Top 50 bài Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người hay nhất

Toptailieu.vn xin giới thiệu 50 bài văn Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 7 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

1. Mở bài

- Giới thiệu về ca dao, dân ca (định nghĩa, đặc điểm nội dung và đặc điểm nghệ thuật,...)

- Giới thiệu về “Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người” (khái quát đặc điểm, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật...)

2. Thân bài

a. Phân tích bài thứ nhất

- Bài ca dao là sự đối đáp thử tài của đôi trai gái được vẽ lên như một bức tranh phác họa nên bản đồ địa lí các địa danh có những điểm nổi bật và văn hóa lịch sử qua sự đối đáp một người hỏi - một người trả lời của chàng trai và cô gái.

- Các địa điểm với những nét nổi bật về lịch sử cũng như nét riêng được khéo léo đưa vào câu hỏi với những nét gần gũi, thân thuộc như: “ở đâu năm cửa”; “sông chảy sáu khúc”; “sông nào bên đục bên trong”; “núi nào có thánh sinh”; “đền thiêng xứ thanh”; “thành tiên xây”, tất cả đều là những gợi ý cho câu hỏi của chàng trai đối với cô gái.

- Tổ quốc ta thật đẹp, non sông gấm vóc với biết bao những địa danh với khung cảnh tráng lệ. Thể hiện qua sự đối đáp của cô gái dành cho chàng trai: các địa danh của cô gái đáp lại cho chàng trai “thành Hà Nội”; “sông Lục Đầu”; “sông Thương”; “Núi Tản”; “đền Sòng”; “tỉnh Lạng”.

- Bài đối đáp như là một cách thức chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước.

=> Có thể nói, bên cạnh tình yêu lứa đôi trai gái thông thường giờ đây đã lan tỏa thành tình yêu đối với đất nước, đối với quê hương, với những con người chung một gốc, chung một cội nguồn. Một tình yêu lớn, vĩ đại, dài lâu.

b. Phân tích bài thơ thứ hai

- Khi mối quan hệ đã trở nên thân thiết hơn, gần gũi hơn, thì người ta mong muốn đi chung một lối, chung một đường, cùng nhau đi ngao du thưởng ngoạn.

- Bài ca là bức tranh sinh động với sự xuất hiện của loạt các địa danh thưởng ngoạn quen thuộc như “Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, đài Nghiên tháp Bút” đây là những di tích, địa điểm du lịch thân quen, biểu tượng ở Hà Nội.

Những cảnh đẹp đặc trưng, tiêu biểu của Hà Nội được miêu tả cụ thể, từ khái quát đến chi tiết gợi nên tình yêu quê hương, đất nước.

- Câu hỏi tu từ cuối bài vừa tự nhiên vừa mang âm điệu tâm tình, thủ thỉ gợi nhắc công ơn xây dựng đất nước của cha ông, khơi dậy trong lòng người đọc lòng biết ơn, niềm tự hào dân tộc.

=> Các địa danh được nêu lên không chỉ là sự tự hào về sự cổ kính của các địa điểm của thủ đô, trái tim của cả nước mà hơn hết, đó còn là lời nhắc gửi đến thế hệ sau cần phải biết trân trọng, giữ gìn và tự hào về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó.

c. Phân tích bài thơ thứ ba

- Từ láy “quanh quanh” gợi sự quanh co, uốn khúc, gập ghềnh, khúc khuỷu, xa xôi.

- Sử dụng thành ngữ “non xanh nước biếc”.

- Hình ảnh sơ sánh “như tranh họa đồ”.

⇒ Cảnh sắc thiên nhiên sông núi hùng vĩ, tráng lệ, thơ mộng, trữ tình, gợi nên trong lòng người đọc lòng tự hào, tình yêu quê hương.

- Câu thơ cuối bài với việc sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” như một lời mời chào chân tình, lời vẫy gọi mọi người hãy về với sứ Huế hữu tình, nên thơ.

⇒ Bài ca dao ca ngợi vẻ đẹp con đường vào xứ Huế, đồng thời, thể hiện tình yêu, lòng tự hào và ý tình kết bạn tinh tế, sâu sắc.

d. Phân tích bài thơ thứ tư

- Cấu trúc câu đặc biệt:

   + Câu 1 và câu 2 dãn dài ra, dai 12 tiếng.

   + Ngắt nhịp 4/4/4 cân đối, hài hòa.

- Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn vùng miền: bên ni, bên tê,…

- Nghệ thuật: điệp ngữ, đảo ngữ.

⇒ Khắc họa không gian rộng lớn, bát ngát, mênh mông của cảnh vật qua cái nhìn mải mê, sung sướng của người ngắm cảnh.

- Hình ảnh cô gái so sánh với “chẽn lúa đòng đòng”, “phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.

⇒ Người con gái tràn đầy sức sống, xuân sắc nhưng mảnh mai, yếu đuối

⇒ Bài ca dao ca ngợi vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên rộng lớn, trù phú cùng vẻ đẹp và sức sống của con người lao động.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

+ Nội dung: gợi nên những cảnh sắc của quê hương đất nước, khơi dậy tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, con người.

+ Nghệ thuật: thể thơ lục bát/lục bát biến thể, giọng điệu nhẹ nhàng, tâm tình.

