SBT Ngữ Văn 7 trang 33 Nói và nghe Tập 1 Kết nối tri thức

364

Với Giải SBT Ngữ Văn 7 trang 33 Nói và nghe Tập 1 Bài 3: Cội nguồn yêu thương Sách bài tập Ngữ Văn  lớp 7 Tập 1 Kết nối tri thức hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 7 trang 33.

SBT Ngữ Văn 7 trang 33 Nói và nghe Tập 1

Bài tập 1 trang 33 SBT Ngữ Văn 7: Trình bày ý kiến của em về tình yêu thương loài vật được gợi ra từ nhân vật Mên và Mon trong văn bản Bầy chim chìa vôi của Nguyễn Quang Thiều.

Trả lời:

Em có thể chuẩn bị nội dung cho bài trình bày bằng cách đặt ra và trả lời các câu hỏi sau:

- Nhân vật Mên và Mon đã yêu thương loài vật như thế nào?

- Vì sao loài vật đáng được yêu thương?

- Những bằng chứng nào cho thấy có nhiều người rất yêu thương, trân trọng loài vật nhưng vẫn còn có những người đối xử tàn nhẫn với động vật?

- Bài học em rút ra từ câu chuyện về tình yêu thương loài vật của Mên và Mon là gì?

* Bài nói mẫu tham khảo:

Bài tham khảo số 1

Sau khi đọc xong văn bản “Bầy chim chia vôi” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em vô cùng ấn tượng với tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mên và Mon. Hai anh em đều có tình yêu thương loài vật, nhất là những chú chim chia vôi non. Vào ngày mưa to, nước sông ngập đến cánh bãi dưới, Mon lo lắng cho những chú chim chia vôi non sẽ bị chết đuối vì không biết bơi. Cậu bé còn nghĩ và đặt câu hỏi cho anh Mên là “Sao nó lại không làm tổ trên bờ hả anh?” thể hiện sự tò mò và lo lắng dành cho những chú bim bé bỏng ấy. Tình yêu thương, quan tâm và lo lắng đó còn được thể hiện ở chi tiết hai anh em lo sợ những chú chim chia vôi non bị ướt cánh và không thể bay lên trời được. Thật may thay là những chú chim ấy đã đều thành công thực hiện xong chuyến bay quan trọng nhất của đời chúng, điều đó khiến cho hai anh em, đặc biệt là Mon xúc động nghẹn ngào. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng Mon và Mên đều dành những tình cảm hết sức yêu thương, lo lắng cho những loài động vật nhỏ bé nhưng đầy nghị lực.

Bài tham khảo 2:

Tình yêu thương loài vật của hai anh em Mon trong văn bản “Bầy chim chia vôi” của Nguyễn Quang Thiều đã dấy lên trong lòng tôi rất nhiều cảm xúc. Đó là sự lo lắng cho sự an toàn của những chú chim non chia vôi vào ngày mưa to, nước ngập úng. Hay đó còn là sự tò mò, quan tâm đến nơi ở của những chú chim. Đặc biệt là sự hoảng sợ và xúc động nghẹn ngào khi chú chim non đã vượt lên chính mình để cất cánh bay những bước đầu tiên. Tất cả tình yêu thương, quan tâm và lo lắng đó của cả hai anh em đã khiến cho người đọc cảm động. Từ đó câu chuyện muốn nhắn nhủ đến mỗi chúng ta là cần phải dành thật nhiều tình yêu thương đến muôn loài vật.

Bài tham khảo 3:

Trong văn bản “Bầy chim chia vôi” của nhà văn thiếu nhi Nguyễn Quang Thiếu hiện lên rất nhiều chi tiết và hình ảnh nói về tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mon và Mên. Dù cả hai anh em có tính cách trái ngược nhau, Mên thì lạnh lùng, cáu gắt, còn Mon thì nhẹ nhàng, nhạy cảm. Nhưng họ vẫn có điểm chung là đều dành sự yêu thương, lo lắng cho những chú chim non chia vôi. Mon luôn lo lắng cho tính mạng của những chú chim, cậu bé sợ rằng chúng sẽ chết nếu như không được đưa lên bờ làm tổ. Còn Mên ngoài mặt tỏ ra không quan tâm, nhưng khi nhìn thấy sự nguy hiểm sắp xảy ra đối với những chú chim, Mên cũng chịu cùng em mình vượt qua con đò để giải cứu những chú chim. Chi tiết cuối cùng của chuyện lấy đi rất nhiều nước mắt của người đọc chính là khoảnh khắc Mon bật khóc khi chứng kiến cảnh chú chim non yếu đuối đập một nhịp quyết định bứt ra khỏi dòng nước và bay lên cao hơn. Quả thực, tình yêu thương loài vật của hai anh em Mon rất đáng được trân trọng và cảm phục.

Bài tham khảo 4:

Truyện ngắn “Bầy chim chia vôi” của tác giả Nguyễn Quang Thiếu chủ yếu nói về tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mon và Mên. Người ta thường nói, lòng yêu thương xuất phát từ đáy lòng. Với những tấm lòng vị tha, quan tâm và nhạy cảm, Mon và Mên đã mang đến những bài học bổ ích về tình yêu thương các loài vật trong cuộc sống. Thông qua rất nhiều chi tiết miêu tả tâm trạng hai anh em như: lo lắng khi trời mưa to chim không thể về bờ, mừng rỡ và xúc động khi những chú chim bứt phá, nỗ lực vượt qua khó khăn để cất cánh bay đầu tiên lên trời xanh. Từ đó cho chúng ta thấy được tình yêu thương loài vật cao quả và đẹp đẽ của anh anh em Mon. Để rồi mỗi chúng ta hãy yêu thương những loài vật nhỏ bé nhất trong cuộc sống.

Bài tập 2 trang 33 SBT Ngữ Văn 7: Lập dàn ý cho đề văn sau: Phân tích đặc điểm nhân vật thầy Đuy-sen trong văn bản Người thầy đầu tiên (trích, Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp).

Trả lời:

* Dàn ý:

- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.

- Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật

+ Nhân vật đó xuất hiện như thế nào?

+ Các chi tiết miêu tả hành động của nhân vật đó.

+ Ngôn ngữ của nhân vật

+ Những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật như thế nào?

+ Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác

- Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh gái về nhân vật

* Bài mẫu tham khảo:

Bài tham khảo 1:

“Người thầy đầu tiên” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của tác giả Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp khi kể về người thầy giáo Đuy-sen với những đặc điểm nổi bật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Hình ảnh thầy giáo Đuy-sen được kể thông qua hồi ức của bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-ta, bà vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen. Khi đến vùng núi quê hương của An-tư-nai, thầy Đuy-sen còn rất trẻ. Học vấn thấy tuy chưa được cao nhưng thầy lại có trái tim dạt dào tình nhân ái và sục sôi nhiệt huyết cách mạng. Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò để “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy “mỉm cười, niềm nở” quẹt mồ hôi trên mặt và ân cần hỏi các em học sinh.

Có thể thấy Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại và cử chỉ rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động đến tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, thấu rõ cái khao khát được học hành của các em. Thầy còn “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông, thấy bảo tin mừng vì trường học đã làm xong và có thể học được. Thầy mời chào, khích lệ với các em nhỏ dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tình yêu thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”.

Thầy Đuy-sen còn là người có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Khi chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng mà thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi gợi trong lòng các em nhỏ miền núi khao khát được đi học. Đặc biệt với An-tư-nai, thầy nhìn thấy tâm can em, thông cảm với cảnh ngộ mồ côi của em và an ủi, khen tên của em hay, bảo em chắc là ngoan lắm. Câu nói chân tình ấy cùng với hiền hậu của thầy khiến cho An-tư-nai “thấy lòng ấm hẳn lại”. Không những thế, trước khi thầy đi lấy rạ khô, lúc tiễn các em nhỏ ra về, thầy nhẹ nhàng uốn nắn, mời mọc ân cần. Các em nhỏ khi ra về ai nấy cũng đều cảm thấy yêu mền, gắn bó với thầy và ngôi trường của làng quê thân yêu.

Một điểm nữa, Đuy-sen là người thầy đầu tiên đã khai tâm khai sáng cho An-tư-nai. Thầy hiền hậu, yêu thương tuổi thơ và đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng được đi học. Có thể thấy, thầy Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ.

Tóm lại, Ai-ma-tốp đã viết nên hình ảnh thầy Đuy-sen bằng tất cả sự ca ngợi và niềm yêu thương bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời.

Bài tham khảo 2:

Đến với văn bản “Người thầy đầu tiên” của Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp chúng ta chắc hẳn không quên được hình ảnh trung tâm là người thầy Đuy-sen. Hình ảnh người thầy được hiện lên qua lời kể, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật An-tư-nai. Nhà văn đã dùng nhiều những chi tiết miêu tả để khắc họa chân dung nhân vật thầy Đuy-sen một cách chân thực và cụ thể nhất. Đầu tiên là thông qua ngôn ngữ đối thoại với lời trò chuyện, thuyết phục các em nhỏ đi học, đồng thời còn động viên, khích lệ An-tư-nai. Tiếp đến là những hành động của thầy điển hình như: một mình sửa sang nhà kho cũ thành lớp học; bế các em nhỏ qua suối giữa mùa đông buốt giá; kiên trì dạy chữ cho các em bất chấp hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt; sự cô độc và cò cả ước mơ về một tương lai tươi sáng cho học trò. Cũng chính vì thế mà An-tư-nai có cảm nhận sâu sắc về lòng nhân hậu, tình yêu thương của thầy và còn ước thầy là người anh ruột của mình. Thông qua những chi tiết đó, chúng ta có thể hình dung ra thầy Đuy-sen là một người có mục đích sống cao đẹp, cương nghị, kiên nhẫn, vị tha và nhân hậu. Trong đó, nổi bật nhất là tình cảm yêu thương, hết lòng vì học trò.

Xem thêm lời giải vở bài tập Ngữ Văn lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống hay, chi tiết khác:

SBT Ngữ Văn 7 trang 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30 Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt Tập 1...

SBT Ngữ Văn 7 trang 31, 32, 33 Viết Tập 1...

Đánh giá

0

0 đánh giá