Top 50 mẫu Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước.

Tải xuống 20 1.8 K 12

Toptailieu.vn xin giới thiệu Top 50 bài văn Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước. sách cánh diều hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 10 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước.

 

Dàn ý Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước.

1. Mở đầu:
Giới thiệu bài thơ và vấn đề trình bày. 2. Nội dung chính:
Giới thiệu nội dung chính của bài thơ.
- Nêu một số yếu tố nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề, ý nghĩa.
- Phát biểu chủ đề, ý nghĩa của bài thơ.
- Nêu một số ấn tượng và những nhận xét, đánh giá của em về nội dung, nghệ thuật.

3. Kết thúc:
Khẳng định ý nghĩa và bày tỏ mong muốn nhận được sự trao đổi của người nghe.

 

Video Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước.

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 1

Sự nghiệp văn chương của tác giả vô cùng đồ sộ. Ông để lại dấu ấn trong lòng người đọc bởi giọng điệu tha thiết, tâm tình. Điều này được thể hiện rõ nhất qua văn bản "Đất nước". Xuyên suốt bài thơ, nhà thơ bày tỏ niềm tự hào xen lẫn niềm xúc động trước quá khứ chiến đấu hào hùng của dân tộc trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Trước hết, vẻ đẹp mùa thu Hà Nội qua hoài niệm của nhân vật trữ tình được thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu. Những hình ảnh "gió thổi mùa thu", hương cốm mới" trở thành tín hiệu gợi nhớ về những ngày thu đã xa. Gió mùa thu và hương cốm mới đều là nét riêng biệt, đặc trưng gắn liền với thu Hà Nội. Bởi vậy, vẻ đẹp mùa thu được gợi lên một cách gián tiếp. Trong đôi mắt và cảm nhận của nhân vật trữ tình, Hà Nội mang chút gì đó thoáng buồn. Điều này được thể hiện rõ nhất qua hai câu thơ "Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may". Vào buổi sáng sớm, thời tiết Hà Nội se lạnh lại thêm hình ảnh những con phố dài kết hợp với từ "xao xác" càng khiến cho khung cảnh trở nên tiêu điều, ảm đạm. Câu thơ bảy chữ nhưng có đến năm chữ thanh bằng đã cho thấy dòng tâm trạng miên man của nhân vật trữ tình. "Người ra đi" trong tâm thế "đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" vừa dứt khoát nhưng cũng quyến luyến không thôi.

Đến khổ ba, bức tranh đất nước trong "mùa thu nay" hiện lên thật thơ mộng, trữ tình. Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên: "núi đồi", "rừng tre", "trời thu" "trong biếc", "trời xanh", "cánh đồng thơm ngát", "ngả đường bát ngát", "dòng sông đỏ nặng phù sa" được tác giả sử dụng kết hợp với từ ngữ giàu sức gợi hình: "phấp phới", "thiết tha", "thơm ngát", "bát ngát" đã diễn tả bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Đất nước hiện lên với vẻ thanh bình, tươi đẹp. Chứng kiến vẻ đẹp ấy, nhân vật trữ tình bồi hồi nhớ về quá khứ, trào dâng nỗi xúc động và ngưỡng vọng về một thời đã xa "Nước chúng ta/ Nước những người chưa bao giờ khuất/ Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về".

Ở những khổ sau là vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong chiến tranh. Sự tàn ác, khốc liệt của chiến tranh được thể hiện thông qua những hình ảnh "đồng quê chảy máu", "dây thép gai", "bát cơm chan đầy nước mắt", "đứa đè cổ đứa lột da". Tác giả đã tố cáo tội ác của quân giặc và thể hiện nỗi đồng cảm, thương xót trước sự mất mát, hi sinh của nhân dân. Không chỉ vậy, ta còn thấy sự anh dũng, quật cường ở đất nước. Đó là hình ảnh những người lính hành quân trong đêm. Hay còn là sự phản kháng, chiến đấu của người dân Việt Nam. Hình ảnh "nét mặt quê hương", "trời đầy chim và đất đầy hoa", "súng nổ rung trời giận dữ", "người lên như nước vỡ bờ" cùng các động từ mạnh " bật lên những tiếng căm hờn", "không khóa được", "không bắn được", "đứng lên", "rực nghĩ", "rũ bùn đứng dậy" đã cho thấy sự căm phẫn của người dân trước tội ác kẻ thù. Từ những con người hiền hậu, quanh năm chỉ sống một đời yên bình sau lũy tre làng thì nay, người dân kiên cường, anh dũng, chiến đấu lại với kẻ thù. Những xiềng xích, nô dịch của kẻ địch không thể kìm hãm được tinh thần quật khởi, yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.

