Top 50 mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài văn Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai. sách cánh diều hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

 

Dàn ý Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

1.Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Sương Nguyệt Minh
- Giới thiệu về truyện ngắn "Người ở bến sông Châu"
2. Thân bài:
a. Nội dung chính, chủ đề
- Nội dung chính: Truyện ngắn viết về sự trở về của Mây - cô chiến sĩ quân y đã sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng chống Mỹ. Lần trở về, cô mang theo niềm vui sum họp gia đình, bè bạn và viết tiếp tình yêu với San. Thế nhưng nỗi đau lại nhân đôi khi cô tận mắt chứng kiến người yêu đi lấy vợ còn bản thân vẫn sống với nỗi đau mang từ chiến trường trở về.
- Chủ đề: Con người thời hậu chiến.
b. Nỗi đau về thể xác và tinh thần của con người sau chiến tranh:
- Nỗi đau về thể xác:
+ Dì Mây vì chắn cửa hầm cứu thương binh đã bị đạn phạt mất một chân.
+ Trước khi ra đi, dì Mây có mái tóc dài và mượt, khi trở về rụng nhiều, xơ và thưa.
+ Thím Ba đun te vướng bom bi rồi mất.
- Nỗi đau về tinh thần:
+ Sự chia li, mất người yêu: Ngày dì Mây trở về cũng là ngày chú San đi lấy vợ.
+ Thằng Cún mồ côi mẹ.
+ Trở về từ chiến tranh, Mây sống bơ vơ lạc lõng với một tâm hồn rỉ máu.
c. Vẻ đẹp phẩm chất của con người:
- Lòng cao thượng, bao dung, lòng vị tha:
+ Dì Mây không oán trách chú San mà bằng lòng đón nhận, chúc phúc cho hai vợ chồng.
+ Dì kiên quyết từ chối lời đề nghị của chú.
- Lòng nhân hậu, yêu thương con người:
+ Sẵn sàng xả thân cứu người trong cuộc chiến.
+ Chở đò cho ông nhưng không lấy tiền của đám học sinh.
+ Sẵn sàng yêu thương, chăm sóc bé Cún.
- Lòng kiên định, chiến thắng hoàn cảnh:
+ Bị mất một chân nhưng vẫn giúp ông chèo đò, kiếm sống.
d. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện: - Giá trị hiện thực: Phản ánh cuộc sống con người sau chiến tranh. Lên án, tố cáo tội ác của chiến tranh đối với người dân vô tội.

- Giá trị nhân đạo: Truyện là bức thông điệp lớn về lòng yêu thương, sự bao dung, vị tha giữa con người với con người. Ca ngợi phẩm chất con người thời hậu chiến, đặc biệt là người phụ nữ.
3. Kết bài:
- Đánh giá khái quát về đặc sắc nội dung và nghệ thuật.
- Thái độ tác giả

 

Video Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai – Mẫu 1

Sương Nguyệt Minh là một nhà văn chiến sĩ, dù đến với văn chương khá muộn song những tác phẩm của ông đều mang tới góc nhìn mới mẻ cho người đọc khi viết về số phận con người. Có ý kiến cho rằng: "Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người", và "Người ở bến sông Châu" là một câu chuyện như thế.

Ẩn đằng sau bức tranh bình dị về cuộc sống hòa bình của nhân dân ta thời hậu chiến, Sương Ngọc Minh gửi lại đó những trăn trở khắc khoải về số phận những con người. Chiến tranh đã qua đi từ lâu song hệ lụy để lại sẽ còn mãi. Bình yên đất nước cũng không thể khiến lòng người bình yên. Dẫu vậy, con người ta vẫn phải sống, vẫn phải bước tiếp để vượt qua nghịch cảnh.

"Người ở bến sông Châu" kể câu chuyện ngày trở về của Mây - một nữ quân y sĩ dũng cảm. Trước khi ra chiến trường, Mây vẫn còn là một cô thiếu nữ xinh đẹp với nước da hồng hào và mái tóc mềm mượt chảy dài như suối, mẹ Mai bảo: "Ngày xưa dì đẹp nhất làng." Ấy thế mà ngày trở về, mái tóc ấy rụng nhiều, xơ và thưa đi. Mây cũng mất đi một bên chân do mảnh găm của đạn khi che chở cho một thương binh. Có thể thấy, chiến tranh đã cướp đi của Mây những năm tháng tươi đẹp của tuổi trẻ, cướp đi tuổi xuân, cướp đi cả một phần trên cơ thể.Chiến tranh còn khiến cho bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa, li tán, tước đoạt mạng sống của những người dân vô tội. Thím Ba vốn không trực tiếp tham gia chiến trường, ấy thế mà vẫn phải bỏ mạng bởi những tàn dư mà của chiến tranh. Thím đun te vướng bom bi rồi mất, để lại thằng Cún còn nhỏ đã mồ côi mẹ, nhờ dì Mây nuôi. Bởi vậy, bom đạn chiến tranh có thể qua đi nhưng nỗi đau ở lại đâu dễ gì bù đắp được

Không chỉ vậy, chiến tranh còn gây ra bao nỗi đau cho tâm hồn dì Mây. Chiến tranh gây ra bi kịch, gây ra hiểu lầm không đáng có, khiến chú San và gia đình ở quê tưởng Mây đã tử trận. Thế rồi chú San lấy vợ - ngay trong ngày Mây trở về. Và thế là, niềm hạnh phúc trong ngày trở về của dì Mây chẳng tày gang. Tình huống thật trớ trêu khi dì Mây và vợ chồng chú San chỉ cách nhau một hàng dâm bụt. Dù còn rất yêu nhưng Mây kiên định "Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ" và quyết định chúc phúc cho chú San và cô Thanh. Mãi sau này, nhân vật chú Quang - người từng được Mây cứu giúp - xuất hiện và dành tình cảm cho Mây. Ngay cả thế, dì vẫn mang đầy những mặc cảm và tự ti về bản thân để rồi từ chối đón nhận hạnh phúc.

Đau khổ là vậy nhưng con người vẫn phải sống và chiến đấu đến tận cùng. Ở dì Mây sáng ngời tấm lòng vị tha, cao thượng. Cô kiên quyết từ chối lời đề nghị sẽ làm lại từ đầu của chú San, nhận lấy đau khổ thua thiệt về mình, nhường lại hạnh phúc cho người khác. Kể từ ngày đó, Mây dù buồn ngẩn ngơ song vẫn cố gắng vượt qua nghịch cảnh và cố gắng làm điều tốt đẹp cho cuộc sống. Mây "khoác ba lô ra lều cỏ" phụ cha chèo đò, đưa lũ trẻ đi học chẳng lấy tiền. Vợ San khó sinh, "thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ". Tình hình nguy cấp, Mây vẫn bản lĩnh cứu người. Ở Mây lấp lánh vẻ đẹp nhân hậu của một người phụ nữ. Đồng thời, cô cũng sở hữu sự bản lĩnh và lòng dũng cảm của một người lính đi ra từ chiến trường. Và trái tim ấy, một lần nữa lại rỉ máu trong tiếng khóc "nghe xót ra, tủi hờn, xen lẫn niềm ao ước, chờ mong và vui buồn lẫn lộn". Thím Ba mất đi, Mây nhận nuôi thằng Cún và quyết định sống một cuộc đời lặng lẽ trong ngôi nhà tình thương dựng ngay trên căn lều cũ.

Cuối truyện, tác giả có nhắc đến một sự thay đổi nhỏ trong tiếng ru của Mây "lúc đầu trầm lắng, nghèn nghẹn, xót xa, sau êm ái, trong sáng, mênh mang, ngân nga sâu lắng thận sâu thẳm con tim". Phải chăng tiếng ru cũng là tiếng lòng. Ban đầu, tiếng ru vẫn chất chứa những nỗi buồn mênh mang về những đau khổ đã qua và về cả những khát khao bất thành trong hiện tại nhưng rồi lại trong sáng lên, mênh mang thêm như ngầm chấp nhận số phận. Dù thế nào, chúng ta vẫn phải sống tiếp.