- Cảm nhận về chùm ca dao: Những câu hát về tình yêu, đất nước, con người mang ý nghĩa gợi nhiều hơn tả. Với nội dung chính, xuyên suốt khắp bài chính là bức tranh phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tình yêu chân chất tinh tế và lòng tự hào đối với con người, đối với quê hương, đất nước.

Video Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

 

Video Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 1

   Nếu ca dao - dân ca về tình cảm gia đình thường là những bài hát ru, thì ca dao - dân ca về tình yêu quê hương, đất nước, con người thường là những bài hát đối đáp, những khúc ca ngẫu hứng tự nhiên cất lên trong sinh hoạt cộng đồng, trong lễ hội, khi ngoạn cảnh, lúc đứng ngắm đồng ruộng quê hương,... Chùm ca dao Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người (Ngữ văn 7, tập một) có lẽ là những bài ca tiêu biểu. Điều thú vị là chỉ bốn bài ca ngắn gọn mà chúng ta nghe được nhiều giọng điệu khác nhau, nhìn ngắm, thưởng thức được nhiểu địa danh, nhiều phong cảnh kì thú khác nhau.

   Ở bài ca dao thứ nhất, chàng trai, cô gái hỏi - đáp về những địa danh mang những đặc điểm nổi bật. Thành Hà Nội năm cửa, sông Lục Đầu sáu khúc chảy êm đềm, nước sông Thương bên đục bên trong, núi Tản Viên, đền Sòng, thành tiên ở Lạng Sơn... Chàng trai hỏi, cô gái đáp, hỏi đáp rất hài hoà, ăn ý. Đây là một hình thức ca hát dân gian thường xuất hiện trong những lễ hội, hội mùa xuân, hội mùa thu ở nhiều vùng quê Việt Nam : hội hát xoan Phú Thọ, hội Lim Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ - Tĩnh, hát ví ghẹo, giao duyên ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền Trung và nhiều tỉnh Nam Bộ,... Qua hát đối đáp, đồi bên nam, nữ (có thể là chàng trai cô gái, cũng có thể là cụ ông, cụ bà,...) thử tài nhau về kiến thức lịch sử, địa lí, văn hoá, cũng là để chia sẻ với nhau tình yêu nam nữ, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước. Lắng nghe lời hỏi, đáp của hai nhân vật trữ tình trong bài ca ơ đâu năm cửa nàng ơi... chúng ta thấy hiện lên nhiều địa danh từ thủ đô Hà Nội đến Hải Dương, Bắc Giang, vào Thanh Hoá, rồi ngược Lạng Sơn. Mỗi vùng có một nét đẹp riêng, hợp thành một bức tranh non nước Việt Nam thơ mộng, giàu truyền thống văn hoá. Không trực tiếp nói ra, nhưng cả nsười hỏi lẫn người đáp đều biểu hiện tình yêu, niềm tự hào vể quê hương, Tổ quốc mình. Bài ca còn kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn, chàng trai hỏi tiếp:

Ở đâu có chín từng mây

Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?

Chùa nào mủ lại ở hang

Ở đâu lắm gỗ thì nàng biết không?...

Cô gái đáp:

Trên trời có chín từng mây

Dưới sông lắm nước, núi nay nhiều vàng

Chùa Hương Tích thì lại ở hang

Trên rừng lắm gỗ, hỡi chàng biết không...

   Như vậy, chàng trai, cô gái trong cuộc hát giao duyên này nói riêng, nhân dân lao động Việt Nam ta nói chung không chỉ say đắm, mến yêu, tự hào về giang sơn Việt Nam cẩm tú mà còn tỏ ra là những người lịch lãm, hào hoa, tế nhị và giàu hiểu biết, thật đáng noi theo.

   Tiếp sau những cuộc hát đối đáp là những chuyến du lịch. Một nhóm người, hoặc cả đoàn người đông vui chung niềm khao khát được thưởng thức cảnh đẹp ở đất kinh kì, ở xứ Huế cố đô "rủ nhau", gọi nhau... Cảnh ở kinh kì thật phong phú, có hồ (Kiếm Hồ), có cầu (Thê Húc), có đền (Ngọc Sơn), có đài, có tháp, cảnh thiên tạo hài hoà với cảnh nhân tạo, nét đẹp tự nhiên hài hoà với nét đẹp lịch sử, văn hoá. Còn ở Huế, cảnh mới thơ mộng làm sao, đường quanh quanh uốn lượn hài hoà với "non xanh", "nước biếc", sơn thuỷ hữu tình. Với cảnh ở Hà Nội, tác giả dân gian không tả mà chỉ kể, theo kiểu liệt kê, các chi tiết cảnh nối nhau thật phong phú, đa dạng. Còn với Huế, cảnh được miêu tả theo kiểu chấm phá lướt qua: đường, núi, nước. Mỗi đối tượng được nhấn mạnh bằng một tính từ gợi hình. Đường thì "quanh quanh", núi thì "xanh", nước (sông Hương) thì "biếc". Thêm nữa, từ láy hoàn toàn "quanh quanh" và phép so sánh "như tranh hoạ đồ" khiến cho xứ Huế càng... mộng và... thơ. Thăm Hà Nội kinh kì, rồi vô xứ Huế cố đô, chúng ta được ngắm cảnh, được thăm viếng những di tích lịch sử, văn hoá, lòng càng thêm yêu Tổ quốc tươi đẹp, trí càng thêm rộng mờ và lắng sâu, ghi nhớ công ơn người xưa đã tôn tạo và giữ gìn "bức tranh hoạ đồ" quý giá.

   Bài ca dao thứ tư, thú vị thay, giọng ca, lời ca phóng khoáng linh hoạt, cảnh thiên nhiên và nhân vật trữ tình hoà hợp, đậm chất đồng quê, khác hẳn hai bài trước:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn lúa đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

   Về bố cục, bài ca dao này gồm hai phần vừa độc lập vừa gắn bó với nhau. Hai câu đầu tả cảnh đồng lúa trong buổi bình minh. Hai câu sau miêu tả dáng hình cô thôn nữ đẹp đẽ, thơ mộng như đồng lúa, như những chẽn lúa... về giọng điệu, đây là loại bài ca tự do, ngôn ngữ được nới rộng theo đối tượng miêu tả và tâm trạng nhân vật trữ tình. Hai câu đầu, mỗi câu kéo dài mười hai tiếng. Câu thứ ba không phái sáu tiếng mà là bảy tiếng. Chỉ câu bốn mới trở lại tám tiếng bắt vần với câu ba giống thể thơ lục bát. Đây là bài ca dao lục bát biến thể, một thể thơ khá phố biến trong kho tàng ca dao Việt Nam.

   Điều cần trao đổi về bài ca này là chủ thể trữ tình. Ai "đứng... ngó" cánh đồng ? Ai nói: "thân em" ? Đây là lời người khác hỏi, hay lời cô gái tự than ? Có người cho rằng đây là lời chàng trai làng. Chàng trai thấy cánh đồng mênh mông, bát ngát, thấy cô gái xinh đẹp, mảnh mai..., tỏ lời ca ngợi cánh đồng, tỏ tình với cô gái. Có người lại hiểu: đây là lời cô gái. Đứng ngắm đồng quê xanh tốt, lúa đang ngậm đòng, cô thôn nữ đã cất lời ca, ca ngợi cảnh giàu đẹp của cánh đồng, từ đó nghĩ về mình, nhan sắc và thân phận mình...

   Nếu hiểu theo cách thứ nhất - lời chàng trai - thì bài ca này thuộc nhóm ca dao tỏ tình, ví ghẹo. Ví dụ:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Hoặc:

Ai đi đâu đấy hỡi ai

Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.

   Mở đầu các bài ca này thường là tiếng gọi, rồi tiếp sau là một câu hỏi ỡm ờ, dưa duyên. Hoặc nếu không thì cũng là những lời ca ngợi khéo léo để làm đẹp lòng người mình đang hướng tới. Ví dụ:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình

Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.

Nếu hiểu theo cách hai - lời cô gái - thì bài ca này thuộc nhóm ca dao mượn cảnh ngụ tình, trước thiên nhiên và cuộc sống, con người giãi bày tâm sự. Ví dụ:

Một ngày hai buổi cơm đèn

Còn gì má phấn, răng đen, hỡi chàng.

Hoặc:

- Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

- Thân em như hạt mưa sa...

   Suy ngẫm trên cơ sở văn bản, cả nội dung, cảm hứng lẫn giọng diệu, ngôn từ, có lẽ hiểu bài ca dao "Đứng bên ni đồng..." theo cách hai là sát hợp hơn. Đây là lời cô thôn nữ trước đồng ruộng quê hương, vừa ca ngợi cảnh đẹp cánh đồng vừa tự ngắm rồi dự cảm về thân phận mình. Nếu là lời chàng trai, e rằng không sát, vì không ai tỏ tình lại nói với đối tượng bằng từ "thân em" nghe không duyên dáng, thiếu tế nhị.

    Dù hiểu thế nào thì chúng ta cũng đều cảm nhận rằng bài ca dao này là tiếng hát chứa chan tình cảm đối với đồng ruộng, quê hương và con người quê hương. Hai câu đầu, hai dòng thơ kéo dài, kết hợp điệp từ, đảo từ và đối xứng (đứng bên tê đồng - đứng bên ni đồng ; mênh mông bát ngát - bát ngát mênh mông) đặc tả vẻ đẹp của đồng lúa. Nhìn từ đâu, nhìn ở phía nào cũng thấy đồng ruộng mênh mông, rộng lớn, đẹp đẽ, trù phú và mang sức sống trẻ trung, phơi phới. Trước một cánh đồng như thế, ai chẳng xúc động, chẳng mến yêu quê hương mình, nhất là các cô thôn nữ. Bởi vì, tất cả nét đẹp và trù phú kia không phải trời cho mà chính từ đôi bàn tay, từ công sức của con người, trong đó có mình. Từ cảnh mà sinh tình, ngắm cánh đồng, cô gái tự ngắm mình, vui thú, tự hào về vóc dáng nhỏ xinh, mềm mại của mình "Thân em như chẽn lúa đòng đòng...". Mình xinh đẹp, tràn trề sức sống, nhưng tương lai ra sao thì... khó đoán được. Nghệ thuật so sánh (như chẽn lúa) kết hợp các từ "thân em", "phất phơ" vừa tả vẻ đẹp vừa biểu hiện tâm trạng cô gái. Cô gái tự hào vì mình đang tuổi thanh xuân, tươi tắn hoà hợp trong vẻ đẹp và sức sống của đồng ruộng quê hương. Nhưng cô không khỏi bâng khuâng, lo lắng về số phận ngày mai. "Nắng sớm thì đẹp, cánh đồng thì rất rộng, nhưng chẽn lúa thì nhỏ nhoi, vô định giữa một biển lúa không bờ. Chẽn lúa phất phơ trong cánh đồng quá rộng này cũng như dải lựa đào phất phơ giữa chợ, không biết số phận mình sẽ được an bài như thế nào đây"... Tâm sự của cô gái trong bài ca dao này cũng là nỗi niêm của rất nhiều cô gái xinh đẹp trong nhiều bài ca dao khác gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về thân phận con người trong xã hội ngày xưa.

   Những bài ca dao trên có giọng điệu khác nhau nhưng mang vẻ đẹp nghệ thuật và nội dung, ý nghĩa thật phong phú. Điều chúng ta ghi nhớ nhất là: Những câu hát về quê hương, đất nước, con người thường gợi nhiều hơn tả, nhắc đến tên núi, tên sông, tên vùng đất với những nét đặc sắc vê hình thể, cánh trí, lịch sử, văn hoá của từng địa danh. Đằng sau những câu hỏi, lời đáp, lời mời, lời nhắn gửi và các bức tranh phong cảnh luôn là tình yên chân chất, tinh tế và niềm tự hào đối với quê hương, đất nước, con người...

Đoạn văn về tình yêu quê hương đất nước - Văn 7 (23 mẫu)

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 2

   Tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước, con người là nội dung khá phổ biến của ca dao, dân ca. Ẩn chứa trong những câu hát đối đáp, những lời mời mọc, nhắn gửi ... là tình yêu chân thành, tha thiết, là niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người ... Sau đây là một vài bài tiêu biểu:

Hỏi:     Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

 

Đáp:     Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

   

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

 

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô ...

 

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Câu hát thứ nhất:

   Đây là câu hỏi và lời đáp (đố - giải đố) về những địa danh nổi tiếng của đất nước trong những buổi hát giao lưu, giao duyên của hai bên nam nữ ở các dịp lễ hội, đình đám, vui Tết, vui xuân ... hay lúc nông nhàn. Các câu hỏi xoay quanh kiến thức địa lí, lịch sử, các nhân vật nổi tiếng hoặc phong tục xã hội ... Điều thú vị là người hỏi biết chọn ra những đặc điểm tiêu biểu của từng địa danh để đánh đố:

Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

Người đáp trả lời rất đúng:

Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

   Hỏi - đáp là hình thức thể hiện, chia sẻ sự hiểu biết cũng như niêm tự hào và tình yêu đối với quê hương, đất nước. Qua lời hỏi và lời đáp, ta thấy các chàng trai và các cô gái đều có hiểu biết sâu rộng, thái độ lịch lãm và tế nhị. Thử thách đầu tiên này là cơ sở để tiến xa hơn trong sự kết giao về mặt tình cảm.

Câu hát thứ hai:

   Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

   Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

   Mở đầu câu hát là cụm từ Rủ nhau quen thuộc trong ca dao: Rủ nhau xuống biển mò cua ... Rủ nhau lên núi đốt than ... Rủ nhau đi tắm hồ sen ... Ở bài này là Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, một thắng cảnh có giá trị lịch sử và văn hóa rất tiêu biểu của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

   Câu hát này gợi nhiều hơn tả. Nó gợi tưởng tượng của người đọc bằng cách nhắc đến những cái tên tiêu biểu cho cảnh đẹp Hồ Gươm như: cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút. Cảnh sắc đẹp đẽ, đa dạng hợp thành một không gian thơ mộng, thiêng liêng, mang đậm dấu ấn lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.

   Những địa danh, cảnh trí trên được nhắc đến bằng tình yêu tha thiết và niềm hãnh diện, tự hào của người dân về Hồ Gươm, về kinh đo Thăng Long nói riêng và cả đất nước nói chung.

   Câu cuối: Hỏi ai gây dựng nên non nước này? là câu hỏi tu từ nghệ thuật, có tác dụng nhấn mạnh và khẳng định vai trò to lớn của tổ tiên, ông cha chúng ta trong sự nghiệp dựng xây non sông gấm vóc của dòng giống Tiên Rồng. Đây cũng là dòng thơ xúc động nhật. Câu hát nhắc nhở các thế hệ con cháu phải biết tiếp tục giũ gìn và phát huy tinh hoa truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Cảnh đẹp Hồ Gươm ở đây được nâng lên ngang tầm non nước, tượng trưng cho non nước Việt Nam.

Câu hát thứ ba:

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô ...

   Cảnh thiên nhiên non xanh, nước biếc trên đường vào xứ Huế đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình.

   Các tính từ quanh quanh, xanh, biếc ... và cách so sánh thường thấy trong văn chương đã khẳng định vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh trên con đường thiên lí từ miền Bắc vào miền Trung, đặc biệt là xứ Huế.

   Ai vô xứ Huế thì vô là lời nhắn nhủ, mời gọi. Đại từ phiếm chỉ Ai thường có nhiều nghĩa. Nó có thể chỉ số ít hoặc số nhiều, có thể chỉ một người mà cũng có thể là mọi người.

   Câu hát thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào về vẻ đẹp thơ mộng của đất cố đô. Đây cũng là cách giới thiệu mang sắc thái tinh tế, thanh lịch của người dân xứ Huế.

 

Câu hát thứ tư:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

   Có hai cách hiểu khác nhau về câu hát này, dựa trên sự thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể là một chàng tải hoặ một cô gái.

   Cách hiểu thứ nhất: Đây là lời của một chàng trai trong một sớm mai nào đó ra thăm đồng. Đứng trước cánh đồng mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông và trước vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cô thôn nữ, chàng trai đã cất lên lời ngợi ca để thông qua đó bày tỏ tình cảm của mình.

   Bài này có những dòng kéo dài tới 12 tiếng đặc tả cánh đồng rộng mênh mông. Các điệp ngữ, đảo ngữ và phép đối xứng (đứng bên ni đồng - đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát - bát ngát mênh mông) gợi cho người đọc có cảm giác đứng ở phía nào cũng thấy cánh đồng kéo dài đến tận chân trời. Cánh đồng quê hương không chỉ rộng lớn mà còn đẹp đẽ, trù phú và đầy sức sống.

   Hình ảnh cô gái được so sánh rất tự nhiên mà không kém phần đẹp đẽ: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Giữa con người và cảnh vật có sự tương đồng ở nét tươi tắn, phơi phới sức xuân.

   Cách hiểu thứ hai cho rằng bài ca này là lời của một cô gái. Trước cánh đồng lúa xanh tốt, ngời ngời sức sống, cô gái nghĩ về tuổi thanh xuân của mình và bỗng dưng cảm thấy có một nguồn hứng khởi đang dào dạt trong lòng; từ đó nảy ra so sánh tuyệt vời: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Cô gái cảm thấy mình đẹp, một vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung, đầy sức sống. Niêm vui sướng, tự hào về cảnh vật và con người của quê hương được thể hiện rất tinh tế trong từng chữ, từng câu.

   Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước thường nhắc đến tên núi, tên sông, tên những vùng đất với nét đặc sắc về cảnh trí, lịch sử, văn hóa ... Ẩn chứa đằng sau những bức tranh phong cảnh đẹp đẽ ấy là tình yêu tha thiết, nồng nàn của người dân đất Việt.

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 3

   Ca dao, dân ca là tiếng hát tâm tình sâu lắng của người dân lao động nghèo, diễn tả tinh tế thế giới nội tâm phong phú của họ. Đó không chỉ là những tiếng ca than thân trách phận đầy xót xa, tiếng hát về tình yêu gia đình ngọt ngào, đằm thắm mà đó còn là những câu ca về tình yêu quê hương đất nước con người đầy mãnh liệt tha thiết. Ẩn chứa trong những bài ca dao ấy ấy là tình cảm tinh tế, chân thành, niềm tự hào đối với con người, quê hương.

   Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước thường được thể hiện qua lời đối đáp, lời mời gọi, lời nhắn nhủ. Về hình thức, những bài ca dao về tình yêu quê hương, đất nước chủ yếu gợi nhiều hơn tả, bên cạnh việc sử dụng thể thơ lục bát các tác giả dân gian còn dùng cả nhưng câu thơ tự do để thể hiện cảm xúc một cách phóng khoáng, tự do. Về nội dung, những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước hay nhắc tới tên sông tên núi, những danh lam thắng cảnh, những vùng đất, địa danh lịch sử, văn hóa ở nhiều vùng miền khác nhau. Kho tàng những câu ca về tình yêu quê hương đất nước vô cùng phong phú, trong đó để nhiều ấn tượng sâu sắc nhất với tôi đó là một số bài ca dao sau:

 Câu hát đầu tiên:

“Ở đâu năm cửa nàng ơi

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng

....

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây”.

   Bài ca dao sử dụng hình thức hát đối đáp quen thuộc trong ca dao giao duyên, đôi bên nam nữ hỏi đáp rất hài hòa ăn ý trong những dịp lễ hội. Đối với bài ca dao này, chàng trai hỏi cô gái trả lời để thử tài kiến thức về lịch sử, địa lí, đồng thời cũng là sự gắn kết trong tình yêu nam nữ. Cách xưng hô “nàng ơi, chàng ơi” vừa dịu dàng vừa tình tứ, tha thiết. Những câu hỏi của chàng trai đều liên quan đến địa danh sông núi, đền đài, cửa ô, thành quách rất đẹp và nổi tiếng của nước ta. Đặc biệt, chàng trai tỏ ra rất tinh tế và thông minh khi đem những đặc trưng tiêu biểu nhất của các địa danh để thử thách. Những cô gái cũng duyên dáng và thông tuệ không kém khi đưa ra những câu trả lời vừa ngắn gọn lại rất chính xác. Một loạt các địa danh nổi tiếng trên khắp mọi miền tổ quốc được gọi tên như thành Hà Nội, sông Lục Đầu, sông Thương, núi Đức Thánh Tản, Đền Sòng, tỉnh Lạng. Chàng trai và cô gái như đang đưa chúng ta cùng đi khám phá, thưởng thức những vẻ đẹp non sông dọc miền tổ quốc. Qua bài ca dao, ta cảm nhận được niềm tự hào về danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước, đây cũng chính là biểu hiện cụ thể sinh động của tình yêu quê hương, đất nước, Đồng thời qua cách đối đáp cũng cho thấy cũng cho thấy sự thông thái, hiểu biết sâu rộng của con người Việt Nam.

   Bài ca dao thứ hai:

“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ

Xem cầu Thê Húc xem chùa Ngọc Sơn

Đài Nghiên, tháp bút chưa mòn

Hỏi ai xây dựng lên non nước này”

   Không còn là màn đối đáp giao duyên tinh tứ, câu hát này đã trực tiếp nói lên lời mời chào đầy tha thiết, chân thành của người dân đất kinh kì hãy về thăm thú cảnh đẹp quê hương của họ. Bài ca dao mở đầu bằng motip quen thuộc rủ nhau: “rủ nhau đi hái mẫu đơn”, ‘rủ nhau bước xuống ruộng vào”, “rủ nhau đi tắm hồ sen”,...thì ở đây là “rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, xem Cầu Thê Húc xem chùa Ngọc Sơn,...”. Một loạt những thắng cảnh nổi tiếng có giá trị về văn hóa, lịch sử của mảnh đất ngàn năm văn hiến được nhắc đến trong câu ca. Bài ca dao không tả mà chỉ gợi ra những địa danh, tất cả hợp lại làm nên một bức tranh thắng cảnh vô cùng đẹp, thơ mộng mà thiêng liêng. Người đọc có được một cuộc du hành trong trí tưởng tượng, mặc sức liên tưởng về những nét đẹp của các địa danh ấy. Qua lời mời chào ấy, người dân kinh kì đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về lịch sử, kiến trúc văn hóa, truyền thống hiếu học của con người Thăng Long nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Đặc biệt câu hỏi tu từ cuối bài có ý nghĩa đặc biệt, vừa gợi nhắc đến công lao xây dựng non sống của cha ông, vừa thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn tới công lao của những người anh hùng ấy. Chính vì thế câu ca dao còn là lời nhắc nhở lời răn dạy con cháu mai sau biết trân trọng, giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa ngàn đời của dân tộc.

   Câu hát thứ ba:

“Đường vô xứ Huế quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Ai vô xứ Huế thì vô...”

   Tiếp tục là một lời mời chào tình tứ, ngọt ngào của những người con đến từ xứ Huế mộng mơ. Khác với câu ca thứ hai, câu hát này không gợi mà đi sâu miêu tả về cảnh đẹp quê hương. Các từ láy “quanh quanh” cùng với hình ảnh so sánh non xanh nước biếc như tranh họa đồ đã vẽ lên bức tranh sơn thủy hữu tình của mảnh đất vốn nổi tiếng thơ mộng, dịu dàng. Câu ca cuối cùng “ai vô xứ Huế thì vô” là lời mời cũng là lời nhắn nhủ với khách phương xa hãy một lần về với xứ Huế, về với non xanh nước biếc đẹp như tiên cảnh của nơi đây. Trước lời mời đáng mến đáng yêu như thế thì ai nỡ buông lời từ chối. Câu hát đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất cố đô đẹp mộng mơ, đồng thời qua lời mời mọc giới thiệu còn cho thấy cách ứng xử tinh tế, thanh lịch của con người xứ Huế.

   Câu ca dao thứ tư:

“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát

...Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”

   Nếu như hai bài ca dao trước đưa ta về thăm thú thắng cảnh của miền Bắc, miền Trung tổ quốc thì đến bài câu hát này ta tiếp tục về thăm miền Nam ruột thịt. Cảnh đẹp đặc trưng nhất của mảnh đất Nam Bộ đó là những ruộng lúa rộng dài mênh mông. Hai câu đầu bài ca dao với hình thức đặc biệt có tới 12 tiếng kéo dài trong một câu như một lời ngân nga không dứt để ngợi ca bức tranh ruộng đồng. Kết cấu câu ca đối xứng “đứng bên ni đồng – đứng bên tê đồng, ngó bên tê đồng – ngó bên ni đồng, mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông” cùng với cách sử dụng các điệp ngữ, đảo ngữ, từ láy khiến ta hình dung như đang đứng trước một cánh đồng rộng lớn bát ngát, không chỉ rộng dài mà còn vô cùng trù phú. Từ bức tranh cánh đồng, hình ảnh cô gái xuất hiện đầy sức sống. Cũng mở đầu bằng mô típ “thân em” nhưng đây không phải lời than thân trách phận mà là tiếng nói tự hào về vẻ đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh so sánh thân em với chẽn lúa đòng đòng phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban man cho thấy sức sống mơn mởn, tinh khôi, trẻ trung của người con gái Nam bộ. Hai câu cuối, ta vừa có thể liên tưởng đến lời của chàng trai, đứng trước ruộng đồng mênh mông mà thốt lên vẻ đẹp của người con gái mình yêu, vừa có thể hình dung đây là lời của cô gái, trước cảnh ruộng đồng tốt tươi tràn đầy sức sống, cô gái cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn của mình. Lời ca cất lên đã cho ta thấy tình yêu, niềm trân trọng, tự hào của con người Nam Bộ với phong cảnh và con người quê hương.

   Như vậy, có thể thấy cả bốn bài ca dao đều là tiếng hát ngọt ngào, đằm thắm ngợi ca vẻ đẹp quê hương, đất nước và con người ở nhiều vùng miền khác nhau. Với những hình thức thể hiện khác nhau, những nội dung biểu đạt riêng biệt song tình yêu và niềm tự hào về mảnh đất và con người mình sinh ra là không thay đổi.

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương | Văn mẫu

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 4

 

Từ xưa đến nay, những câu ca dao giân dan luôn ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người con đất Việt, nó cũng đóng góp một phần quan trọng vào nét đặc sắc, phong phú của văn học Việt Nam. Và, những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con người chính là một hình thức tiêu biểu trong muôn ngàn những câu ca dao đó.

Mở đầu bằng đoạn:

“-Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

-Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.”

Đây là hình thức đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình, giao duyên cổ truyền ở nước ta. Qua từ “chàng, nàng” ta có thể thấy bên hỏi là nam, bên đáp là nữ, họ nói với nhau về các cảnh quan của đất nước. Cách hỏi và đáp thể hiện sự tế nhị, lịch sự, am hiểu. Bên hỏi hỏi về những địa danh, di tích nổi tiếng, bên đáp trả lời rất cụ thể rõ ràng, nói lên trí thông minh, niềm yêu thương, tự  hào dân tộc và sự giao lưu tình cảm giữa nam và nữ.

Tiếp đến, bài thơ thứ hai nói về sự yêu mến, hãnh diện về cành đẹp ở HỒ Gươm, Hà Nội:

“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”

Bằng phép liệt kê một loạt các địa danh “Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, Đài Nghiên, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn” đã bộc lộ cách kết hợp hoàn hảo, tinh tế giữa cảnh đẹp tự nhiên và nhân tạo. Đồng thờ, cách dùng từ “Rủ nhau” cũng phần nào gợi lên không khí tấp nập, đông vui của người đến tham quan cảnh đẹp nơi đây, cùng với câu hỏi tu từ cuối đoạn như một lời nhắc nhở của ông cha ta với con cháu đời sau, nhắc nhở các thế hệ nối tiếp cần biết ơn, tự hào về vẻ đẹp quê hương và biết giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống.

Không chỉ có vậy, đoạn thơ thứ ba gợi ra cho người đọc về hình ảnh xứ Huế xinh đẹp, thơ mộng:

“Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô ...”

Qua đây, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tươi mát, nên thơ của vùng đất Huế. Đại từ phiếm chỉ “ai” như một lời mời gọi, nhắn gửi mọi người hãy đến nơi đây, ghé thăm đất Huế với cảnh đẹp như tranh. Cũng chính nhờ kết cấu đặc biệt mà đoạn thơ không những là một lời mời, nó còn toát lên niềm tự hào, chất chứa ân tình với vẻ đẹp xứ Huế.

Kết thúc văn bản, chúng ta lại được theo chân tác giả đi tới dải đất miền Trung cùng những cánh đồng bao la, bát ngát:

“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.”

Với kết cấu độc đáo, các câu dài, ngắn khác nhau cùng phép điệp ngữ ở hai câu đầu, cụm từ bên dưới nối với cụm từ bên trên đã tạo thành điệp ngữ vòng tròn, tăng thêm sự hấp dẫn cho đoạn thơ. Nghệ thuật đảo ngữ “mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông” càng nhấn mạnh hơn cái bao la. rộng lớn của cánh đồng. Từ “ngó” cũng cho thấy tâm trạng say mê và tình yêu với cánh đồng quê hương của người ngắm cảnh. Hai câu thơ cuối với nghệ thuật so sánh đã ca ngợi vẻ đẹp đầy sức sống, mạnh mẽ, khỏe khoắn của người con gái lao động. Từ láy “phất phơ” như bộc lộ tâm trạng vui vẻ, yêu đời, yêu cuộc sống của cô gái, cũng chính là những nét vẽ hoàn hảo hoàn thành nên bức tranh thiên nhiên sinh động của quê hương miền Trung.

Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước luôn làm cho con người ta cảm thấy thêm yêu quê hương, thêm tự hào về quê hương và mong muốn được góp sức mình gây dựng, phát huy, bảo tồn các nét đẹp văn hóa của dân tộc. Để mỗi khi đi xa, mỗi chúng ta lại nhớ về quê hương cùng niềm hãnh diện, yêu thương sâu sắc.

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 5

Ca dao dân ca thường là nhũng lời hát ru ngọt ngào tha thiết và sâu lắng. Một trong số những chủ đề nổi bật trong kho tàng ca dao dân ca của dân tộc là chủ đề tình yêu quê hương, đất nước, con người. Những câu hát thường là những lời đối đáp mời mọc cân xứng nhịp nhàng. Để lại nhiều dư vị trong lòng người dân đất Việt. Tiêu biểu là một số bài sau:

Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Nhũng câu hát như là một câu đố về địa danh của dải dất hình chữ S. Điều thú vị là người đố đều nêu lên được đặc điểm của địa danh mà mình muốn nhắc đến. Để từ đó dễ dàng hơn cho người trả lời

Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

Hỏi - đáp là hình thức để các đôi trai gái trong nhũng dịp lễ tể thể hiện sự hiểu biết của mình về địa lý và lịch sử của dân tộc và từ đó cũng cho thấy niềm tự hào đối với quê hương, đất nước. Thông qua lời hỏi và lời đáp, ta thấy các chàng trai và các cô gái đều có hiểu biết sâu rộng về về địa lý và lịch sử của dân tộc.

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng ở Hà Nội có giá trị lịch sử và văn hóa rất tiêu biểu của đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Cảnh sắc đẹp đẽ, đa dạng hợp thành một không gian thơ mộng, thiêng liêng, mang đậm dấu ấn lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô ...

Huế là một nơi thơ mộng và hữu tình, ở đây cảnh vật như đẹp như tranh. Câu hát thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào về vẻ đẹp thơ mộng của đất cố đô. Đây cũng là cách giới thiệu mang sắc thái tinh tế, thanh lịch của người dân xứ Huế.

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Cảnh vật của thiên nhiên sông núi, cánh đồng lúa rộng mênh mông đề là những đặc trưng của cảnh đẹp đất nước. Đã được đem ra để so sánh ví von với vẻ đẹp trong sáng thuần khiết của con người. Câu thơ có thể là lời của chàng trai hoặc cô gái, giữa con người và cảnh vật có sự tương đồng ở nét tươi tắn, phơi phới sức xuân. Niêm vui sướng, tự hào về cảnh vật và con người của quê hương được thể hiện rất tinh tế trong từng chữ, từng câu.

Bên cạnh việc đối đáp để tạo nên cái duyên những câu ca dao còn cho ta thấy được vẻ đẹp của quê hương đất Việt hơn thế nữa còn là tình yêu quê hương đất nước bao la và rộng lớn.

Đề văn 8: Nghị luận về tình yêu quê hương của Tế Hanh - Mitadoor Đồng Nai

Phát biểu cảm nghĩ Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người - Bài mẫu 6

Ca dao dân ca là sáng tạo văn chương của người lao động bình dân. Người nông dân sống gắn bó với đất, với làng, với quê hương đất nước. Bởi thế, quê hương đất nước không những là niềm tự hào mà còn là mọt phần thiêng liêng trong đời sống tâm thức của họ. Hát về quê hương, đất nước biểu lộ tình yêu sâu sắc của họ đối với mảnh đất chôn nhau cắt rốn ấy.

Bài ca có hình thức kết cấu hai vế đối dáp tương ứng đoạn hát xe kết trong một lời ca giao duyên. Căn cứ vào cách phân chia các phần và những đại từ nhân xưng “chàng – nàng” ta có thể biết được điéu đó. Phần đầu là lời hỏi của chàng trai, phần sau là câu đáp của cô gái. Đây là hình thức kết cấu không phổ biến nhưng rất đặc thù của thơ ca truyền thống dân gian. Hình thức ấy liên quan đến “hình thức sống”, tức là hình thức diễn xướng, môi trường thực hành sinh hoạt của tác phẩm văn học dân gian.

Nội dung lời hát đối đáp là tên và đặc điểm độc đáo của những con sông, dãy núi, thành quách, đền đài của cha ông ờ nhiêu vùng, miền khác nhau trong cả nước. Nghĩa là vừa có hỏi đáp về cảnh trí tự nhiên vừa tìm hiểu vẻ công trình nhân tạo do bàn tay con người xây dựng nên. Lời hát vừa là câu đố để thử tài, kiểm tra kiến thức văn hóa – lịch sử vừa gửi gắm kín đáo tình cảm của người hát.

 Chàng trai và cô gái dùng những địa danh với những đặc điểm như vậy để hỏi đáp phải chăng vì họ muốn truyền tình yêu quê hương, đất nước cho nhau. Hơn nữa họ muốn khẳng định quan điểm thẩm mĩ của những người lao động: tình yêu và tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước là tiêu chí đầu tiên đánh giá mỗi con ngươi. Giống như một nhà văn Nga đã nói: Nếu như trong tác phẩm của anh không thể hiện được tinh cảm với mảnh đất mà anh dã sinh ra thì anh không phải là nhà văn chân chính. Cho nên, họ không thể hát xe kết cũng như hát giao duyên với một người không có tình cảm sâu nặng vói quề hương, đất nước.

 Những địa danh ấy còn gợi lên gương mặt chung của đất nước Việt Nam với vẻ đẹp tự nhiên độc đáo, kì thú như : có “sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng”, có “nước sông Thương bên đục, bên trong”; cộng thêm đó là vẻ đẹp giàu truyền thống văn hóa lịch sử “thành Hà Nội năm cửa”, “đền Sòng linh thiêng”. Ẩn sau trong đó là những gương mặt con người theo quan niệm “địa linh nhân kiệt”. Núi Tản Viên là nơi sinh ra Đức Thánh Tản, tỉnh Lạng là nơi thần tiên trú ngụ,…

Những câu hát vút cao ca ngợi quê hương, đất nước có lẽ là những khúc ca đồng vọng trong mỗi trái tim của người Việt. Bởi vì, chúng đã nói lên tình yêu nước tha thiết, nhiệt thành trong lòng bao thế hệ con người Việt Nam.

Tài liệu có 18 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tài liệu cùng môn học

TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT Tuyết TOP 20 mẫu Phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích HAY NHẤT - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
1.2 K 1 1
20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng Tuyết 20 mẫu Tham dự buổi thuyết trình của học sinh trong trường về những hoạt động xã hội có ích với cộng đồng - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
657 1 0
TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia Tuyết TOP 20 mẫu Kể lại hoạt động xã hội có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng mà em đã tham gia - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
738 1 0
20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ Tuyết 20 mẫu Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang, có ít nhất một câu hỏi tu từ - Tổng hợp văn mẫu Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo hay, chọn lọc giúp học sinh viết văn hay hơn.
593 1 0
Tải xuống