Như vậy, đất nước hiện lên vừa bi vừa hùng. Bằngngôn ngữ trau chuốt, tinh tế, giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng biện pháp tu từ độc đáo: nhân hóa, so sánh, điệp ngữ; hình ảnh thơ trong sáng, bình dị, gần gũi, thân quen, tác giả đã thể hiện niềm tự hào, xúc động sâu sắc trước trang sử vẻ vang của cha ông. Từ đây, ta càng thêm cảm phục, biết ơn công lao to lớn của thế hệ đi trước.Top 50 mẫu Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước. (ảnh 1)

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 2

Cùng viết về người lính, nhưng bài thơ "Lính đảo hát tình ca trên đảo" của Trần Đăng Khoa thật khác biệt. Khác biệt ở chỗ, đối tượng mà ông miêu tả là những người lính trên đảo Trường Sa. Người lính ấy hiện lên với nét vui tươi, nhí nhảnh.

Trong bốn khổ đầu, tác giả tập trung miêu tả sân khấu và bức chân dung người lính. Sân khấu của người lính đảo hết sức đặc biệt, không hề giống với những sân khấu thông thường: "Đá san hô kê lên thành sân khấu/ Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà". Không có đèn sáng lóa, không có dàn âm thanh sôi động, sân khấu ấy vô cùng thiếu thốn, tạm bợ với vài tấm tôn và đá san hô. Ngoài ra, thời tiết trên đảo rất khắc nghiệt. Gió to, sóng dữ, sỏi cát bay mù mịt: "Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa/ Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng/ Sỏi cát bay như lũ chim hoang". Đối mặt với điều đó, người lính vẫn hết sức vô tư, lạc quan: "cứ mặc nó", "ta bắt đầu thôi".

Ở những dòng thơ tiếp, chân dung của những người lính được khắc họa thông qua những hình ảnh đầu không mọc tóc. Cả khán giả lẫn người biểu diễn đều là các chàng trai trọc đầu. Lời đùa vui, tếu táo: "Có lúc cui cứ gọi đùa sư cụ/ Là bà con xa với bụt ốc đây mà" càng cho thấy sự cởi mở, phấn khởi của người lính.

Sáu khổ cuối cùng chính là bản tình ca da diết, tươi vui của người lính đảo. Những hình dung của người lính về người thương thể hiện rõ nhất từ "Những giai điệu ngang tàng như gió biển" đến "Dù thư tình chưa biết gửi cho ai". Hình ảnh "người thương" hiện lên trong trí tưởng tượng người lính với "gương mặt dịu dàng" cùng khoảnh khắc dắt em đi dạo dưới đêm trăng. Câu hỏi tự vấn "Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?" cho thấy sự hóm hỉnh, vui tươi. Thế nhưng, sau những mộng mơ, bay bổng ấy, người lính lại trở về hiện thực khi ở trên đảo chỉ có "lưng trời sóng vỗ", "bốn phía chỉ âm u mây nước". Bởi thế mà, người lính vẫn độc thân "và tay mình lại nắm lấy tay mình", "thư tình chưa biết gửi cho ai". Không chỉ thể hiện niềm mong ước được yêu thương, nhung nhớ mà họ còn khẳng định tình yêu sâu sắc dành cho quê hương đất nước trong lời hát của mình. Đó là tình yêu mãnh liệt mà các anh dành cho Tổ quốc. Giữa muôn trùng sóng gió, người lính vẫn giữ vững tay súng, bảo vệ đất nước, quê hương thân yêu.

 Top 50 mẫu Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước. (ảnh 2)

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 3

Nhắc đến cái tên Nguyễn Đình Thi, người ta nhắc đến một người con Hà Nội đa tài với nhiều tài nghệ đáng nể. Ông không chỉ viết nhạc nổi tiếng với bài Người Hà Nội mà còn viết kịch, viết truyện, viết thơ. Trong đó, tác phẩm thơ được nhiều người biết đến và được phổ thành nhạc là bài thơ Đất nước. Bài thơ là hình ảnh của đất nước Việt Nam trong mùa thu hoài niệm, trong những ngày bom lửa của chiến tranh và trong tầm nhìn về một tương lai mới tươi đẹp.

     Bài thơ được viết trong một khoảng thời gian dài từ 1949 đến năm 1955 và có một số đoạn được trích từ các tác phẩm trước của ông như Sáng mát trong như sáng năm xưa hay Đêm mitting,... Thế nhưng, với tài năng của mình, Nguyễn Đình Thi đã biến nó thành một chỉnh thể thống nhất và để nó trở thành một trong những tác phẩm thơ viết về đề tài đất nước hay nhất trong diễn đàn văn học Việt Nam.

Mở đầu bài thơ, người ta thấy hiện lên trước mắt là một khung cảnh trời thu với những hình ảnh thật hoài niệm của mùa thu Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sớm chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

     Khi viết bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đang đứng giữa núi trời Việt Bắc, ấy vậy mà ông lại nhớ thương về một Hà Nội xa xôi với mùi hương cốm nồng nàn. Nếu là người Việt Nam, hẳn ai cũng biết Hà Nội đẹp nhất, thơm nhất vào những ngày thu với bầu trời trong xanh và hương cốm làng Vòng thoang thoảng đưa trong gió. Và Nguyễn Đình Thi - người con của Hà Nội cũng không ngoại lệ khi trăn trở nhớ về Hà Nội của ông.

     Đứng giữa chiến khu Việt Bắc, giữa một sáng trời thu "mát trong", ông hoài niệm về một Hà Nội cũng từng có trời thu như thế và thoảng đâu trong gió, mùi cốm đưa lại dìu dịu, nồng nàn - nét đặc trưng của mùa thu Hà Nội.

     Mùa thu với khung cảnh đất trời Hà Nội cứ dội về tâm trí của ông "tôi nhớ những ngày thu đã xa". Vậy ông nhớ điều gì? Nguyễn Đình Thi nhớ những con phố dài ở Hà Nội, nhớ cái chớm lạnh trên đất trời thủ đô. Làn gió "mát trong" trong lành và hơi se lạnh là cái khiến cho nhà thơ phải thao thức, phải trăn trở nhất lúc này quá khứ và hiện tại đồng hiện với nhau trong từng câu thơ, đọc thơ mà người đọc như cảm tưởng mình đang đứng giữa thủ đô trong một buổi sáng mùa thu lành lạnh vậy. Hình ảnh "hương cốm mới" gợi lên trong lòng chúng ta biết bao hoài niệm về thu Hà Nội với cốm làng Vòng gói trong những chiếc lá sen xanh ngan ngát hương sen, thoảng vào trong gió. Cái mùi hương đặc trưng của thu sẽ chẳng thể nào phai mờ trong tâm trí, như Hữu Thỉnh cũng đã từng nói về hương ổi mùa thu rằng:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

     Nỗi "nhớ" của người thi sĩ là nỗi nhớ về những năm tháng khi xưa, khi còn được sống giữa lòng Hà Nội để mà tận hưởng cái "chớm lạnh" se se mùa thu kia. Nguyễn Đình Thi đã tinh tế khi đặt "cái chớm lạnh" tức cái lạnh se se trở thành một phần trong nỗi nhớ Hà Nội, bởi đó là đặc trưng, là hương sắc riêng của trời thu Hà Nội. Và hơn thế, hình ảnh "những con phố dài xao xác hơi may" không khỏi khiến chúng ta mường tượng ra những con phố dài cổ kính của Hà Nội. Những con phố ấy hiện lên thật rõ trong tâm trí của nhà thơ dù ông đang ở trên Việt Bắc. Và nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng Nguyễn Đình Thi đã thật tinh tế khi ông đặt ở đây từ Hán Việt "hơi may". "Hơi may" tức là gió lạnh, thế nhưng, ông không dùng hai từ gió lạnh mà lại dùng hai từ "hơi may" khiến câu thơ trở lên đậm một chất tình, vừa êm dịu, nhẹ nhàng mà lại phảng phất đâu đó nỗi buồn. Phải chăng khi nhớ về Hà Nội, Nguyễn Đình Thi nhớ tới một Hà Nội dịu dàng, ngọt ngào như thế?

 Kết thúc những hình ảnh hoài niệm về Hà Nội khi xưa là hình ảnh của người vệ quốc quân trên đường ra đi vì chí lớn. Người chiến sĩ ấy ra đi với quyết tâm lớn.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

     Ra đi vì chí lớn, quyết tâm lớn, không hề ngoảnh đầu lại, nhưng trong tâm hồn người chiến sĩ ấy là nỗi lưu luyến quê hương đến vô cùng. Những nắng những lá rơi đầy, vương đầy trên bậc thềm khiến cho lòng người càng bâng khuâng tha thiết hơn. Nỗi buồn tràn đầy khắp tâm tư người chiến sĩ nhưng chẳng hề làm lung lay cái ý chí quyết tâm của mình.

      Khổ thơ đầu tiên là những hoài niệm về một Hà Nội êm đềm trong tâm trí nhà thơ. Đó là một Hà Nội những ngày còn hòa bình, còn êm dịu trước chiến tranh!

     Kế tiếp theo là những dòng thơ về hiện tại, về mùa thu của đất trời trên chiến khu Việt Bắc đồng thời nó cũng thể hiện sự chuyển biến tâm trạng của tác giả. Nếu như ở đoạn thơ phía trên, Nguyễn Đình Thi thể hiện một mùa thu đầy hoài niệm, phảng phất nỗi buồn thì ở đoạn thơ này, người ta lại thấy một niềm vui phơi phới trong từng dòng thơ:

Mùa thu nay đã khác rồi

...

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

     Ngay từ những câu thơ đầu của đoạn thơ này, người ta đã thấy niềm vui lan tỏa trong từng câu chữ. Nguyễn Đình Thi khẳng định "Mùa thu nay đã khác rồi", lời khẳng định chắc nịch, chứa chan niềm vui sướng, hân hoan, phấn khởi. Khổ thơ trước là sự hoài niệm, là nỗi buồn phảng phất thì ở khổ thơ này, niềm vui như được nhân lên gấp bội. Cuộc sống mới ở giữa núi rừng Việt Bắc đã cho nhà thơ nguồn cảm hứng dạt dào. Ông viết:

Tôi đứng vui nghe giữa đất trời
Gió thổi rừng tre phấp phớ
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha

     Một câu thơ mà có đến ba động từ liên tiếp, thể hiện sự tập trung tới cao độ của nhà thơ khi hướng về đất nước, hướng về Tổ quốc của mình. Thêm vào đó, ông sử dụng ở trong đoạn thơ này hình ảnh "rừng tre" - đây là hình ảnh vốn là biểu tượng cho con người Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. "Rừng tre" ấy đang "phấp phới" trong làn gió mát rượi của mùa thu, trong niềm vui phấn khởi. Cả một "rừng tre" to lớn là thế, ấy vậy mà Nguyễn Đình Thi lại sử dụng từ láy "phấp phới" để chỉ, một từ vốn chỉ dành cho những thứ mềm mại, mỏng manh, nhẹ nhàng trong gió. Điều này thể hiện niềm vui dạt dào trong tâm hồn nhà thơ cũng như trong tâm hồn của con người Việt Nam.

     Tiếp theo sau, Nguyễn Đình Thi lại kể về hình ảnh của trời thu, của sắc thu. Vẫn màu xanh ấy thế nhưng, thu ở đây "trong biếc tiếng nói cười", nó là màu xanh trong của hi vọng, của hạnh phúc tràn đầy của những con người được làm chủ đất nước của mình.

Trời thu thay áo mới
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha

     Và niềm vui ấy còn càng trào dâng mạnh mẽ hơn với niềm tự hào về một đất nước giàu có, tươi đẹp:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

     Mỗi lời thơ là một lời giới thiệu, một niềm tự hào to lớn về Tổ quốc của mình. Chẳng thế mà nhà thơ liên tục khẳng định "đây là của chúng ta", lời khẳng định chắc nịch về chủ quyền của đất nước. Và những dòng thơ tiếp theo như một lời giới thiệu về non sông Tổ quốc mình với sự giàu có và tươi đẹp.

     Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tươi vui, xen lẫn hào hùng- cảm hứng sử thi bát ngát. Ở đó chúng ta thấy được một mùa thu mới mẻ, mùa thu của hạnh phúc được làm chủ quê hương của mình.

     Những dòng thơ tiếp theo là hình ảnh của một đất nước trong chiến tranh với bao đau thương, mất mát, thế nhưng, xen lẫn là niềm tự hào về truyền thống đánh giặc của cha ông.

     Như chúng ta đã biết, Việt Nam đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc chiến chống quân xâm lược mà gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Dù có bao nhiêu quân giặc, có mạnh mẽ đến đâu đều bị nhân dân ta đánh bại, làm nên những chiến thắng vẻ vang. Truyền thống đánh giặc ấy không phải chỉ mới có mà nó đã phát triển và được gìn giữ từ bao nhiêu thế hệ trước, từ trận Bạch Đằng đánh quân Nam Hán, đến hai cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên, chúng ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù nào! Nói về truyền thống đánh giặc là nói về niềm tự hào rất đỗi lớn lao của dân tộc Việt Nam ta, những lớp người Việt Nam, lớp này kế tiếp lớp khác luôn đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc dù có phải chịu bao đau thương, bao mất mát, hy sinh. Mỗi lời thơ của tác giả như một lời nhắc nhở chúng ta về đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của cha ông.

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về

     Khơi dậy lên trong lòng mỗi người đọc chúng ta một niềm tự hào dân tộc rất đỗi hào hùng, bởi đất nước của chúng ta là "nước những người chưa bao giờ khuất", chưa bao giờ chúng ta chịu lùi bước trước một kẻ thù nào. Từng tiếng nói "Sát Thát' của cha ông cứ vẳng lên trong đêm, vẳng lên những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

     Không phải dễ dàng chúng ta mới tự hào về truyền thống ấy, bởi chúng ta đã phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh cứu quốc, bao mất mát hy sinh, đau thương:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
...
Đã bật lên những tiếng căm hờn

     Nguyễn Đình Thi đã sử dụng ở đây một loạt những hình ảnh đau thương mà chiến tranh gây lên cho dân tộc ta, nào là "dây thép gai đâm nát trời chiều", nào là "những cánh đồng quê chảy máu",... Tất cả đều là những điều bình dị ở quê hương của chúng ta, nó êm ả là thế cho đến khi bị quân thù giày xéo, chúng đã biến chúng thành biển máu, biển nước mắt. Hình ảnh nhân hóa "cánh đồng quê chảy máu" hay "dây thép gai đâm nát trời chiều" đều nhấn mạnh sự đau thương cùng cảm giác bi phẫn, đau đớn đến nghẹn ngào của tác giả. Ôi, chiến tranh, lũ giặc tàn ác đã cướp đi tất cả những yên bình, những hồn hậu của quê hương ta! Lũ giặc ấy đã khiến cả những "gốc tre hồn hậu" nhất cũng phải "bật lên những tiếng căm hờn"!

     Thế nhưng, xen lẫn trong đau thương, người ta vẫn thấy hiện lên ở đó một nét thi vị, một sự lãng mạn của người chiến sĩ. Trong những đêm hành quân giữa rừng sâu, người chiến sĩ trẻ tuổi ấy không thể không nhớ tới người con gái mà mình yêu thương đang ở nơi quê nhà. Và bỗng đâu, đêm hành quân ấy bỗng trở lên thi vị hóa vô cùng:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

     Còn gì lãng mạn, thi vị hơn thế nữa khi mà tình yêu đôi lứa hòa cùng với tình yêu đất nước, thống nhất trong một tình yêu lớn lao của những người con đất Việt? Nó đã trở thành động lực giúp những người chiến sĩ có thêm sức mạnh để chiến đấu, sớm giành lại độc lập để trở về bên những người thân yêu. Hình ảnh này, chúng ta cũng từng được thấy trong thơ Quang Dũng, khi ông miêu tả những người lính trẻ Hà thành đang hành quân "Tây Tiến":

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

     Chúng ta - những người Việt Nam hiền lành, trung hậu, thế nhưng không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù dù chúng có mạnh mẽ, có những vũ khí tối tân đến thế nào! Chính vì thế mà sự tàn bạo chúng đặt lên đầu nhân dân ta càng khủng khiếp và man rợ bấy nhiêu, bởi chúng muốn đàn áp, muốn nhấn chìm đi những khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Ở tại khổ thơ tiếp theo này, nhà thơ đã liệt kê cho chúng ta thấy được sự dã man của quân thù, những tội ác mà chúng đã gieo rắc cho nhân dân ta:

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da

     Những hình ảnh ấy thật đau đớn làm sao, cho chúng ta thấy được sự tàn ác của bè lũ kẻ thù. Và chính những đau thương ấy, sự khốc liệt ấy vừa khiến ta phải căm hờn vừa rèn giũa cho chúng ta - những người Việt Nam ý chí, sức mạnh, phẩm chất tạo nên những người anh hùng.

Ở hai khổ thơ này, nhà thơ đã sử dụng tương phản hai hình ảnh: tội ác của kẻ thù với sự đau thương cùng sức sống của dân tộc ta để khẳng định những phẩm chất anh hùng, đồng thời khẳng định niềm tin, lòng yêu nước, yêu hòa bình của dân tộc ta:

Xiềng xích bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà

     Cuối cùng để khép lại một bài thơ về đề tài đất nước, Nguyễn Đình Thi đã kể về một đất nước trong niềm vui xây dựng Tổ quốc và trong khát vọng hướng tới tương lai.

     Sau chiến tranh, công cuộc đầu tiên cần thiết lập lại đó là công cuộc xây dựng lại Tổ quốc bằng công nghiệp, bằng lao động. Hình ảnh những tiếng kẻng gọi quân cùng làn khói nhà máy bay lên giữa trời thu như khẳng định được sức mạnh của dân tộc ta, khẳng định sự cố gắng xây dựng Tổ quốc của nhân dân ta. Động từ "ôm đất nước" như cái ôm thật chặt của chính tác giả, bao trọn tình yêu của mình dành cho tất cả con người Việt Nam, ôm trọn những đau thương để giờ đây những con người ấy trở thành bất khuất, trở thành những anh hùng. Phảng phất ở đây là niềm tự hào mạnh mẽ khi chúng ta - một đất nước nhỏ bé đã vươn dậy từ những đau thương mà tiến lên xây dựng một tương lai sáng ngời cho dân tộc mình.

     Cuối cùng, những hình ảnh tươi sáng, đẹp đẽ như "trời đất mới, ánh bình minh" được Nguyễn Đình Thi sử dụng như một hình ảnh gợi lên ngày mai tươi sáng của dân tộc ta. Những con người Việt Nam ta, từ sau chiến tranh, đi lên "như nước vỡ bờ", mạnh mẽ, dữ dội, cố gắng hết sức giành lấy tự do cho chính mình.

     Khép lại bài thơ là một hình ảnh vô cùng hùng vĩ, hào hùng, đẹp đẽ:

Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

     Hai câu thơ nhưng lại là hai hình ảnh đối lập "bùn, máu" với ánh sáng "chói lòa" làm sáng ngời lên ý chí của con người Việt Nam, tinh thần không chịu khuất phục của dân tộc Việt Nam.

     Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ ca ngợi về Tổ quốc, về con người Việt Nam. Nhà thơ đã miêu tả đất nước trong hành trình đi lên từ những đau thương của chiến tranh cho tới khát vọng về một tương lai tương sáng, khi con người Việt Nam được làm chủ quê hương của mình, cùng nhau phát triển đất nước. Sâu bên trong từng câu chữ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống của cha ông qua bao thế hệ và nhắc nhở mọi người về truyền thống "uống nước nhớ nguồn". Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh mang sức gợi lên, giàu chất thơ, lồng trong tình yêu nước sâu sắc. Ngôn từ thơ giản dị, chan chứa yêu thương, niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, các biện pháp nghệ thuật cũng được sử dụng hết sức linh hoạt và nhuần nhuyễn.

     Bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài đất nước trong nền thơ ca Việt. Bài thơ đã khẳng định tên tuổi của Nguyễn Đình Thi, để ông xứng đáng góp mặt trong những nhà thơ xuất sắc nhất của văn đàn thơ của dân tộc ta.

 Top 50 mẫu Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước. (ảnh 3)

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 4

Bài thơ “Đất nước” là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Thi, thể hiện rõ tâm tư và tình cảm của tác giả về quê hương, Tổ quốc. Trước hết, tác giả thể hiện cảm xúc dâng trào trước những đổi thay của mùa thu đất nước:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã gợi lên cho người đọc không khí mùa thu tươi đẹp của đất nước. Đó là một mùa thu đầy ánh sáng với hương cốm phảng phất, là một đặc trưng của thủ đô Hà Nội. Chỉ với vài nét chấm phá, cả không gian lẫn thời gian đều được khắc họa một cách rõ nét. Chính cái không khí ấy đã làm cho tác giả gợi nhớ đến mùa thu trước kia của đất nước. Đó là một mùa thu “chớm lạnh với gió heo may thổi đầy trên “phố dài”. Đó là hình ảnh người chiến sĩ dứt áo “ra đi đầu không ngoảnh lại”, quyết tâm chiến đấu vì hòa bình và hạnh phúc. Nếu thuở Lưu Trọng Lư, hình ảnh người ra đi đượm buồn thì ở đây, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa lên hình ảnh những người chiến sĩ ra đi dứt khoát, vì lý tưởng cao đẹp.

“Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

Ẩn sâu từng lời thơ là hình ảnh thủ đô Hà Nội 1000 năm văn hiến. Mùa thu Hà Nội hiện lên đẹp đẽ, đặc trưng, xen kẽ không gian man mác, đậm chất thơ là hình ảnh con người với những khát vọng rất đáng trân trọng.

Tiếp theo đó, tác giả lý từ quá khứ đến hiện tại. Mùa thu của đất nước đầy vui tươi, hòa ca cùng niềm chiến thắng, độc lập mà biết bao con người đã cùng nhau chiến đấu mới giành được. Mùa thu đi đã khác, con người đã có thể hiên ngang đứng “giữa núi đồi” để ngân để ngân vang bài ca chiến thắng. Tiếng “nói cười”, tiếng hát, như hòa cùng núi sông “xanh biếc”. Và mùa thu của hôm đi dường như đã khác mùa thu ngày hôm qua. Nói như mở ra tương lai của đất nước tươi đẹp, hứa hẹn những đột phá ở phía trước.

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Với điệp từ “đây”, “chúng ta”, “những”,… Nguyễn đình Thi như đã khắc họa được lời ca tiếng hát của biết bao nhiêu con người trong ngày chiến thắng. Giờ đây, bầu trời, núi xanh, những cánh đồng, ngả đường hay là cả những con sông đều đã là của “chúng ta”. Đó như lời ngân vang tràn đầy hạnh phúc và tự hào của nhân dân bởi những nỗ lực và chiến đấu không ngừng đã giành được sự độc lập và hòa bình cho đất nước.  Chỉ với vài vần thơ, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa được tâm thế và những xúc cảm của cả một thế hệ.

Sau những xúc cảm về mùa thu của đất nước, tác giả hồi tưởng lại quãng thời gian đất nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt, hào hùng. Đó là đất nước với những con người bất khuất, dũng cảm, chiến đấu hết mình vì độc lập, tự do của dân tộc:

“Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

Đất nước dường như có sức sống vô cùng bền bỉ. Đó là đất nước của những con người sống mãi với thời gian bởi họ đã dành cả tuổi thanh xuân của mình vì một lý tưởng chung. Đó là một truyền thống nghìn đời của dân tộc. Và sự hào hùng, bất khuất ấy dường như in sâu vào lớp trầm tích ngàn năm với những tiếng “rì rầm” “vọng nói về”, để rồi tiếp thêm sức mạnh cho ngày hôm nay.

Qua ngòi bút của Nguyễn Đình Thi, đất nước hiện lên đau thương nhưng cũng rất đỗi anh hùng:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Những nỗi đau trong quá khứ, những mất mát mà cuộc chiến tranh mang lại có lẽ sẽ không bao giờ có thể quên được. Biết bao con người đã ngã xuống, biết bao cánh đồng xanh mướt một màu đỏ của máu, của khói lửa. Đến cả những con vật vô tri, “những gốc lúa bờ tre hồn hậu” “cũng bật lên những tiếng căm hờn” bởi tội ác dã man mà quân giặc tạo ra. Thế nhưng dù quân giặc của tàn ác đến đâu, dân tộc Việt Nam vẫn luôn luôn dũng cảm, lạc quan, sẵn sàng chiến đấu:

“Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà!”

Lời thơ như khẳng định dù có phải chịu biết bao nhiêu đè nén, tàn ác của thực dân thì đất nước Việt Nam vẫn luôn là mình, hồn hậu, tươi đẹp với “chim”, “hoa”. Và hơn cả là “lòng (…) yêu nước thương nhà” của nhân dân đoàn kết.

Vượt qua tất cả những điều tàn ác, ách đô hộ của kẻ thù, đất nước đã “đứng lên”, “bật lên” để rồi tạo nên kỳ tích mà bình và cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhắc lại, bất cứ kẻ thù nào cũng đều phải run sợ:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Chỉ với bốn câu thơ lục ngôn, Nguyễn Đình Thi đã khép lại bài thơ bằng giọng điệu đanh thép, kiên cường, tự hào. Khẳng định rằng, mỗi khi đất nước lâm nguy, nhân dân Việt Nam sẽ đứng lên, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Đó là một sức mạnh cộng đồng rất đáng trân trọng của nhân dân. Và đó cũng là định nghĩa về đất nước rất thơ của Nguyễn đình Thi. Đó là một đất nước nhỏ bé, lam lũ, suốt chiều dài của lịch sử hết đế quốc này đến địa chỉ khác lăm le xâm lược, Thế nhưng vượt lên trên tất cả, đất nước ấy luôn đứng dậy, kiên cường, mạnh mẽ, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi Với giọng điệu đầy chất thơ, những hình ảnh quen thuộc đậm chất gợi hình, gợi tả, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa quá khứ hào hùng của dân tộc và một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước. Bài thơ “Đất nước” cùng với biết bao tác phẩm khác đã khắc họa nên một đất nước Việt Nam tươi đẹp, có bề dày lịch sử, văn hoá rất đáng trân trọng.

 

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 5

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có nhiều tác phẩm viết về quê hương. Trong đó có bài thơ “Việt Nam quê hương ta”:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”

Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc. Với ngôn từ giản dị, hình ảnh gần gũi khiến cho lời thơ đã in sâu vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam. Mở đầu, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên Việt Nam hài hòa. Cánh đồng lúa rộng mênh mông, những cánh cò trắng bay lả rập rờn và đỉnh núi Trường Sơn hùng vĩ.

Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ nói về phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam. Mảnh đất nghèo khó đã nuôi lớn những bậc anh hùng. Mảnh đất đau thương chìm trong máu lửa chiến tranh nhưng vẫn kiên cường vùng lên đập tan quân thù:

“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa"

Và rồi một đất nước Việt Nam xinh tươi, yên bình đã trở lại. Mảnh đất bốn mùa chan hòa, màu mỡ đã nuôi dưỡng cho ra những hoa thơm cỏ ngọt. Và con người Việt Nam luôn giữ gìn tấm lòng thủy chung, son sắc:

"Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung”

Không chỉ vậy, mảnh đất Việt Nam cũng thật giàu truyền thống. Mỗi vùng đất lại gắn với một nghề truyền thống trăm vùng thì có trăm nghề khiến cho khách phương xa phải tìm đến xem:

“Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”

Hình ảnh so sánh độc đáo “tay người như có phép tiên” đã cho thấy sự khéo léo, tài năng của con người Việt Nam. Câu thơ cuối gợi ra nghề truyền thống làm nón, với hình ảnh chiếc nón bài thơ độc đáo.

Có thể khẳng định rằng, Việt Nam quê hương ta đã giúp người đọc cảm nhận được về một đất nước Việt Nam thật đẹp đẽ, con người Việt Nam với phẩm chất đáng quý. Từ đó, mỗi người thêm cảm thấy tự hào về quê hương của mình.

 

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 6

guyễn Đình Thi là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong số những tác phẩm của ông khi viết về quê hương, đất nước là bài thơ Việt Nam quê hương ta:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”

Những câu thơ trên đã đi vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam bộc lộ niềm tự hào về quê hương. Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh hài hòa màu sắc, cảnh vật của làng quê Việt Nam. Những hình ảnh quen thuộc của làng quê xưa đã đi vào lời thơ. Hình ảnh cánh đồng lúa mênh mông, với những cánh cò trắng bay lả rập rờn cũng từng xuất hiện trong ca dao:

“Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”

Cùng với đó là đỉnh núi Trường Sơn hùng vĩ hiện lên trong sương mờ. Cảnh thiên nhiên đất nước hiện lên với vẻ thanh bình. Và để có được điều đó, biết bao thế hệ đã phải chịu thật nhiều đau thương. Họ vất vả làm lụng ngày này tháng khác. Hình ảnh “áo nâu nhuộm bùn” đã cho thấy được sự tần tảo của những con người thật thà, chất phác nơi thôn quê.

Từ bức tranh làng quê, tác giả đã gợi lại quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam:

“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung”

Con người Việt Nam phải chịu những đau thương, mất mát từ chiến tranh. Mảnh đất quê hương đã nuôi dưỡng những con người anh hùng dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Dù chìm trong máu lửa đau thương, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Không chỉ có vậy, con người Việt Nam trọn vẹn tình nghĩa thủy chung thật đáng ngưỡng mộ.

“Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”

Ngoài phẩm chất tốt đẹp, con người Việt Nam cũng thật tài năng - “trăm nghề của trăm vùng”. Mỗi mảnh đất đều nổi tiếng với một nghề truyền thống được truyền từ đời ông cha để lại. Việt Nam quả là một đất nước giàu truyền thống. Hình ảnh so sánh “tay người như có phép tiên” cho thấy sự khéo léo, tài năng của con người. Câu thơ cuối gợi cho tôi cảm nhận về hình ảnh chiếc nón bài thơ vốn đã quen thuộc.

Như vậy, bài thơ đã gợi ra một đất nước Việt Nam luôn tươi đẹp, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Con người Việt Nam tuy vất vả nhưng khéo léo, kiên cường và thủy chung.

 

Hãy giới thiệu và nêu ý kiến đánh giá của em về một bài thơ thuộc đề tài quê hương đất nước – Mẫu 7

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có rất nhiều tác phẩm hay viết về quê hương, đất nước. Một trong số đó là bài thơ “Việt Nam quê hương ta”:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”

Những câu thơ mở đầu bài thơ giúp hình dung về phong cảnh và con người Việt Nam. Với bốn câu thơ đầu tiên, tác giả đã khắc họa phong cảnh rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình. Những hình ảnh tiêu biểu cho đất nước, con người Việt Nam được tác giả khắc họa như: “biển lúa, cánh cò, đỉnh Trường Sơn, áo nâu nhuộm bùn, đất nghèo, hoa thơm quả ngọt”. Cùng với đó là đức tính tốt đẹp của người Việt Nam - sự vất vả, cần cù nhưng vẫn giữ phẩm chất tốt đẹp. Đến bốn câu thơ sau, nhà thơ đã cho người đọc thấy được truyền thống đánh giặc bảo vệ đất nước. Từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với những kẻ thù xâm lược. Nhưng trong hoàn cảnh đó, nhân dân ta vẫn kiên cường, đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù. Nhiều anh hùng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân bảo vệ đất nước. Tóm lại, tám câu thơ đầu giúp người đọc hiểu được vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ cũng như vẻ đẹp người lao động cần cù, vẻ đẹp của truyền thống chống giặc ngoại xâm, tấm lòng thủy chung son sắc, sự tài hoa khéo léo của con người.

Khi đọc những câu thơ tiếp theo, người đọc sẽ hiểu hơn về phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam:

“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

Việt Nam đất nắng chan hoà

Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung”

Đó là tinh thần kiên cường, bất khuất (chịu nhiều đau thương, chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên, đạp quân thù xuống đất đen) và chịu thương chịu khó (súng gươm vứt bỏ lại hiền hơn xưa). Cùng với tình nghĩa thủy chung - “yêu ai yêu trọn tấm lòng thuỷ chung”. Và cả sự tài hoa, khéo léo của con người - “tay người như có phép tiên”. Từ những sự vật tưởng chừng như khó nhất cũng có thể tạo nên được những kiệt tác. Nguyễn Đình Thi đã bộc lộ lòng tự hào, tình yêu sâu sắc dành cho con người, đất nước Việt Nam.

Như vậy, bài thơ “Việt Nam quê hương ta” đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Đồng thời, chúng ta cũng thêm yêu hơn quê hương, đất nước của mình

 

Tài liệu có 20 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.3 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
757 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
841 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
662 1 0

Tìm kiếm

Tài Liệu Tải Nhiều

Tài Liệu Cùng Lớp

Tải xuống