Thành công nhất của truyện ngắn phải kể đến góc nhìn độc đáo của Sương Nguyệt Minh khi viết về số phận người phụ nữ thời hậu chiến. Nhà văn đã chú ý và khai thác vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu bên trong họ từ những trắc trở, thăng trầm. Tác giả xây dựng được tình huống độc đáo, tạo nút thắt cho câu chuyện, đồng thời để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách một cách tự nhiên nhất.

Chiến tranh qua đi nhưng nỗi đau thì còn mãi. Dù có đau khổ, người lính vẫn phải sống - sống cao thượng và bao dung. Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" gợi cho ta về tội ác của chiến tranh để ta biết trân trọng sự hi sinh của lớp người đi trước. Đồng thời, nhắc ta biết yêu thương những người xung quanh.

Tứ đại danh tác" của Trung Hoa bao gồm "Tam quốc diễn nghĩa", "Thủy Hử", "Tây du kí" và "Hồng lâu mộng". Đây đều là những tác phẩm văn học cổ điển lừng danh của đất nước tỉ dân, mang đến bao giá trị tốt đẹp cho xã hội. Trong số đó, tôi thấy đặc biệt ấn tượng với đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành" trong tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa". Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng đã bao hàm được phần nào tư tưởng cũng như tài năng của tác giả khi xưa.

"Tam quốc diễn nghĩa" là bộ tiểu thuyết lịch sử dài 120 hồi. Tác phẩm chủ yếu kể lại quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của ba tập đoàn phong kiến Tào Ngụy, Lưu Thục và Tôn Ngô trong gần 100 năm (184 - 280) của nước Trung Hoa cổ. "Hồi trống Cổ Thành" thuộc hồi thứ 28. Đoạn trích đã diễn tả lại cuộc hội ngộ giữa hai huynh đệ Quan Công và Trương Phi. Nội dung của nó có thể được tóm gọn lại bằng hai câu: "Chém Sái Dương anh em hòa giải/Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên".

Trước hết, có thể thấy hoàn cảnh gặp gỡ của Quan Công và Trương Phi khá đặc biệt. Sau một thời gian phải chia li, mỗi người một ngả, nay nghe được tin về Lưu Bị, Vân Trường lập tức đưa hai chị dâu chạy trốn khỏi doanh trại của Tào. Tình cờ, họ đi qua Cổ Thành - nơi Trương Phi vừa chiếm đóng. Trái ngược với sự mừng rỡ khi đoàn tụ của Quan Công, Trương Phi lại tức giận, một mực mang quân ra đòi chém người anh em "kết nghĩa vườn đào" của mình. Hoàn cảnh bất ngờ và éo le ấy chính là cơ hội để các nhân vật bộc lộ tính cách cũng như những phẩm chất đáng quý của bản thân.

Lí do cho việc Trương Phi dẫn quân đánh Quan Công chính là vì sự hiểu lầm. Phi cho rằng anh mình đã hàng Tào. Mặc kệ lời giải thích của hai chị dâu và Tôn Càn, Phi vẫn một mực buộc tội phản bội, bất nghĩa cho Quan Vũ, cho rằng: "Trung thần thà chịu chết chứ không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ". Đến cả cách xưng hô giữa hai người cũng thay đổi. Trong khi Quan Công vẫn dùng "anh" - "em" thân thiết, hết mực nhẫn nhịn, thanh minh cho bản thân thì Trương Phi lại xưng "mày" - "tao" và không ngừng tấn công về phía anh mình.

Mâu thuẫn được đẩy lên tới đỉnh điểm khi Sái Dương - tên tướng bên Tào xuất hiện. Nó khiến cảm xúc tức giận của Trương Phi bùng nổ, làm hiểu lầm giữa hai anh em thêm sâu sắc. Tuy vậy, bằng sự anh dũng và lí trí của mình, Quan Công đã tận dụng cơ hội này để chứng tỏ sự liêm khiết của bản thân. Hai người giao kèo rằng Vân Trường phải chém tên tướng giặc trong ba hồi trống, nhưng chỉ chưa hết một hồi thì đầu Sái Dương đã nằm trên đất. Với sự giải thích của tên lính bắt được cùng những lời của hai chị dâu, hiểu lầm đã được hóa giải. Lúc đó Trương Phi mới nhận ra mình đã trách sai Quan Vũ, liền quỳ sụp xuống lạy anh.

Qua những hành động và lời nói, độc giả đã thấy được rất rõ tính cách, phẩm chất của các nhân vật. Trương Phi tuy nóng nảy, bộc trực nhưng rất trọng tình nghĩa, sẵn sàng nhận lỗi của mình. Quan Công lại mềm mỏng, điềm tĩnh hơn nhưng cũng vô cùng kiên quyết, dứt khoát. Sự đối lập này không những không khiến người này bị mờ nhạt hơn so với người kia mà còn hỗ trợ, làm nổi bật lẫn nhau. Từ đó, tác giả đã mang đến bao giá trị đạo đức vô cùng tốt đẹp. Đó là tấm lòng kiên trung, tình huynh đệ gắn kết, keo sơn cùng sự mưu trí, dũng cảm của những người anh hùng trong thời loạn lạc.

Không chỉ thành công về mặt nội dung, tác phẩm còn rất xuất sắc ở phương diện nghệ thuật. Các nhân vật được thể hiện chủ yếu qua hành động và lời nói, trở thành kiểu nhân vật điển hình với những tính cách điển hình. Tình huống truyện được xây dựng gay cấn, kịch tính, tạo sức hấp dẫn và thu hút trí tò mò của độc giả. Bằng ngôn ngữ giản dị cùng lối văn biền ngẫu, tác phẩm đã trở nên rất dễ để tiếp nhận.

Để làm nên thành công của tác phẩm, ta không thể không thừa nhận tài năng của tác giả. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà văn đã tái hiện lại xã hội Trung Hoa thời Tam quốc. Bộ tiểu thuyết nói chung và đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành" nói riêng đã phản ánh rất chân thực những biến động của lịch sử và chính trị giai đoạn đó. Vì là một tác phẩm viết về lịch sử, ta đã thấy sự kết hợp hết sức tài tình giữa yếu tố chính sử và dã sử. Phương pháp kể "bảy phần thực, ba phần hư" đã giúp bộ tiểu thuyết bớt đi những phần khô khan. Qua đó, độc giả cũng cảm nhận được nhiều hơn về ý nghĩa, thông điệp mà tác phẩm mang lại. Không chỉ dùng để phản ánh thực trạng xã hội, ta còn thấy được khát vọng của nhân dân về một quốc gia thống nhất, hòa bình thịnh trị. Ngoài ra, đó còn là quan điểm, cái nhìn, đánh giá về những giá trị đạo đức tốt đẹp như: lòng dũng cảm, sự mưu trí, lòng trung nghĩa,... được thể hiện rất rõ qua hình tượng các nhân vật Quan Công và Trương Phi. Tất cả các yếu tố đó gộp lại đã tạo nên một tác phẩm thành công, vang danh suốt hàng thế kỉ.

Với tầm ảnh hưởng của mình, "Hồi trống Cổ Thành" nói riêng và "Tam quốc diễn nghĩa" nói chung đã và đang tạo sức hút đối với độc giả mọi thế hệ. Giá trị tốt đẹp mà tác phẩm mang lại cho cộng đồng vẫn luôn được lưu giữ, trân trọng đến tận ngày hôm nay. Dễ hiểu khi nó được coi là một trong những "danh tác" nổi tiếng của nhân loại.

 Top 50 mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.  (ảnh 1)

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai – Mẫu 2

Vợ chồng A Phủ được đánh giá là truyện ngắn đặc sắc và tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về đời sống của người dân miền núi phía Bắc. Giá trị của truyện không chỉ ở nội dung thể hiện được cảnh sống khốn cùng của người dân miền núi bị áp bức, vùng lên phản kháng mãnh liệt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo trong văn bản.

Về nội dung, tác phẩm có hai khía cạnh chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở giá trị hiện thực, tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận của người dân nghèo miền Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến tàn bạo. Sự vạch trần của Tô Hoài giúp người đọc thấy rõ sự tàn bạo, độc ác của bọn chúa đất áp bức mà tiêu biểu là cha con nhà thống lí Pá Tra. Chúng đã bóc lột, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần người dân lao động nghèo, miền núi. Bên cạnh đó, thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã diễn tả thật sinh động quá trình thức tỉnh vươn lên tìm ánh sáng cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc.

Tác phẩm còn cho thấy giá trị nhân đạo và tấm lòng của nhà văn Tô Hoài qua cái nhìn cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ cả về tinh thần lẫn thể xác của những người lao động nghèo khổ như Mị, A Phủ. Nhà văn phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp đáng quý ở Mị, A Phủ. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, cần cù, yêu tự do và đặc biệt là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở họ. Tiếng nói tố cáo ách thống trị phong kiến miền núi bạo tàn, lạc hậu đã chà đạp và bóc lột con người đến xương tủy cũng được nêu cao, thể hiện mạnh mẽ trong văn bản. Nhà văn còn đưa ra lối thoát cho nhân vật bằng cách hướng những con người lao động nghèo khổ đang bị chà đạp, dồn nén đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.

Bên cạnh những giá trị hiện thực và nhân đạo ấy, nghệ thuật được sử dụng trong văn bản cũng là một yếu tố làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề...). Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ. Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo, tạo sức lôi cuốn. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công, mỗi nhân vật được sử dụng một bút pháp riêng để khắc họa tính dù họ đều có chung số phận và hoàn cảnh sống. Cách miêu tả ngoại hình, tâm lý cũng được thể hiện một cách tinh tế, với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

Có thể thấy Vợ chồng A Phủ đã trở thành tác phẩm tiêu biểu viết về người dân miền núi phía Bắc trong thời kỳ cách mạng của nhà văn Tô Hoài. Truyện đã thể hiện được cuộc sống khổ cực, bị đẩy đến đường cùng của người dân và cho thấy sức phản kháng mãnh liệt của họ bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật thành công, ngôn ngữ sinh động mang đậm màu sắc miền núi, hình ảnh giàu chất thơ.

 

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai – Mẫu 3

Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.

Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .

Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.

Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng. Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước Bằng Việt: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.

 Top 50 mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.  (ảnh 2)

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai – Mẫu 4

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm Chữ người tử tù. Đây là thiên truyện ngắn kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.

     Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp và ẩm ướt,  Huấn Cao - người tử tù “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.

       Trong hệ hình văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn tung hoành còn thể hiện rõ phẩm chất, tài năng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh, thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó là buồng giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”, “đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã tô đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của cảnh tượng này.

      Không chỉ đặc biệt ở bối cảnh không gian và thời gian, cảnh cho chữ còn là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ và người nhận chữ. Huấn Cao - người cho chữ vốn là kẻ tử tù “đường bệ ung dung” phác họa những nét chữ thể hiện hoài bão, lí tưởng, còn viên quản ngục- người nhận chữ là đại diện cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa người tử tù và quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài hoa đang tạo ra cái đẹp - những nét chữ uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn trên tấm lụa trắng hương thơm của thoi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn những người vốn có quyền uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bãi lĩnh”, “xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu, vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù đã trở thành nơi tri ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ dừng lại ở đó, cảnh tượng cho chữ còn  thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.

       Thông qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân đã gửi gắm những ý niệm ẩn dụ về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã được khắc họa rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung viên quản ngục - “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” được tô đậm hơn nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hướng về cái đẹp. Đặc biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên lương, trong sáng không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác. 

       Như vậy, bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ diễn ra chốn ngục tù để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” về sự chiến thắng của cái đẹp.

 

Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai – Mẫu 5

ruyện "Thần Trụ trời" thuộc nhóm thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ, muôn loài hay còn gọi là thần thoại suy nguyên được tác giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm. Truyện được coi là tác phẩm có nét đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

"Thần Trụ trời" kể về thần Thần Trụ trời với sức mạnh phi thường đã phân chia bầu trời và mặt đất, dùng đất đá tạo nên núi, đảo,.. Qua đó, câu chuyện đã giải thích nguồn gốc của sự hình thành các sự vật trong tự nhiên một cách sáng tạo.

Mở đầu câu chuyện, tác giả dân gian mở ra không gian vũ trụ hoang sơ "một vùng hỗn độn, tối tăm, lạnh lẽo" và thời gian chưa được xác định rõ ràng "Chưa có vũ trụ, chưa có muôn vật và loài người". Trong khoảnh khắc tối tăm mù mịt ấy, Thần Trụ trời đã xuất hiện với thân hình khổng lồ "Chân thần dài không thể tả xiết". Mỗi bước chân của thần "có thể qua từ vùng này đến vùng nọ, hay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác". Nhờ sức mạnh phi thường ấy, thần đã tự mình đào đất, đập đá, tạo nên cái cột đá cao và to để chống trời. Cột càng đắp cao, tấm trời lại càng thêm rộng mở. Chẳng bao lâu sau, thần Trụ trời đã đẩy vòm trời lên phía mây xanh, khoảng cách giữa đất trời được phân chia rõ ràng. Sau khi trụ trời xong, thần lại phá cột đá và dùng đất đá ném ra mọi nơi, tạo thành hòn núi, dải đồi cao,... Mượn các hình ảnh thiên nhiên, tác giả dân gian đã giải thích quá trình tạo lập thế giới một cách sáng tạo. Từ đây, chủ đề của truyện trở nên gần gũi và hấp dẫn với bạn đọc.

Chủ đề và nghệ thuật của tác phẩm văn học luôn song hành và bổ sung cho nhau. Truyện "Thần Trụ trời" cũng vậy, những sáng tạo hình thức nghệ thuật về cốt truyện, nhân vật đã đóng góp vào thành công trong việc làm nổi bật chủ đề truyện. Là truyện thần thoại, cốt truyện "Thần Trụ trời" được xây dựng hết sức đơn giản và gần gũi, xoay quanh việc thần Trụ trời làm công việc phân chia đất, trời và tạo nên những dạng địa hình tự nhiên khác nhau. Dựa vào trí tưởng tượng của con người cùng những yếu tố kì ảo, truyện đã giải thích quá trình tạo lập vũ trụ và thế giới tự nhiên. Qua đó, ta cũng thấy được khát khao tìm hiểu và khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Đặc sắc nghệ thuật còn được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật kết hợp sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại kết hợp với các chi tiết hư cấu. Hình ảnh Thần Trụ trời có kích thước "khổng lồ" với những bước chân rộng lớn, sở hữu sức mạnh phi thường, đã giúp cho người đọc hình dung rõ ràng, sắc nét về một vị thần trong thần thoại.

"Thần Trụ trời" với những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật đã mang đến cho bạn đọc câu chuyện thú vị lí giải về nguồn gốc các sự vật trong tự nhiên. Đồng thời truyện cũng phản ánh mong muốn, khát khao được tìm tòi, khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Mong rằng tác phẩm sẽ mãi để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc yêu thích văn học dân gian của dân tộc.

 Top 50 mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.  (ảnh 3)

Tài liệu có 13 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.3 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
758 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
842 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
663 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống