.

Video Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích

Video Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 1

Nhà thơ Thanh Hải đã sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ khi ông đang nằm trên giường bệnh. Có lẽ ít ai có thể tưởng tượng một bệnh nhân lại có thể miêu tả về mùa xuân hay đến như vậy. Bài thơ thể hiện sự trong trẻo, thiết tha của một con người luôn khát khao sống, khát khao cống hiến. Bài thơ không miêu tả mùa xuân của thực tại mà là mùa xuân qua sự chiêm nghiệm về cuộc sống của tác giả. Mùa xuân ấy tươi đẹp với đầy đủ màu sắc và thanh âm.

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ với cách ngắt nhịp nhanh, gọn. Nó khiến cho lòng người đọc có cảm giác rộn ràng, náo nức. Âm thanh trong bài thơ là âm thanh tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Màu sắc trong bài thơ là màu sắc tươi sáng, tràn đầy sức sống. Mùa xuân hiện lên tràn đầy tình yêu thương của thiên nhiên và con người.

Tác giả không chỉ miêu tả mùa xuân của thiên nhiên mà còn miêu tả mùa xuân của con người. Tác giả đã cảm nhận mùa xuân trong sự căng đầy của nhựa sống và trong nhịp sống hối hả của con người. Sự hòa quyện giữa các màu sắc xanh, tím tạo nên một không gian yên bình. Bông hoa tím mọc trên dòng nước xanh thể hiện sự gắn kết chặt chẽ và cho thấy một sức sống mãnh liệt. Tiếng chim hót vang lên trên bầu trời thể hiện một khung cảnh của hòa bình. Tiếng chim như nhịp thở của đất trời, nó vang lên như giọt tâm hồn của con người. Tiếng hót như mời gọi và đánh thức khát khao của con người, thôi thúc con người muốn nắm lấy, hứng lấy.

Dù đang nằm trên giường bệnh nhưng nhà thơ không tách mình ra khỏi mùa xuân ấy. Ông cũng hòa chung vào sự chuyển mình của đất nước. Trong không khí ấy, mỗi con người đều đóng góp một phần sức mình. Mùa xuân ấy nằm trên lưng những người lính, nằm trong tay những người nông dân. Người nông dân gieo mầm non như gieo lên mùa xuân mới. Nhịp sống trở nên hối hả, khẩn trương và rất xôn xao nhộn nhịp. Với truyền thống hơn 4 nghìn năm dựng nước và giữ nước, con người của thời đại mới như được tiếp thêm niềm tin. Dù vất vả và gian lao vẫn còn đó thì con người vẫn cứ vững tin mà bước về phía trước.

Bài thơ đã tạo nên một bức tranh đủ hình ảnh, âm thanh, màu sắc. Bức tranh ấy căng tràn sức sống và một điều đặc biệt là nó được cảm nhận trong những ngày cuối đời của nhà thơ. Là bệnh nhân nhưng tác giả không u buồn mà ngược lại ông đón nhận tất cả những thanh âm của cuộc sống. Bức tường của bệnh viên không ngăn cản được ý chí và sự yêu đời của tác giả. Khép lại bài thơ là ước nguyện của tác giả, một ước nguyện chân thành, mãnh liệt. Ước nguyện của ông đơn giản là muốn làm nhành hoa, muốn làm con chim, muốn làm nốt trầm. Thế nhưng những ước nguyện ấy đều xuất phát từ mong muốn làm đẹp cho cuộc đời.

Đọc Mùa xuân nho nhỏ, chúng ta như tìm thấy lý tưởng sống cho mình. Thiết nghĩ bất cứ ai cũng nên thuộc lòng bài thơ này để thấy cuộc sống ý nghĩa thế nào.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 2

Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ là chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn nhạy cảm. Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng đẹp, Bác đã sáng tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”

Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dủ ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy động tả một khung cánh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết

“Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”

Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vĩ lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy

“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lõi chiếu vào lá và hoa tạo nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bong trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cậy cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ với vẻ đẹp của trăng

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”

Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì

“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”

Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực, lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước. Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm nghưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khoả, bớt đi sự vất vả mà Bác phải chăng chở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con người thoả sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những vần thơ hay  đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 3

Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh tuý nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.

Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của “con chim chiền chiện” để góp nên một “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương.

Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.

Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của “sông xanh” và “hoa tím biếc”, tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những “giọt tâm hồn” sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn “đưa tay hứng”.

Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở “sức xuân” của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước “vẫn đi lên phía trước” với một quyết tâm không mệt mỏi.

Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.

Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.

Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 4

Mỗi tác phẩm đều để lại những dòng chảy qua tâm hồn ta, bồi đắp cho ta những tình cảm cao quý, thiêng liêng của tâm hồn con người, để từ đó hướng ta đến thế giới của chân thiện mĩ. Và trong cái tháp ngà văn chương ấy, trong cái mùa thu là thơ của đất trời, thơ là thu của hồn người tôi vẫn bị ám ảnh bởi những vần thơ của Hữu Thỉnh trong bài Sang Thu. Bài thơ đã diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc những cảm nhận tế vi của mình trong thời khắc giao mùa khi thu sang.

Mở đầu bài thơ, Hữu Thỉnh đã đưa con tàu không gian của mình ngao du trong không gian tinh tế của làng quê lúc sang thu. Một hồn thơ tinh tế được bộc bạch, góp phần làm tăng thêm tình yêu thiên nhiên, quê hương:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.”

Vẫn là mùa thu ấy, mùa thu đã làm say đắm suối rượu nguồn tình của bao thi nhân, từ Tam thu bất biến của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, hay Thu Hứng của Đỗ Phủ đến Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, là một lần người đọc được khám phá những đắc sắc và hương vị riêng của mùa thu. Đến Hữu Thỉnh, mùa thu lại khoác lên mình một chiếc áo mới, trong không gian quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, nhà thơ bỗng tinh tế nhận ra mùi hương ổi chín. Đó là mùi vị ngọt ngào, nồng nàn thanh mát của quê hương, của những tâm hồn đã chắt chiu vun trồng nên hương ổi. Dó là hương vị que thuộc, bình dị gợi nhắc đến màu thu quê hương. Không phải là lá ngô đồng như trong thơ cảu Bích Khuê, cũng không phải là hương cốm trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, bằng cảm nhận và tình yêu quê tha thiết, hương ổi đã phả vào tâm hồn nhà thơ, đánh thức những ảm nhận riêng để ngỡ ngàng nhận ra mùa thu đã đặt chân xuống trần gian tuyệt diệu. Nhưng hương ổi mạnh mẽ, ngọt ngào phả vào trong gió se, càng làm quyện đọng vị ngọt và sánh mịn của hương ổi. Nhưng Hữu Thỉnh cũng cho ta những cảm nhận về đám mây khi thu chớm sang: “sương chùng chình qua ngõ.”

Hữu Thỉnh lại tiếp tục gây ấn tượng với người đọc bởi những chất liệu để làm nên trang hoa, tờ hoa của Sang Thu. Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất, là sắc đẹp của nữ hoàn nghệ thuật để làm quen với độc giả, và nhà thơ thu của chúng ta đã sáng tạo tài tình được ngôn ngữ giàu sức gợi qua từ “chùng chình”, diễn tả vẻ đẹp mộng mơ, duyên dáng và yêu kiều như nàng thiếu nữ đang e ấp duyên dáng bao quanh xóm làng. Cảnh vật không gian làng quê ngập chìm trong màn sương khói mờ ảo, giăng mắc như làm thiên nhiên thêm huyền ảo, lung linh hơn. Một bức tranh thủy mặc như được tạc dựng. Và trước hương ổi trong gió se, trước đám mây chùng chình kia, thi nhân của chúng ta ngỡ ngàng “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng bâng khuâng, man mác của nhà thơ, cũng như vẻ ngờ ngợ không dám tin rằng thu đã về đấy rồi. Đó là sự luyến tiếc của âm hồn thi nhân, vừa ngỡ ngàng với thu sang, vừa luyến tiếc khi hạ đã rời đi. Quả là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, là sự cảm nhận tinh tế của thiên nhiên mùa thu trong không gian đất trời. Sự tinh tế và tấm lòng khát khao giao cảm, muốn nắm bắt sự thay đổi của vạn vật đã được bộc lộ rõ:

“ Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Sự tinh tế của tác giả tiếp tục được khơi nguồn bằng những cảm hứng rất riêng về thiên nhiên đất trời khi thu sang. Dòng sông mùa thu không còn vẻ vội vàng, gấp gáp và chảy xiết như trong những ngày hạ, sông êm đềm, tĩnh lặng, yên ả uốn mình hiền hòa sau lũy tre xanh xanh của làn quê. Những cánh chim bắt đầu, cho thấy sự quan sát rát tinh của Hữu Thỉnh khi nhận ra sự chuyển dời của đàn chim tìm nơi trú ẩn cũng là dấu hiệu nhắc thu sang. Và đám mây kia chính là điểm nhấn cho nền trời, cho bức tranh thiên nhiên quyến rũ, xinh tươi ấy. Đám mây vắt nửa mình, dường như cũng đang chứa đựng sụ lưu luyến, bịn rịn. Đám mây giống như cây cầu nối liền giữa mùa hạ và mùa thu để ngân rung mãi lên một nhịp riêng của đất trời, nhịp giao thời, nhịp chuyển mùa. Thu sang trong bao nhiêu của thi ca muôn thuở, nay trở về trong những câu thơ ủa Hữu Thỉnh sao vẫn đắm đuối, si mê lòng người như thế. Vậy là mùa thu trong không gian làng quê được cảm nhận mới tinh tế và nên thơ làm sao. Chỉ có thể yêu thiên nhiên lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ nên một bức tranh thật đẹp, thật duyên đến vậy.

Nhưng những cảm nhận tinh tế, những ngôn ngữ giàu sức gọi chưa phải là yếu tố đủ để Hữu Thỉnh làm nên giá trị cho bài thơ của mình, bởi giá trị của một tác phẩm trước hết ở giá trị tư tưởng của nó, và một lần nữa những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời mỗi con người lại khẳng định tài năng và tấm lòng của nhà thơ:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”.

Không chỉ bằng tài năng và kĩ thuật, Hữu Thỉnh còn có một trái tim trìu máu đất và những tháng năm kinh nghiệm cuộc đời đã gửi đến cho người đọc những chiêm nghiệm sâu sắc về nhân sinh Hữu thỉnh đã gửi đến chúng ta những thông điệp thật ý nghĩa. Hình ảnh “nắng, mưa, sấm” là biểu tượng cho những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời mà con người đã trải qua, khi đã đi qua bao nhiêu nắng mưa, bao nhiêu giông tố, con người dường như cũng trở nên điềm đạm, bình tĩnh hơn trước những thử thách, trông gai của cuộc đời. Con người khi trưởng thành “hàng cây đứng tuổi” sẽ không còn những bồng bột, sôi nổi và sự liều lĩnh của tuổi tre mà sẽ lắng mình xuống để suy ngẫm và chiêm nghiệm, cũng sẽ không để những sóng gió cuộc đười quật ngã mỗi bước đi. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà Hữu thỉnh gửi gắm.

Thế là một lần nữa, quê hương và thiên nhiên thu sang tươi đẹp lại được khoác lên mình tấm áo mới qua cách sáng tạo của Hữu Thỉnh. Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hoà ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.

Mỗi mùa lại có những hương sắc riêng và mỗi bài thơ, mỗi tài năng văn học đã góp phần làm nên điều ấy. Sang Thu của Hữu Thỉnh đã góp một tiếng nói riêng, đằm thắm vào một góc sang thu.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 5

Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đời thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ, Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời.

Ở tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mĩa, nhưng hình bóng quê hương luôn in đạm trong tâm khảm ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy.

Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương

Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo. Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ.

Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó với ông suốt đời và được ông coi là tri âm, tri kỉ.

Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy cục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông… Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng là ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muốn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ:

“Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương”

(Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương)

Đây là bài thơ tứ tuyệt tường đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện.

Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận.

Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu).

Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rướm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ.

Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng. Vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên vầng trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương.

Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh tẳng bàng bạc như phủ sương trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc:

“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương”

(Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương)

Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn thể hiện rất rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động.

Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng, thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào!

Với bài thơ Tĩnh dạ tư, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê, thao thức nhìn trăng sáng. Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đối nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư.

Hai câu thơ sau đối ý, đối thanh thật chỉnh. Nhà thơ đã sáng tạo trên cơ sở một câu dân ca quen thuộc: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng), chỉ thay từ ngưỡng bằng từ cử, từ khán bằng từ vọng. Câu thơ của Lí Bạch là: Cử đầu vọng minh nguyệt. Cũng vẫn giống nhau ở tư thế ngẩng đầu nhìn trăng sáng nhưng cái nhìn trong câu dân ca mang tính khách quan, còn cái nhìn trong thơ Lí Bạch lại đậm tính chủ quan. (Khán: nhìn, ý nghĩa trung hòa. Vọng: nhìn xa, ý nghĩa biểu cảm). Vọng minh nguyệt là cố nhìn ra xa để thấy cho rõ vầng trăng sáng. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhua nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day dứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng tẳng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê huwong thiết tha, khắc khoải… luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch.

Câu thơ cuối mở ra một thế giời mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy áp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhua cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc dã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc.

Bố cục bài thơ hết sức chặt chẽ, thể hiện tài năng của nhà thơ. Hai câu đầu diễn đạt ý: Ngỡ anh trăng đầu giường là sương phủ trên mặt đất. Nghi là động từ liên kết ý của hai dòng thơ. Ngoài ra các động từ khác (cử, vọng, đê, tư) đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc liên kết các câu trong bài. Giữa các động từ có quan hệ chặt chẽ: Nghi (thị địa thượng sương) – Cử (đầu) – vọng (minh nguyệt) – Đê (đầu) – tư (cố hương).

Trong bốn câu thơ, tuy các chủ ngữ đều bị lược bỏ nhưng nguười đọc vẫn có thể nhận ra chủ thể trữ tình là tác giả. Điều đó tạo nên tính thống nhất, liền mạch trong cảm xúc thơ.

Về mặt ngữ pháp, có thể xem đây là một hình thức câu thu gọn. Trong thơ, việc lược bỏ chủ ngữ – đặc biệt là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất làm cho sức cộng hưởng của thơ tăng lên rất nhiều. Ở Tĩnh dạ tư, ta có thể hiểu chủ thể trữ tình là Lí Bạch, nhưng cũng có thể là bất cứ ai khác. Trong điều kiện xã hội tương tự, ở những tình huống tương tự, với quan niệm sống và vốn văn hóa tương tự thì đều có thể xuất hiện cảm nghĩ tương tự. Đó chính là tính chất điển hình của cảm xúc trong thơ trữ tình.

Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Tĩnh dạ tư giản dị, tự nhiên, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Tài thơ Lí Bạch là “tuyệt diệu ở chỗ đạm bạc”. Hay như nhận xét của Hồ Ứng Lân, một nhà phê bình đời Minh: Thuận miệng nói ra mà thành tho, tuyệt không có dụng ý dụng công, song không có chỗ nào là không tinh xảo.

Qua bài thơ này, Lí Bạch đã bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diêt. Tình cảm chân thực và sâu đậm ấy thực sự đã gây xúc động cho người đọc, truyền đến chúng ta nỗi thổn thức, bâng khuâng khó tả. Tình cảm quê hương ngày nay mặc dù đã mang những nét mới của thời đại song những bài thơ trữ tình xuất sắc về quê hương của các nhà thơ trong quá khứ vẫn tạo được sự cộng hưởng sâu xa, vẫn có tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng, xây dựng nhân cách con người.

Trương Minh Phi, một nhà phê bình thơ Đường đã nhận xét bài thơ này như sau: “Trong loại thơ nhìn trăng mà thổ lộ tâm tình nhớ quê, bài có khuôn khổ nhỏ nhất, ngôn từ đơn giản tinh khiết nhất là Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch, song bài có ma lực lớn nhất, được truyền tụng rộng rãi nhất cũng là bài Tĩnh dạ tứ ấy”.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 6

Mùa thu, mùa luôn gợi biết bao nhớ thương trong lòng người. Tiết trời không còn những cơn mưa phùn của mùa xuân, không nóng bức như mùa hạ và không còn cái giá lạnh của mùa đông. Mùa thu là sự hài hòa của tất cả các mùa trên, cũng bởi vậy mà tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân viết về đề tài mùa thu rất nhiều. Trong số những bài thơ viết về đề tài này ta không thể không nhắc đến Sang thu của Hữu Thỉnh. Bằng một vài nét bút tài hoa ông đã phác họa những biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu.

Thu sang lòng ai chẳng vương vấn, bởi chút hoa sữa nồng nàn, bởi hương cốm mới tinh khôi, mỗi người, mỗi thi nhân đều có những dấu hiệu riêng để cảm biết mùa thu. Mùa thu là mùa của cây ngô đồng, lá phong đỏ trong thơ cổ:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng chi thu

Hay mùa thu với dáng liễu thướt tha trong thơ Xuân Diệu:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Còn với Hữu Thỉnh thì sao, ông lấy dấu hiệu gì trong vô vàn những tín hiệu trên để cảm nhận khoảnh khắc thu sang. Chúng ta hẳn sẽ cảm thấy thật bất ngờ trước những cảm nhận c, tín hiệu của riêng ông khi mùa thu đến:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Tín hiệu báo thu về của ông thật đặc biệt. Có lẽ lần đầu tiên trong thi ca mới lấy tín hiệu hương ổi bình dị, dân dã để báo hiệu thu đã sang. Hương ổi nhẹ nhàng đi cùng với từ “bỗng” gợi cho ta cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng. Dường như một buổi sáng thức dậy, bỗng thấy bước chân thu ngập ngừng trước ngõ. Hương thu “phả” vào gió se se lạnh, làn hương ngọt ngào, đậm đà như sánh lại. Không chỉ vậy, hương ổi còn gợi nên điều gì đó rất đỗi thân thuộc, yêu dấu của làng quê Việt Nam, hương thu của Hữu Thỉnh thật lạ, thật độc đáo. Bằng đôi mắt nhạy bén của người nghệ sĩ, Hữu Thỉnh còn nhận thấy những làn sương mỏng nhẹ, “chùng chình” đi qua ngõ. Với nghệ thuật nhân hóa đã có thấy dáng vẻ, tâm trạng của những làn sương thu. Chúng đi chậm chạp, như còn lưu luyến, luyến tiếc điều gì đó của mùa hạ, nửa muốn sang thu, mà nửa lại muốn ở lại.

Đối diện với khoảnh khắc thu sang, lòng người cũng ngỡ ngàng, dường như còn chưa tin rằng thu đã về: Hình như thu đã về. “Hình như” nhân vật trữ tình còn băn khoăn, chưa chắc chắn, bởi những tín hiệu thu về vẫn còn mơ hồ và ít ỏi quá. Có lẽ cần những tín hiệu rõ ràng hơn, đầy đủ hơn như là một xác tín cho mùa thu. Chỉ với hương ổi, làn gió se và chút sương lãng đãng, nhân vật trữ tình đã mơ hồ, mong manh nhận ra những dấu hiệu của mùa thu, qua đó cũng cho thấy tâm hồn tinh tế nhạy cảm của thi nhân. Lời thơ vừa ngỡ ngàng, vừa reo vui trước khoảnh khắc thu sang.

Không gian mở rộng dần, không chỉ còn là không gian thôn vườn, ngõ xóm mà đã có sự rộng mở ra không gian sông nước, bầu trời: Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã. Con sông tất bật với dòng phù sa nhuốm đỏ, ngày đêm cuồn cuộn chảy đã được thay thế bằng con sông hiền hòa hơn, tĩnh lặng hơn, dòng sông khi sang thu trở nên trong trẻo, êm đềm. Nghệ thuật nhân hóa khiến con sông dường như được nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả. Đây đồng thời cũng là hình ảnh của con người được nghỉ ngơi sau bao khói bom, lửa đạn chiến tranh. Vận động ngược chiều với con sông chính là những cánh chim tất bật vội vàng bay về phương Nam tìm hơn ấm, tránh cái lạnh của mùa đông phương Bắc sắp đến. Tâm hồn ông thật tinh tế và nhạy bén, bởi đã nhận ra những biến chuyển tế vi nhất của thiên nhiên vạn vật.

Nhưng có lẽ hình ảnh đẹp nhất, ấn tượng nhất chính là hình ảnh: Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Đám mây mùa hạ được hữu hình hóa, vừa thực lại có nét gì đó rất hư ảo, đã tái hiện được những bước đi của thời gian. Nhưng cái đặc sắc hơn chính là việc Hữu Thỉnh lấy cái hữu hình là đám mây để nói về cái vô hình là thời gian. Thời gian một khái niệm trừu tượng, không thể nắm bắt, đo đếm vậy mà có cái “vắt mình” của đám mây dường như thời gian hạ – thu đã có ranh giới rõ ràng, hữu hình. Đám mây trở thành cầu nối giữa hai mùa, khiến chúng trở nên liền mạch, không bị đứt đoạn. Đám mây cũng như làn sương vẫn còn luyến tiếc mùa hạ, vẫn chưa muốn chia tay mùa hạ, nhưng lại cũng mang trong mình mong muốn khám phá mùa thu bí ẩn, trạng thái ấy khiến cho đám mây mới chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế qua những câu thơ giàu thật chất tạo hình, ẩn sau thời gian chuyển tiếp từ hạ sang thu là hình ảnh đời người lúc sang thu.

Sang khổ thơ cuối, những biến chuyển của thiên nhiên ngày một rõ nét hơn: nắng vẫn còn nhưng nhạt hơn, dịu hơn, không còn gay gắt như mùa hè; cơn mưa rào mùa hạ chợt đến chợt đi cũng vơi dần, bớt dần. Những từ ngữ chỉ mức độ “vẫn còn” “vơi” “bớt” được sắp xếp giảm dần cho thấy mùa hạ đang nhạt dần, mùa thu ngày càng rõ nét hơn. Mùa thu đã hiện hình giữa đất trời.

“Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi” đây là phút giây suy ngẫm, chiêm nghiệm của Hữu Thỉnh trước khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên cũng là thời điểm giao mùa của con người. Con người khi đã từng trải, đi qua nhiều giông bão của cuộc đời thì họ cũng trở nên vững vàng, trưởng thành hơn trước những vang động của cuộc sống.

Sang thu của Hữu Thỉnh với ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, tự nhiên ông đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của thiên nhiên lúc giao mùa, những nét thu thật thu của đất Bắc. Nhưng đằng sau bức tranh thu sang còn là những suy ngẫm, chiêm nghiệm về khoảnh khắc đời người sang thu.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 7

Nếu như Bà Huyện Thanh Quan với những lời thơ trang nhã, nhẹ nhàng, mang chút cung đình buồn thương man mác. Thì thơ Hồ Xuân Hương có phong cách hoàn toàn khác. Giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, đề tài bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý mà chua cay chứa nỗi niềm phẫn uất phản kháng xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ như vậy:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Bánh trôi nước là bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác giả mượn chiếc bánh trôi để thế hiện vẻ đẹp hình thể và tâm hồn của người con gái có thân phận nhỏ nhoi, chìm nổi, phụ thuộc mà vẫn giữ trọn phẩm giá của mình.

Toàn bộ bài thơ là hình ảnh nhân hoá tượng trưng. Với khả năng quan sát và liên tưởng kỳ lạ, chất liệu dân gian là chiếc bánh trôi nước – loại bánh dân gian xưa cho là tinh khiết thường dùng vào việc cúng tế, nhà thơ đã phát hiện ra những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi bình thường với hình ảnh người phụ nữ. Cả hai đều có vẻ bề ngoài rất đẹp (trắng, tròn), có phẩm giá cao quý (tấm lòng son) tương đồng cuộc sống (chìm, nổi), số phận phụ thuộc (rắn nát tuỳ thuộc tay kẻ nặn). Với những từ ngữ đa nghĩa bài thơ tạo nên một trường liên tưởng cho người đọc. Do vậy nhà thơ tả thực mà lại mang ý nghĩa tượng trưng. Nói cái bánh trôi mà thành chuyện con người – người phụ nữ. Người con gái hình thể đẹp, da trắng nõn nà, thân hình căng tràn nhựa sống, tâm hồn nhân hậu hiền hoà.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bẩy nổi ba chìm với nước non

Với vẻ đẹp hình thể như vậy đáng lẽ phải có cuộc sống sung sướng hạnh phúc nhưng cuộc đời con người, đặc biệt là người phụ nữ thì phải chịu bao đắng cay, vất vả. Được cha mẹ sinh ra để làm người, nhưng người phụ nữ không làm chủ được mình, cuộc đời họ do người khác định đoạt. Nàng Vũ Nương thuỳ mị nết na, đức hạnh thuỷ chung, chồng ra trận nàng ở nhà một thân một mình nuôi mẹ già, con thơ. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con, người vợ, người mẹ trong gia đình. Vậy mà do sự đa nghi ghen tuông quá mức, nàng bị chồng nghi cho là thất tiết. Nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Câu chuyện mang đến cho chúng ta một thông điệp: trong xã hội ấy người tốt như nàng không được sống hạnh phúc.

Cùng như vậy cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị xã hội nhào nặn xô đẩy:

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Dù cuộc đời có phũ phàng, bất hạnh họ vẫn giữ vẹn phẩm giá, tâm hồn cao đẹp của mình. Sự sáng tạo của nữ sĩ khá độc đáo. Bà lựa chọn chi tiết không nhiều nhưng lại nói được nhiều. Hai từ thân em được đặt trước chiếc bánh, chiếc bánh được nhân hoá, đó chính là lời tự sự của người phụ nữ. Nét nghệ thuật này gợi cho trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ hiện lên rõ nét hơn.

Từ thoáng chút hài lòng giọng thơ chuyển hẳn sang than oán về số phận hẩm hiu. Hồ Xuân Hương đã đảo lại thành ngữ quen thuộc ba chìm bảy nổi thành bảy nổi ba chìm đối lập với vừa trắng lại vừa tròn tạo sự bất ngờ và tô đậm sự bất hạnh của người phụ nữ.

Đến đây ta không còn thấy giọng thơ than vãn cam chịu: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Cuộc đời họ, họ không làm chủ được bản thân mà phụ thuộc hoàn toàn vào tay kẻ khác. Thế nhưng: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Không những sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và bốn là đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ bảo vệ phẩm chất trong sáng trong tâm hồn con người. Từ vẫn thể hiện sự khằng định, quả quyết vượt trên số phận để giữ tấm lòng son. Người phụ nữ đã ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm giá của mình. Dẫu cho cuộc đời cay đắng, nhào nặn, xô đẩy thì giá trị đáng kính của họ luôn luôn là điều sống còn đối với họ.

Trong xã hội với ý thức hệ nho giáo hà khắc như vậy, quan niệm tam tòng tứ đức, nam tôn nữ ti đã ăn sâu vào ý thức con người. Nói được như Hồ Xuân Hương thật đáng khâm phục, trân trọng.

Bài thơ chỉ có bốn câu, đề tài bình dị nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo cho viên bánh trôi nước mang vẻ đẹp sáng ngời của viên ngọc lấp lánh nhiều màu. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng, ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và giá trị nhân phẩm của mình.

Quả thật bài thơ của Hồ Xuân Hương có giá trị hiện thực và xã hội sâu sắc. Đây là tiếng nói chung của người phụ nữ đối với sự bất công của xã hội xưa và khẳng định phẩm giá của bản thân. Nhà thơ đã đại diện cho những số phận bất hạnh cất lên tiếng nói của chính họ và của thời đại. Bài thơ thể hiện khẩu khí của bà chúa thơ nôm.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 8

Tôi say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông đối với những kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người phụ nữ, những con người hồng nhan bạc phận.

Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.

Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây chính là yếu tố quan trong để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kì oan ngã tự cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều, nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi của những tài năng. “Cái tốt đẹp thì khó bền”, “hoa thường hay héo cỏ thường tươi”, đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day dứt:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn được người đời trân trọng.

Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.

Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 9

Trên một trăm năm mươi năm trước, có thể trong dịp vào Huế nhận chức Cung trung giáo tập, chức nữ quan dạy học cho các cung nữ, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài Qua Đèo Ngang, một bài thơ hay, một bức tranh tâm trạng “nhớ nước”, “thương nhà” độc đáo.

Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sống chợ mấy nhà.

Tác giả đến Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, cảnh đẹp nhưng buồn. Ởđây, cỏ cây hoa lá chen chúc, xô bồ. Lốiđiệp từ (chen), điệp vần (lá, đá, hoa) gợi nét hỗn độn, hoang vu của một vùng núi non hiểm trở. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới núi, bên sống. Bóng dáng con người thấp thoáng nhỏ bé, thưa thớt lác đác, lom khom, tiều vài chú, chợ mấy nhà.

Cảnh vật ấy đủ để nhà thơ cảm nhận một cách sâu lắng cái buồn vắng quạnh hiu của một chiều tà ở miền sơn cước.

Bốn câu sau bài thơ mượn cảnh tả tình, nói lên tâm sự của tác giả trước cảnh ấy.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riềng ta với ta.

Lúc chiều tà trên đèo vắng, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng đa đa vô hồi thắt quặn trong lòng nhà thơ càng gợi thêm nỗi niềm vời vợi nhớ thương. Bà nhớ nhà, nhớ quê, nhớ một thời vàng son nào đó đã qua trong một nỗi niềm cô quạnh buồn thương man mác của tâm hồn.

Khép lại bài thơ là hình ảnh bé nhỏ của nữ sĩ trước mặt là “trời non nước” vô tình như mở rộng ra đến vô tận. Chính vì vậy, bà cảm thấy cô đơn, quạnh quẽ, đành quay về với chính mình, đối diện với chính mình “ta với ta”. Hai chữ “ta” nhưng vẫn chỉ có “một mảnh tình riêng” nghĩa là vẫn chỉ có một người. Điều này đủ thể hiện nỗi cô đơn cùng cực của nữ sĩ khi ấy.

Về mặt nghệ thuật, Qua Đèo Ngang thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật, một thể thơ vốn kiểu cách, sang trọng. Thế nhưng với ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả, bài thơ có ngôn ngữ giản dị, trong sáng này đã trở nên gần gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Bài thơ khiến ta thêm yêu đất nước với bao cảnh đẹp tình sâu và thêm trân trọng những hồn thơ rung động diệu kì trước những bức tranh non sống gấm vóc.

Phát biểu cảm nghĩ về 1 bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh chị yêu thích lớp – Mẫu 10

 “Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?”

Dường như mùa thu luôn là nguồn thi hứng để các nhà thơ viết nên từng vần thơ đẹp đẽ. Từ những chiếc lá vàng, đến những ngọn gió mát lành và ánh nắng ấm áp, mùa thu hiện lên trong khung cảnh dịu êm và lãng mạn. Trong đó, có một bài thơ mà tôi vô cùng ấn tượng, một bài thơ đã tái hiện đầy tinh tế khung cảnh đất trời lúc sang thu vô cùng gần gũi, giản dị, đó là bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Các nhà thơ thường miêu tả mùa thu với lá vàng rụng ngoài sân, sắc vàng dịu êm mà cũng buồn sầu. Riêng với “Sang thu”, tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế. Hương ổi thoang thoảng trong gió, nhà thơ đã thật nhạy cảm, khéo léo để có thể nhận ra được mùi hương rất đỗi nhẹ nhàng như vậy. Cụm từ “bỗng nhận ra” đã diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi phát hiện mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen, gợi nên những cảm xúc khó tả. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “chùng chình” diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu, khiến ta cảm nhận được khung cảnh sương bao trùm đầu ngõ. Sương thu đến không vội vàng, mà lại mơ hồ và châm rãi. Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, là phỏng đoán, nhưng thật ra trong thâm tâm nhà thơ, dường như ông biết rằng mùa thu đã đến rồi.

Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Nước mùa thu dâng lên theo mùa, sự dâng lên ấy có gì đó gợn sóng, uyển chuyển. Những cánh chim trời cũng “vội vã” bay. Đất trời khi giao mùa dường như gấp gáp hơn, chuyển động hơn. Mùa thu lúc này hiện ra trong cảm nhận của nhà thơ mang hình thái rõ ràng, bởi nhà thơ đã nhận ra rằng mùa thu về. Đám mây mùa hạ được tác giả miêu tả vô cùng độc đáo, diễn tả quá trình chuyển mình của nhà thơ một cách nhẹ nhàng. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng tâm sự: “Khi tôi viết bài thơ này tôi đã liên tưởng đến những đám mây mùa Hạ. Đó là những đám mây tràn trọn vẹn vào mùa Thu. Thế nhưng có gì ngăn cảm xúc của tôi lại theo chiều hướng đấy… Mây mùa Hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí đầy giông bão tựa hồ những ước mơ khao khát của tuổi trẻ. Những ước mơ khao khát ấy thường lấy đi rất nhiều sức lực của tuổi trẻ. Tuy nhiên giữa mơ và thực là hai thế giới luôn đối lập nhau và chẳng phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực.”

Đến với khổ thơ cuối, nhà thơ đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cái nhìn của một đời người:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

“Nắng”, “mưa” và “sấm” là những hiện tượng tự nhiên, thế nhưng ở đây nhà thơ không chỉ miêu tả cảnh thu, mà còn thể hiện cái nhìn về cuộc đời và con người. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lớp người từng trải, đã đi qua những gian khổ khó khăn, cũng như mùa thu vậy; mùa thu cũng là mùa của độ tuổi xế chiều. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khi mà người ta đã đi qua những ngày tháng gian khổ, dường như cuộc đời cũng chẳng thể đánh gục họ được nữa, nó khiến con người tĩnh lặng hơn, sâu sắc và nhiều tâm sự hơn.

Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một bài thơ gần gũi, quen thuộc. Nó không chỉ miêu tả cảnh đất trời lúc sang thu, mà với em, bài thơ còn là tâm sự của một người từng trải, một người đã đi qua những ngày tháng khó khăn. Qua bài thơ này, em không chỉ cảm nhận được thiên nhiên lúc giao mùa, mà còn học được bài học về cuộc đời, về con người.

Tài liệu có 32 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn TOP 10 mẫu Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
629 1 0
TOP 10 mẫu Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Tóm tắt các bài thuyết trình về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
201 1 0
TOP 10 mẫu Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Kể lại một hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia hoặc chứng kiến (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
251 1 0
TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) HAY NHẤT Tuyết Bài văn Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, trong đó có ít nhất một câu hỏi tu từ (2024) Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
160 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống