SBT Ngữ Văn 7 Kết nối tri thức Bài 5: Màu sắc trăm miền

661

Toptailieu biên soạn và giới thiệu giải sách bài tập Ngữ Văn 7 Bài 5: Màu sắc trăm miền sách Kết nối tri thức hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm các bài tập từ đó nâng cao kiến thức và biết cách vận dụng phương pháp giải vào các bài tập trong SBT Ngữ Văn 7 Bài 5.

Sách bài tập Ngữ Văn 7 Bài 5: Màu sắc trăm miền

SBT Ngữ Văn 7 trang 41, 42, 43, 44, 45, 46, 47 Đọc hiểu và Thực hành Tiếng Việt Tập 1

Bài tập 1 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Đọc lợi văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt trong SGK (tr. 107 - 109) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Trong hai đoạn văn đầu của văn bản, tác giả muốn khẳng định điều gì? Em có đồng ý với quan điểm của tác giả không?

Trả lời:

Trong hai đoạn văn đầu của văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt, tác giả muốn khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân. Đây là ý kiến riêng của tác giả. Có thể có nhiều người đồng tình với ông, nhưng cũng có người có ý kiến khác do những trải nghiệm riêng của họ. Nếu khí hậu nơi em sống không chia thành bốn mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông thì ấn tượng về mùa xuân có thể không đậm nét. Cũng có người không thích mùa xuân mà thích mùa khác trong năm. Em có thể nêu ý kiến riêng của mình. Từ đây, ta có thể thấy, tuỳ bút thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ rất riêng của người viết.

Câu 2 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Em cảm nhận được điều gì về không gian mùa xuân miền Bắc qua các chi tiết mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng trống chèo, cái rét ngọt ngào, mùi hương man mác? Hãy chia sẻ về không gian mùa xuân ở quê em.

Trả lời:

Các chi tiết đó cho thấy không gian mùa xuân rất đặc trưng của miền Bắc. Nếu em sống ở miền Bắc, em sẽ nhận thấy chỉ cần vài nét chấm phá, tác giả đã miêu tả những đặc điểm khí hậu, văn hoá ở vùng này vào mùa xuân. Mùa xuân trời vẫn lạnh, có mưa phùn, có những loài hoa xuân. Đặc biệt, mùa xuân miền Bắc còn là mùa của các lễ hội. Sân khấu chèo truyền thống thường được tổ chức trong các lễ hội đó. Nếu em sống ở các vùng miền khác, không gian mùa xuân quê em có thể không hoàn toàn giống như những gì tác giả miêu tả. Em hãy miêu tả ngắn gọn một vài nét về không gian mùa xuân ở quê mình (thời tiết, hoa trái, bầu trời, cảnh sinh hoạt,...).

Câu 3 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Những chi tiết như những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, những làn sáng hồng hồng báo hiệu điều gì về sự chuyển đổi của thời gian và không gian? Từ đó, nêu nhận xét của em về khả năng cảm nhận thế giới bên ngoài của nhà văn.

Trả lời:

Em chú ý: Tác giả miêu tả những vệt xanh, những làn sáng chứ không phải cả bầu trời xanh hay ánh nắng rõ rệt trong không gian. Điều này cho thấy những ngày đông u ám đang dần qua, đã có những tín hiệu cho thấy tiết trời dần ấm áp, bầu trời dần quang đãng, không gian dần tươi sáng. Tác giả đã rất tinh tế khi cảm nhận thế giới xung quanh, từ những thay đổi nhỏ.

Câu 4 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Theo em, vì sao tác giả lại viết là mùa xuân thần thánh?

Trả lời:

Từ thần thánh gợi cho em điều gì? Phải chăng là sự biến hoá kì diệu? Vậy có thể hiểu mùa xuân thần thánh là mùa đem đến sự biến hoá, đổi thay kì diệu cho con người và đất trời. Em có thể nêu những suy đoán riêng của mình để giải thích vì sao tác giả lại viết là mùa xuân thần thánh.

Câu 5 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Những biến đổi trong tâm hồn khi mùa xuân đến được tác giả diễn tả như thế nào?

Trả lời:

Em hãy nhận xét về cách tác giả diễn tả những thay đổi trong tâm trạng và cảm giác của mình khi mùa xuân đến. Ví dụ: Nhựa sống ở trong người căng lên như máu cũng căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ tí ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh - câu văn này tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh để diễn tả cảm giác (mang tính trừu tượng, không nhìn thấy được) bằng những chi tiết cụ thể như lộc của loài nai, mầm non của cây cối, lá nhỏ tí ti, cặp uyên ương,... Từ đó, tác giả cho người đọc cảm nhận được sức sống, sự nảy sinh những cảm giác, những khát khao tình tứ của lòng người.

Câu 6 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Bầu trời đêm tháng Giêng hiện lên như thế nào? Theo em, vì sao tác giả gọi trăng tháng Giêng là trăng non?

Trả lời:

Em hãy nêu những từ ngữ miêu tả bầu trời đêm tháng Giêng (ví dụ như đêm xanh biêng biếc, trời sáng lung linh như ngọc,...). Bầu trời trong đêm trăng sáng nhẹ, rất nên thơ. Trong văn bản có chi tiết “Cuối tháng Giêng.. :. Thường thì trăng cuối tháng không còn được gọi là trăng non. Trăng non là trăng đầu tháng (âm lịch). Tuy nhiên, đối với tác giả, tháng Giêng là tháng mở đầu một năm, do vậy trăng tháng Giêng được coi là trăng non do ý nghĩa khởi đầu của nó (tìm đọc trọn vẹn bài tuỳ bút Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt để hiểu điều này).

Câu 7 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Hãy giải thích nhan đề bài tuỳ bút.

Trả lời:

Bài tuỳ bút có nhan đề Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt. Em hãy chú ý những cụm từ trăng non, rét ngọt, soi chiếu nội dung của đoạn trích được học trong SGK để thấy tác giả miêu tả tháng Giêng của miền Bắc với những yếu tố đặc trưng của thời tiết, không gian. Đặc biệt, em hãy suy nghĩ về nghĩa của từ mơ và đọc lại phần giới thiệu tác giả, tác phẩm (SGK, tr. 109) để hiểu những gì tác giả viết trong bài tuỳ bút được tái hiện qua kí ức của người con xa quê.

Câu 8 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra những biện pháp tu từ được sử dụng ở những cụm từ in đậm trong câu văn dưới đây và nêu tác dụng của chúng:

Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.

Trả lời:

Những cụm từ in đậm trong câu văn có sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ. Lưu ý: trong câu này, biện pháp tu từ điệp ngữ được sử dụng nhiều lần, tạo nên sự trùng điệp khiến cho câu văn có nhịp điệu, thể hiện cảm xúc tha thiết, dạt dào. Ngoài ra, những cụm từ đó còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá, làm cho các sự vật như non, nước, bướm, hoa, trăng, gió trở nên sinh động, có hồn.

Bài tập 2 trang 41, 42 SBT Ngữ Văn 7: Đọc lại văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt (từ đầu đến nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế) trong SGK (tr. 107) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Tác giả đưa ra những lí lẽ gì để khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân?

Trả lời:

Để khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân, tác giả đã nêu các lí lẽ sau:

- Đưa ra một loạt sự vật, hiện tượng gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời như thể là chân lí không thay đổi.

- Tưởng tượng từng trường hợp con người cụ thể, đưa ra phán đoán về lí do họ yêu mùa xuân.

- Soi chiếu từ chính bản thân mình.

Chú ý, trong tuỳ bút, người viết có thể nêu lập luận để chứng minh ý kiến, tuy nhiên, đó không phải là những lập luận khô khan mà bằng giọng văn giàu chất trữ tình.

Câu 2 trang 41 SBT Ngữ Văn 7: Vì sao tác giả lại đưa ra các đổi tượng sóng đôi: non - nước, bướm - hoa, trăng -gió, trai - gái, mẹ - con, cô gái còn son (vợ) - chồng để khẳng định mối quan hệ giữa con người và mùa xuân? Cách nói này tác động như thế nào đến cảm nhận của người đọc?

Trả lời:

Các đối tượng sóng đôi non - nước, bướm - hoa, trăng - gió, trai - gái, mẹ - con, cô gái còn son (vợ) - chồng có quan hệ rất mật thiết, chặt chẽ. Đây là những chân lí hiển nhiên. Tác giả nêu các đối tượng sóng đôi này để khẳng định theo cách bắc cầu rằng việc con người gắn bó với mùa xuân là điều tất yếu. Qua đó, gợi liên tưởng đến những hình ảnh đẹp, những tình cảm âu yếm, mặn nồng, da diết,....

Câu 3 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Cách tác giả nói về “lí do” yêu mùa xuân của những đối tượng khác nhau trong đoạn trích có gì đặc biệt? Hãy diễn tả liên tưởng của em về hoàn cảnh riêng trong cuộc sống của từng đối tượng ấy.

Trả lời:

Tác giả nêu ra ba giả thiết gắn với ba đối tượng: người em gái, chàng trai, người thiếu phụ. Ba đối tượng đó có những “lí do” riêng để yêu mùa xuân. Người em gái cảm thấy nhựa sống trong cây cối, chàng trai thấy những mời gọi của cuộc xê dịch giang hồ, người phụ nữ đợi chồng thắp lên những hi vọng. Em hãy tự đặt câu hỏi tại sao từng con người với những lứa tuổi, thân phận khác nhau lại có những“”lí do” khác nhau như thế. Qua cách diễn đạt của tác giả, em có thể hình dung về cuộc sống riêng của từng nhân vật, từ đó thấy được sự phong phú của đời sống con người - họ là những đối tượng có tính chất đại diện mà tác giả đã đưa vào tác phẩm để minh chứng cho ý kiến của mình rằng “ai cũng chuộng mùa xuân”.

Câu 4 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Những cụm từ nghe thấy rạo rực nhựa sống, đồi núi chuyển mình, sông hồ rung động, mùa xanh lên hi vọng cho thấy khả năng cảm nhận thế giới xung quanh của tác giả như thế nào?

Trả lời:

Em hãy đọc từng cụm từ để cảm nhận tác giả đã diễn tả nhựa sống của cây cối, sự xao động của đồi núi, sông hồ - những điều khó nhìn thấy được bằng mắt thường, chỉ có thể cảm nhận được. Mà cảm giác thì phụ thuộc nhiều vào tâm trạng của con người. Do vậy, có khi chính sự rạo rực của lòng người đã lan toả vào cảnh vật. Cây cối, cảnh vật đầy sức sống, sức cuốn hút, mời gọi. Những cụm từ đó cho thấy sự nhạy cảm, tinh tế của tác giả trong cách cảm nhận thế giới xung quanh.

Câu 5 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng ở cụm từ in đậm trong câu văn sau và nêu tác dụng:

Mà người thiếu phụ nọ ở chân trời góc biển yêu mùa xuân có phải là vì đấy là mùa xanh lên hi vọng được trở về nơi bến đợi sông chờ để ngâm lại khúc bạc đầu với người ra đi chưa biết ngày nào trở lại?

Trả lời:

Biện pháp tu từ được sử dụng trong cụm từ in đậm là nhân hoá. Hình ảnh bến đợi sông chờ diễn tả nỗi niềm của người thiếu phụ có chồng đi xa lâu ngày chưa trở về. Đây còn là hình ảnh tượng trưng cho sự chờ đợi. Bến, sông gắn với sự chờ đợi là hình ảnh thường thấy trong ca dao.

Bài tập 3 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Đọc hai đoạn văn dưới đây trong văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt và trả lời các câu hỏi:

Đoạn 1: Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ Tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.

Đoạn 2: Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở trước bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hoá vàng” và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.

Câu 1 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Hai đoạn văn miêu tả không gian nào?

Trả lời:

Hai đoạn văn đều miêu tả không gian gia đình trong ngày xuân.

Câu 2 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Bước đi của thời gian biểu hiện như thế nào qua cách miêu tả không gian?

Trả lời:

Em hãy quan sát: đoạn thứ nhất là không gian của buổi đầu năm, vẫn còn đượm không khí của ngày Tết cổ truyền với nhang trầm, đèn nến, bàn thờ; đoạn thứ hai là không gian sinh hoạt đời thường khi không khí Tết đã nhạt dần và nhường chỗ cho sự êm đềm thường nhật. Chỉ cần miêu tả sự chuyển đổi của không gian gia đình (đặc biệt là bàn thờ), nhà văn đã cho thấy bước đi của thời gian từ thời điểm Tết đến cho đến sau Tết.

Câu 3 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Nét đẹp của đời sống gia đình được tác giả cảm nhận ra sao?

Trả lời:

Tháng Giêng là dịp cả nhà đoàn tụ, thuận hoà. Đoạn văn thứ nhất miêu tả nét đẹp ngày Tết cổ truyền của gia đình Việt. Nhang khói, bàn thờ thể hiện lòng hiếu nghĩa, sự hướng thiện, tu thân của con người, cũng là sự nhắc nhở, gợi nhớ về ông bà, tổ tiên, dòng họ. Trong không khí đó của gia đình, tác giả cảm nhận sự ấm áp của tình thân và lòng vui phơi phới như hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan. Đoạn văn thứ hai miêu tả vẻ đẹp đời thường với những món ăn giản dị nhưng cũng không kém phần cầu kì trong chế biến. Người Hà Nội có cách ăn uống vừa tinh tế vừa phong lưu. Cảnh sinh hoạt thường ngày đó khiến cho tác giả có cảm giác êm đềm, thư thái, dễ chịu (mát như quạt vào lòng).

Câu 4 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt là bài đầu tiên trong tập tuỳ bút Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Từ hai đoạn văn trên, em hiểu gì về nỗi niềm của tác giả gắn với tháng Giêng? Dựa vào phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm (SGK, tr. 109), hãy giải thích nhan đề của tập tuỳ bút.

Trả lời:

Trong bài tuỳ bút đầu tiên này của tập Thương nhớ Mười Hai, tác giả đã hồi nhớ không gian mùa xuân, nếp sinh hoạt gia đình. Gắn với tháng Giêng là nỗi niềm của tác giả về cảnh sắc đầu xuân đẹp đẽ, tươi mới, hứa hẹn sự sinh sôi của vạn vật và những nét sinh hoạt gia đình đầm ấm buổi đầu năm. Đây là nỗi nhớ gắn với tháng thứ nhất trong hồi tưởng của người con xa quê. Từng tháng trong năm sẽ lần lượt được nói đến, gắn với đó là cảnh sắc miền Bắc qua các tháng và các phong tục cộng đồng hoặc gia phong. Vì thế, tập tuỳ bút có tên là Thương nhớ Mười Hai.

Câu 5 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Hai đoạn văn gợi cho em những liên tưởng gì về gia đình mình?

Trả lời:

Sau khi đọc hai đoạn văn trên, em hãy hồi tưởng không gian gia đình mình vào thời điểm tháng Giêng, Tết và sau Tết. Hãy miêu tả không gian đó, lắng nghe lòng mình khi sống lại không khí Tết cũng như khi những ngày Tết đã qua.

Câu 6 trang 42 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra biện pháp tu từ so sánh trong hai đoạn văn trên và nêu tác dụng.

Trả lời:

Hai đoạn văn dùng biện pháp tu từ so sánh có sử dụng từ so sánh như. Tác dụng của biện pháp tu từ này là giúp người viết diễn tả những cảm giác vô hình bằng những hình ảnh cụ thể, dễ hình dung, dễ cảm nhận. Mặt khác, dùng biện pháp tu từ so sánh, câu văn giàu hình ảnh hơn, gợi cảm hơn.

Bài tập 4 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Đọc lại văn bản Chuyện cơm hến trong SGK (tr. 111 - 115) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Nêu những chi tiết trong văn bản nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế.

Trả lời:

Trong văn bản Chuyện cơm hến có nhiều chi tiết nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế - những vị không dễ ăn với nhiều người ở vùng khác. Ví dụ: nấu canh mướp đắng phải duống nồi nước sôi xuống để thả mướp đắng vào; ăn cháo nấm tràm; tô bún bò “cay dễ sợ”; đòi thêm một trái ớt tươi;...

Câu 2 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Có điều gì thú vị trong việc tác giả liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế?

Trả lời:

Tác giả đã liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay của người Huế: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc, "cay dễ sợ; cay "túi mắt túi mũi". Tác giả đã công phu thâu lượm những cách nói trong dân gian, cho thấy cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế rất phong phú. Những cách nói đó rất hồn nhiên, đi liền với những phản ứng cơ thể xuất phát từ vị giác của con người. Những cụm từ này hầu như đều diễn tả sự “khổ sở” của người ta khi ăn cay, vậy mà ăn cay lại trở thành cái thú của người Huế. Điều đó cho thấy, cái thú đó cũng rất lạ thường, như là một “thử thách” đối với những giới hạn vị giác của con người.

Câu 3 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Nói về phong cách ẩm thực của người Huế, tác giả cho rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời. Em hiểu thế nào về cách nói đó?

Trả lời:

Tác giả nói một cách hóm hỉnh rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời. Tác giả dùng cách chơi chữ: mặn, nhạt, chua, cay là các vị đồng thời cũng là các cung bậc khác nhau của cuộc sống con người. Người Huế thích ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng là hai vị mà mọi người hay sợ, cũng có nghĩa là người Huế có tố chất sẵn sàng chấp nhận những thứ người khác thấy khó khăn. Đây cũng là cách suy luận tạo sự thú vị thường thấy trong những cuộc chuyện trò thân mật.

Câu 4 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Em có nhận xét gì về nguyên liệu và cách chế biến món cơm hến của người Huế? Cách chế biến cơm hến thể hiện điều gì trong cách sống của người dân nơi đây?

Trả lời:

Nguyên liệu làm món cơm hến rất dễ kiếm, hầu như toàn là những thứ lẽ ra bỏ đi hoặc mua được với giá rẻ. Nhưng cách làm cơm hến thì lại khá công phu, phải đủ vị mới ngon, mà lại rất nhiều vị. Làm cơm hến đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn. Nhìn vào nguyên liệu và cách chế biến cơm hến có thể nhận thấy đức tính tiết kiệm, sự chịu khó, tinh tế, khéo léo, sự trân trọng những giá trị cổ truyền,... của người Huế.

Câu 5 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Nỗi nhớ của người xa quê trong câu ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà / Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương có gì tương đồng với nỗi nhớ món cơm hến của tác giả?

Trả lời:

Khi xa quê, người ta thường nhớ về những thứ quen thuộc, gắn với sinh hoạt hằng ngày, hoặc nhớ về những điều mà chỉ quê mình mới có. Câu ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà... nói đến nỗi nhớ của người xa quê về món ăn dân dã canh rau muống, cà dầm tương. Bài tản văn Chuyện cơm hến cũng nói về món ăn dân dã của Huế. Tác giả bộc lộ, khi xa Huế, nhớ món cơm hến đến đứt sợi tóc, đi nước ngoài về phải ăn cho được tô cơm hến. Cả hai văn bản đều nói đến nỗi nhớ quê qua món ăn đã làm nên khẩu vị riêng của người dân mỗi vùng miền.

Câu 6 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Em hiểu gì về “bản quyền sáng chế” của món cơm hến? Em có đồng tình với tác giả khi ông nêu quan điểm: Tôi nghĩ rằng, trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản? Vì sao?

Trả lời:

“Bản quyền sáng chế” là cách nói vui, nhằm khẳng định mỗi món ăn và cách chế biến của một vùng có giá trị riêng, làm nên nét đặc sắc riêng. Tác giả cho rằng tính bảo thủ trong khẩu vị là một yếu tố để bảo toàn di sản. Món ăn cũng được coi là một di sản bởi nó hàm chứa truyền thống văn hoá cộng đồng. Nhiều người hiện nay vẫn giữ gìn những bí quyết gia truyền làm nên thương hiệu của món ăn truyền thống. Tuy nhiên, cũng có những món ăn được cải biến để phục vụ cho nhiều thực khách với những khẩu vị đa dạng. Đôi khi sự pha trộn làm nên những món mới thú vị. Từ kinh nghiệm của bản thân, em hãy nêu suy nghĩ riêng của mình về ý kiến của tác giả. Em có thể đồng tình hoặc không đồng tình với ý kiến đó nhưng cần giải thích được lí do.

Câu 7 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Cho biết công dụng của dấu ngoặc kép ở từng trường hợp trong đoạn văn sau:

Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,... [...] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ; tiếp theo là một ngày cay “túi mắt túi mũi” để kết thúc với tiếng rao “Ai ăn chè?; một chén ngọt lịm trước khi ngủ.

Trả lời:

Em cần phân biệt hai trường hợp dùng dấu ngoặc kép trong đoạn văn: một là đánh dấu phần trích dẫn trực tiếp hoặc lời đối thoại; hai là đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt (thể hiện sự hài hước hoặc một hàm ý nào đó). Trong đoạn văn này, tác giả dùng dấu ngoặc kép chủ yếu ở trường hợp thứ hai, chỉ có cụm “Ai ăn chè?” là trường hợp thứ nhất. Đối với những trường hợp dùng dấu ngoặc kép để đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt, em cần chỉ ra những sắc thái nghĩa của các từ trong ngoặc kép. Ví dụ: tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy - thể hiện sự hài hước, tự ca ngợi khả năng ăn cay của mình đến mức độ trở thành một cái tài.

Bài tập 5 trang 43, 44 SBT Ngữ Văn 7: Đọc lợi văn bản Chuyện cơm hến (từ Xin tiếp tục chuyện cơm hến đến bán cho những người làm cơm hến) trong SGK (tr. 113) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Nội dung của đoạn văn là gì?

Trả lời:

Đoạn văn cung cấp thông tin về vị trí địa lí của Cồn Hến, nơi có hến sông ngon nổi tiếng, và thông tin về lễ cúng hến của cư dân. Tản văn có đặc điểm là có thể sử dụng những thông tin xác thực mang tính chất nghiên cứu. Những thông tin trong đoạn văn cho người đọc hiểu rõ về địa danh và phong tục văn hoá liên quan đến nguyên liệu làm cơm hến. Em có thể đối chiếu với ảnh tư liệu về Cồn Hến được in trong SGK (tr. 112).

Câu 2 trang 43 SBT Ngữ Văn 7: Việc người dân gọi tên cái cồn nổi là Cồn Hến cho thấy cách cấu tạo địa danh của cư dân bản địa. Em biết những địa danh nào cũng được cấu tạo theo cách như vậy?

Trả lời:

Cái tên Cồn Hến liên quan đến hiện tượng nơi đây có nhiều hến được khai thác. Cách đặt tên dân dã này có thể thấy ở nhiều địa phương (ví dụ: Gò Quao ở Kiên Giang là nơi có nhiều cây quao; Ô Môn ở Cần Thơ là nơi có nhiều cây môn nước,...). Em hãy kể những địa danh ở quê em hoặc những nơi em biết được cấu tạo theo cách này. Em sẽ nhận ra những điều thú vị từ những cách cấu tạo địa danh như thế.

Câu 3 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Trong các lễ hội, người ta thường tổ chức cúng tế và các trò chơi. Lễ cúng hến được miêu tả trong văn bản có gì khác biệt?

Trả lời:

Trong văn bản Chuyện cơm hến, tác giả miêu tả lễ cúng hến với không khí nhộn nhịp. Tuy nhiên, trong lễ hội, vẫn thấy có hoạt động lao động, đó là luộc hến, đãi hến và bán hến. Đây là hoạt động tái hiện quy trình làm ra sản phẩm của cư dân cào hến. Điều này khác với những lễ hội mà hoạt động chính là tế lễ và tổ chức các trò chơi (cũng có khi có hoạt động lao động nhưng thường chỉ là mô phỏng, không phải làm thật).

Câu 4 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Theo em, thông tin về lễ cúng hến có vai trò như thế nào trong văn bản Chuyện cơm hến?

Trả lời:

Nói về món cơm hến của Huế, người viết đã cung cấp thông tin về lễ cúng hến. Điều này cho thấy khai thác hến đã trở thành một nghề truyền thống, tạo nên một nét bản sắc của văn hoá Huế. Như vậy, món cơm hến có liên quan đến phong tục cổ truyền ở Huế, màu sắc văn hoá của các món ăn này được tô đậm. Mặt khác, việc đưa các thông tin văn hoá vào văn bản đã gắn kết một món ăn với hồn cốt, nếp sống lâu đời của cả cộng đồng.

Bài tập 6 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Đọc lại văn bản Những khuôn cửa dấu yêu trong SGK (tr. 126 - 129) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Tại sao đối với tác giả, những ô cửa sổ lại có sức hút kì lạ?

Trả lời:

Đối với tác giả, những ô cửa sổ có sức hút kì lạ bởi từ những ô cửa sổ, tác giả nhận ra được hồn cốt của một ngôi nhà, cảm nhận được cung cách sống của chủ nhân. Ô cửa sổ đối với những người sống bên trong nó còn là nơi giao tiếp với thế giới, nhìn ra thế giới, kết nối với thế giới bên ngoài. Những ô cửa sổ còn là nơi trang trí, là một điểm nhấn cho các công trình kiến trúc, cho không gian sống, làm nên nét đẹp độc đáo của nước Ý.

Câu 2 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Tìm những câu văn trong văn bản cho thấy cửa sổ không phải là vật vô tri. Hãy ngắm nhìn một ô cửa sổ nào đó và chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ của em về nó.

Trả lời:

Trong văn bản có một số câu văn viết về cửa sổ như thể nó là một sinh thể sống (Ví dụ: Trong cái thế giới bảng lảng ấy, những cửa sổ giống như những đôi mắt của các căn nhà nhìn ra cuộc sống; Cửa sổ chính là tâm hồn của căn nhà mang nó, và thể hiện cả cá tính cũng như tâm hồn của người chủ;....).

Từ cách nhìn về những ô cửa sổ của tác giả, em thử ngắm nhìn cửa sổ nhà mình hoặc nhà hàng xóm hay của một công trình nào đó và ghi lại những cảm xúc hoặc suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng của mình về ô cửa sổ đó.

Câu 3 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Từ hình ảnh trung tâm là cửa sổ, tác giả đã cho thấy không gian sinh hoạt của người dân bản địa. Hãy chỉ ra một vài chi tiết thể hiện nét đẹp, sự độc đáo trong văn hoá Ý được miêu tả trong không gian đó. Em thích nhất chi tiết nào? Vì sao?

Trả lời:

Cửa sổ là hình ảnh trung tâm của bài tản văn. Kết nối với cửa sổ là một không gian

văn hoá. Đồng thời, cửa sổ là một yếu tố của không gian văn hoá đó. Đó là một không gian của nước Ý với nhiều nét đặc trưng, đặc biệt là những sinh hoạt của cư dân bản địa. Em có thể tìm hiểu thêm về nước Ý qua các tài liệu, từ đó xác định những nét riêng có của văn hoá Ý. Hãy liệt kê một vài chi tiết trong văn bản thể hiện những nét riêng đó (ví dụ: những vòi nước công cộng, quảng trường San Pi-e-tơ-rô, những bức tranh tường, bánh pizza,...). Em hãy chọn một chi tiết em thích nhất trong văn bản. Lí do em chọn có thể là theo cảm tính, em thấy nó đẹp, độc đáo, quen thuộc với trải nghiệm của em; cũng có thể đó là một nét bản sắc của văn hoá Ý;...

Câu 4 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Văn bản có nhiều đoạn văn giàu tính tạo hình. Hãy chỉ ra một đoạn văn như thế. Nếu có thể, em hãy dựa vào các chi tiết trong đoạn văn để vẽ thành một bức tranh và giới thiệu về bức tranh đó.

Trả lời:

Tính chất tạo hình thể hiện ở nhiều hình ảnh được miêu tả, các sắc màu, hình khối, bố cục, độ sáng tối,... Em hãy chọn những đoạn văn hoặc câu văn giàu tính tạo hình như thế (ví dụ: đoạn văn từ Có một ô cửa sổ tôi nhớ mãi đến qua năm tháng là vẫn thế, không đổi, im lặng). Nếu em có khả năng vẽ, hãy vẽ bức tranh theo tưởng tượng của mình dựa trên sự miêu tả bằng lời của tác giả và giới thiệu về bức tranh đó.

Câu 5 trang 44 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong những câu văn dưới đây và nêu tác dụng:

- Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ.

- Có những cửa sổ đã thành nơi hẹn hò của chim bồ câu.

Trả lời:

Biện pháp tu từ được dùng trong cả hai câu văn là nhân hoá. Ở câu thứ nhất, biện pháp tu từ nhân hoá giúp người đọc cảm thấy khuôn cửa nhỏ như có một cuộc đời riêng, già nua nhưng vẫn bền bỉ trước thời gian như rất nhiều di tích trên đất Ý. Ở câu thứ hai, biện pháp tu từ nhân hoá gợi cho người đọc cảm giác về sự kết đôi, tình tứ của loài chim bồ câu.

Bài tập 7 trang 45, 46 SBT Ngữ Văn 7: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Ở đó có những căn nhà không bao giờ khép cửa. Những căn nhà không cả vách che đằng trước, vì chẳng ai thèm tham lam của ai cái gì. Không cần giới thiệu gì cả, bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nây1. Mưa Nam hay mưa Chướng2, nhà chỉ treo một cái rèm bằng mấy cái bao bố may ghép lại hoặc bằng lá chằm đóp3. Không cái gì cho người ta cái cảm giác thái bình, no ấm như thế, không có gì cho ta sự gần gũi, thân thuộc như thế. Những ngôi nhà tất rộng lòng, mở trong tầm nhìn của ta một chiếc giường, một cái bàn thờ gia tiên, cái bàn trà, một bức màn vải thêu hình hai con chim loan đậu trên cành trúc, thấy nhà nó hợp với con rạch4 nầy làm sao đâu, vì khi nước ròng5 rạch cũng cạn lòng, phơi đáy. Nó hợp với tính cách con người của vùng đất nầy làm sao đâu, vì người ở đây cũng sống khoảng khoát6, cởi mở, rộng rãi, hào sảng.

Người ấp7 Mũi ít khi làm buồng để ngủ, buồng chỉ để cho con gái, cho những cặp vợ chồng son, người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà, chỉ cần cái mùng8, khỏi9 chiếu, áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ đước bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài nầy thì thích không chịu được.

Nhà bao nhiêu gian thì bấy nhiêu gian đầy gió. Trong cái mùi biển tanh nồng mặn mòi của những giàn lưới phơi trên giá, trong cái mùi khói ngọt bùng nhùng toả ra từ mẻ un?, dường như có nhà ăn cơm chiều trễ, nghe mùi béo ngậy của cá thòi lòi10 kho với nước cốt dừa. Và đâu đó chắc có vài người chuẩn bị lai rai11, rõ ràng là mùi thơm khô mực nướng trên lò than đang tàn.

[...] Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng. Những chiếc tàu đánh cá ầm ì chạy qua, và tiếng biển, đúng là tiếng biển lướt trên những búp lá đẫm sương trong rừng đước, rì rào rất gần. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

(Nguyễn Ngọc Tư, Ngủ ở Mũi, in trong Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư,

NXB Trẻ và Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 159 - 161)

Nầy: này.

Mưa Nam, mưa Chướng: tương ứng mùa mưa, mùa khô ở Cà Mau.

Chằm đóp: tấm rèm kết bằng lá dừa (người Khơ-me gọi là chằm đốn).

Con rạch: đường dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

Nước ròng: vị trí thấp nhất của mực nước trong chu kì thuỷ triều.

Khoảng khoát: rộng và thoáng.

Ấp: làng, xóm nhỏ.

Mùng: màn.

Khỏi: không cần.

Mẻ un: củi, xơ dừa, vỏ quýt, vỏ bưởi,... được đốt cho khói bốc lên để đuổi muỗi.

Cá thòi lòi: còn gọi là cá leo cây, loài cá sống ở các bãi lầy cửa sông, có khả năng di

chuyển trên bùn.

Lai rai: uống rượu từ từ từng chút một, thường kèm theo đồ nhắm (nghĩa trong văn bản).

Câu 1 trang 45 SBT Ngữ Văn 7: Những nét sinh hoạt nào của cư dân vùng đất Mũi Cà Mau được nói tới trong đoạn trích?

Trả lời:

Đoạn trích nói về lối sinh hoạt của người dân đất Mũi như cách dựng nhà cửa, cách bài trí nhà cửa, thói quen ăn uống, sở thích ngủ đằng trước nhà,...

Câu 2 trang 45 SBT Ngữ Văn 7: Những ngôi nhà vùng đất Mũi có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại nói bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy?

Trả lời:

Em thử so sánh ngôi nhà của mình với ngôi nhà của người dân đất Mũi để thấy những nét khác biệt của nhà nơi đất Mũi: không bao giờ khép cửa, không có vách che đằng trước, chỉ treo cái rèm sơ sài chắn mưa, đặc biệt nhiều gió. Ngôi nhà thể hiện con người đất Mũi: sống hào sảng, rộng rãi, cởi mở, thật thà, hoà cùng thiên nhiên,... Có lẽ chính từ những điều này mà tác giả nhận thấy bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy.

Câu 3 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Ở trong một căn nhà đơn sơ, vì sao con người lại có cảm giác về sự thái bình, no ấm?

Trả lời:

Ở trong một căn nhà đơn sơ, không có đồ đạc gì đáng giá nhưng con người vẫn thấy thái bình, no ấm là vì cuộc sống nơi đây thuận hoà, không có gì phải lo sợ, đề phòng. Con người hoà mình với biển trời, như thể của cải của con người chính là biển trời.

Câu 4 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Theo em, vì sao người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà? Sở thích này thể hiện điều gì ở con người đất Mũi?

Trả lời:

Thông thường, chỗ ngủ là nơi kín đáo, là phòng riêng hoặc góc khuất được che chắn, tránh gió. Tuy nhiên, trong đoạn trích này, người xứ biển lại thích ngủ đằng trước nhà, trên sàn gỗ đước, bốn bề là gió, là biển. Những âm thanh của biển ru người ta vào giấc ngủ. Điều này thể hiện thể chất khoẻ mạnh, quen với sóng gió của người dân vùng biển. Điều kiện sinh tồn tôi luyện họ, cho họ sự thích ứng và sức mạnh, tạo cho họ những sở thích đặc biệt. Mặt khác, sở thích đó cũng thể hiện sự khoáng đạt, mạnh mẽ, cởi mở trong tính cách người đất Mũi.

Câu 5 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Cảnh sinh hoạt lúc chiều tối của cư dân đất Mũi gợi cho em những suy nghĩ gì?

Trả lời:

Chiều tối là thời điểm mọi người quây quần bên mâm cơm hoặc tụ họp vui vẻ. Cảnh sinh hoạt lúc chiều tối được miêu tả trong đoạn trích gợi cho người đọc cảm giác về sự ấm cúng, no đủ. Cảnh này chủ yếu được miêu tả qua mùi vị - những mùi vị rất đặc trưng của đất Mũi: mùi giàn lưới phơi, mùi khói hun muỗi, mùi cá thòi lòi kho, mùi mực khô nướng,... Sử dụng tối ưu khả năng cảm nhận của khứu giác, tác giả làm toát lên vẻ dân dã, thân thương, gần gũi, ấm áp của cảnh sống thường nhật ở miền đất Mũi.

Câu 6 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Nêu những cụm từ thể hiện tính chất khẩu ngữ của đoạn trích.

Trả lời:

Ngôn ngữ trong tản văn thường có tính khẩu ngữ do người viết có tâm thế chuyện trò. Trong đoạn trích này, người viết sử dụng một số cách nói theo thói quen của người Nam Bộ (ví dụ: khỏi chiếu, lai rai, thích không chịu được, thấy nhà nó hợp với con rạch nầy làm sao đâu,...).

Câu 7 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Liệt kê những từ ngữ địa phương trong đoạn trích. Cho biết tác dụng của việc sử dụng những từ ngữ địa phương đó.

Trả lời:

Từ nghĩa địa phương

Nghĩa

Nầy

này

Mưa Nam, mưa Chướng

Tương ứng mùa mưa, mùa khô ở Cà Mau

Chằm đóp

Tấm rèm kết bằng lá dừa

Con rạch

Đường dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

Nước ròng

Vị trí thấp nhất của mực nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

Khoảng khoát

Rộng và thoáng

Ấp

Làng, xóm nhỏ

Mùng

Màn

Khỏi

Không cần

Mẻ un

Củi, xơ dừa, vỏ quýt, vỏ bưởi, … được đốt cho khói bốc lên để đuổi muỗi

Cá thòi lòi

Cá leo cây, loài cá sống ở các bãi lầy cửa sông, có khả năng di chuyển trên bùn.

Lai rai

Uống rượu từ từ từng chút một, thường kèm đồ nhắm.

 

Từ ngữ địa phương trong đoạn trích làm tăng sắc thái địa phương cho văn bản và tác động tới cảm quan của người đọc, khơi gợi những ấn tượng riêng về vùng đất đặc biệt này.

Câu 8 trang 46 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong các câu văn sau và nêu tác dụng:

a. Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng.

b. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

Trả lời:

Biện pháp tu từ được dùng trong các câu: câu a: biện pháp tu từ nhân hoá, điệp ngữ; câu b: biện pháp tu từ nhân hoá. Với từng câu, em hãy chỉ ra tác dụng của mỗi biện pháp tu từ.

Bài tập 8 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Làng Vân1 bị vây bọc quanh bởi nhiều con sông; và tôi nghĩ rằng đấy là một

thế đất cần thiết cho sự giữ bí quyết, bởi vì cho đến nay, chưa ai bắt chước được rượu làng Vân cả. Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). Bóng tối trở nên đậm đặc hơn, và tôi không biết chủ nhà đang bày ra trò vui nào đây. Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. Phực một tiếng, ánh

lửa bốc thành ngọn đồng loạt trên những chiếc mâm đồng; ngọn lửa len lỏi qua những bát thức ăn vẽ thành những lượn sóng màu xanh biếc trên mặt thực khách.

Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối, trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai3 nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ4, và “người ở đừng về”5 đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Rượu làng Vân, in trong Miễn gái đẹp, NXB Thuận Hoá, Thừa Thiên - Huế, 2001, tr. 28 - 30)

Làng Vân: ngôi làng thuộc xứ Kinh Bắc xưa (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), nổi tiếng với nghề nấu rượu.

Măng sông: loại đèn thắp bằng xăng hoặc dầu hoả,... có thể treo lên cao.

Bán khai: đã qua trạng thái dã man nhưng chưa tới trình độ văn minh.

Quan họ: dân ca trữ tình vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.

“Người ở đừng vẽ”: tên một làn điệu quan họ.

Câu 1 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Nét sinh hoạt nào của cư dân làng Vân được nói tới trong đoạn trích?

Trả lời:

Đoạn trích chủ yếu miêu tả một buổi tiếp khách của cư dân làng Vân. Ở vùng Kinh Bắc xưa, đón khách, tiếp khách thể hiện phong tục của làng xã. Chính vì vậy, qua việc tiếp khách, ta có thể nhận ra những phong tục độc đáo, sự hiếu khách của người dân địa phương.

Câu 2 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Nêu những chi tiết miêu tả nét văn hoá độc đáo của làng Vân trong đoạn trích.

Trả lời:

Em hãy tìm những chi tiết miêu tả nét văn hoá em cho là độc đáo của làng Vân. Ví dụ: trang phục tiếp khách, cách hâm nóng thức ăn, hát quan họ,...

Câu 3 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Khung cảnh bữa tiệc đón khách ở làng Vân được miêu tả như thế nào?

Trả lời:

Đoạn trích miêu tả một khung cảnh rất đặc biệt. Có một số yếu tố tạo dựng khung cảnh, nhưng yếu tố ánh sáng được chú trọng, kèm theo đó là âm thanh. Ánh sáng đèn được giảm tối đa để bừng lên ánh sáng của các mâm rượu. Ánh sáng nhảy múa trên gương mặt thực khách. Trong không gian đó, vẳng lên tiếng hát quan họ. Ngoài ra còn có những chai rượu Vân, những chiếc mâm đồng và hoạt động của con người.

Câu 4 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Việc các bậc cao niên trong làng tiếp khách thể hiện đặc điểm gì của người dân nơi đây?

Trả lời:

Ở vùng nông thôn Bắc Bộ, nhất là vùng Kinh Bắc xưa, các bậc cao niên được tôn kính, những hoạt động lễ nghi trang trọng đều do các cụ thực hiện. Tiếp khách quý cũng được coi là một nghi lễ. Do vậy, trong văn bản này, ta thấy các cụ trong làng là người đón khách, tiếp khách với trang phục lễ nghi, tiến hành việc điều phối ánh sáng, đốt lửa,... Điều này thể hiện một tục lệ đẹp của người dân địa phương.

Câu 5 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Đọc đoạn trích, em cảm nhận được gì về thái độ ứng xử với văn hoá vùng miền của tác giả?

Trả lời:

Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường là người vùng khác, đến làm khách ở làng Vân. Ông biểu lộ sự háo hức, thích thú trước những nét văn hoá của vùng này. Thái độ tôn trọng, đề cao những nét văn hoá đó thể hiện cái nhìn rộng mở của nhà văn: biết trân trọng sự khác biệt, yêu thích những nét văn hoá truyền thống độc đáo của các vùng miền.

Câu 6 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Rượu làng Vân là loại rượu quê khá nổi tiếng. Có nhiều làng quê trên đất nước Việt Nam là những làng nghề chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống. Kể tên và chia sẻ nét văn hoá độc đáo của những làng nghề mà em biết.

Trả lời:

Trên đất nước Việt Nam có hàng nghìn làng nghề truyền thống. Làng nghề là làng chuyên về một nghề, phần lớn là nghề thủ công (làm tranh dân gian, làm đồ gỗ, làm nón, làm tò he, thêu, làm tương, làm gốm,...). Làng Vân có nghề nấu rượu từ sắn, gạo. Em hãy tìm hiểu thêm trên in-tơ-nét, sách báo, tài liệu hoặc quan sát ở địa phương để kể về những làng nghề như thế.

Câu 7 trang 47 SBT Ngữ Văn 7: Xác định các biện pháp tu từ được dùng trong câu văn dưới đây và nêu tác dụng của những biện pháp tu từ đó:

Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại.

Trả lời:

Biện pháp tu từ được dùng ở câu văn này là nhân hoá và so sánh.

+ Nhân hóa: những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối.

+ So sánh: trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại.

→ tác dụng: tạo ra tính gợi hình, gợi cảm cho câu văn.

SBT Ngữ Văn 7 trang 47, 48 Viết Tập 1

Bài tập 1 trang 47, 48 SBT Ngữ Văn 7: Giả sử em là người đứng ra tổ chức một cuộc chơi thả diều cho nhóm bạn trong lớp vào một buổi chiều có giờ học phụ đạo ở trường. Nhóm của em bỏ học mà không xin phép thầy cô. Em hãy viết bản tường trình về việc này để trình bày với giáo viên chủ nhiệm và thầy cô dạy phụ đạo.

Trả lời:

Bài tập yêu cầu viết bản tường trình về việc em tổ chức chơi thả diều cho một nhóm bạn, vi phạm quy định của nhà trường. Trong bài tập này, em cần xác định sự việc để ghi tên văn bản tường trình, trình bày sự việc đầy đủ, rõ ràng. Cần tuân thủ quy định về thể thức của văn bản tường trình.

Em có thể tham khảo mẫu bản tường trình dưới đây:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

...„ngày... tháng... năm...

 

BẢN TƯỜNG TRÌNH

Về việc tự ý tổ chức cuộc chơi thả diều

Kính gửi: .......................... .

Em là ..., học sinh lớp ..., trường ..., xin phép tường trình một việc như sau:

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Em xin cam đoan điều vừa tường trình là đúng sự thật. Em mong được thầy cô và nhà trường tha lỗi. Em xin hứa sẽ không bao giờ tái phạm.

Người viết tường trình

(Kí tên)

Bài tập 2 trang 48 SBT Ngữ Văn 7: Em có thể đã từng chứng kiến (hoặc tham gia) một vụ bắt nạt trong trường học. Hãy viết bản tường trình về vụ việc đó để trình bày với Ban Giám hiệu nhà trường.

Trả lời:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ngày………. tháng… năm……

 

BẢN TƯỜNG TRÌNH

(V/v học sinh đánh nhau)

Kính gửi: Ban giám hiệu Trường THPT huyện A

Họ và tên:…………………………………

Sinh ngày:……………………………….

Học sinh lớp:…………………………………………………….

Chức vụ:…………………………………………………………..

Nơi ở hiện nay:…………………………………………………

Mối quan hệ với học sinh đánh nhau: bạn cùng lớp

Thời điểm xảy ra sự việc: 10/3/2021

Diễn biến sự việc:

Vào buổi sáng ngày 10/3/2021, trong giờ nghỉ giải lao, khi em mới bước vào lớp thì thấy bạn Trần Bình T (là một học sinh học yếu và cá biệt trong lớp) đang cãi nhau với bạn Nguyễn Văn A, trong khi cãi nhau bạn A có dọa nếu T đánh A thì sẽ mách với cô giáo chủ nhiệm. Sau câu nói đó thì T đã chạy đi lấy chậu nước rửa tay để ngoài cửa lớp đập liên tục vào đầu A đến chảy máu, sau đó A nhảy lên người T đè T xuống đất đấm liên tiếp vào mặt T. Trong lúc sự việc diễn ra thì trong lớp có khoảng 10 bạn, mọi người đều xúm vào can ngăn nhưng T và A vẫn tiếp tục đánh nhau, cho đến khi chú bảo vệ chạy ngăn thì hai bên mới dừng lại.

Nguyên nhân dẫn đến sự việc xảy ra: Bản thân em nghe được các bạn trong lớp kể lại và đã chứng kiến một nửa A và T cãi nhau thì nguyên nhân dẫn đến sự việc trên là do trong tiết học Toán trước đó, khi cô giáo gọi T đứng lên trả lời, A có đặt chiếc compa lên ghế ngồi của T, sau khi trả lời xong T không biết nên đã ngồi vào compa, sau đó A còn trêu chọc T là do ngu dốt nên mới không trả lời được câu hỏi đơn giản của cô giáo. Em nghĩ do vậy nên T mới cãi nhau với A.

Em xin cam đoan những điều em vừa nêu là hoàn toàn đúng sự thật, nếu có sai sót em xin chịu trách nhiệm.

NGƯỜI VIẾT TƯỜNG TRÌNH

(Kí và ghi rõ họ tên)

SBT Ngữ Văn 7 trang 48 Nói và Nghe Tập 1

Bài tập 1 trang 48 SBT Ngữ Văn 7: Trong một cuộc tham quan làng nghề truyền thống ở địa phương của lớp, em được phân công nói về vấn đề giá trị của các làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế và văn hoá của địa phương. Hãy trình bày bài nói của mình.

Trả lời:

Vấn đề em cần nói tới là giá trị của các làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế và văn hoá của địa phương. Em cần thực hiện các thao tác sau:

- Đọc lại phần hướng dẫn Nói và nghe trong SGK (tr. 123 - 125); tìm kiếm những thông tin liên quan đến làng nghề truyền thống. Em có thể sử dụng lại những thông tin đã tìm hiểu được khi thực hiện câu hỏi 6 của bài tập 8 ở trên.

- Lập dàn ý cho bài nói, chú ý các khía cạnh của vấn đề như: tên của làng nghề truyền thống, sản phẩm của làng nghề truyền thống, đóng góp của làng nghề truyền thống cho đời sống cư dân, việc giữ gìn nghề truyền thống, vai trò của làng nghề truyền thống trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá, khả năng đóng góp vào phát triển du lịch và kinh tế nói chung của làng nghề truyền thống,... Em cần đưa ra một số ví dụ cụ thể về các làng nghề, sản phẩm của làng nghề mà em tìm hiểu được.

- Luyện nói ở nhà hoặc trước nhóm bạn trong lớp. Nếu có điều kiện thì có thể chuẩn bị một số tranh ảnh, đoạn phim ngắn minh hoạ cho bài nói.

* Bài nói mẫu tham khảo:

Vấn đề văn hoá truyền thống trong xã hội hiện đại là một chủ đề được nhiều người quan tâm. Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang từng bứo hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, văn hoá truyền thống có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Ở trường học, vào những dịp đặc biệt như trung thu, tết nguyên đán, … em được tham gia rất nhiều những hoạt động văn hoá truyền thống đa dạng và phong phú. Điều đó giúp cho em hiểu về những giá trị xưa cũ và tinh thần giữ gìn truyền thống văn hoá của nhân dân ta. Bên cạnh đó, trên ti vi cũng nói và truyền thông rất nhiều về những nét đẹp văn hoá truyền thống trên nhiều vùng miền trên đất nước ta. Một trong số những hoạt động: thú chơi tranh dân gian, sưu tầm các sản phẩm thủ công truyền thống, trò chơi dân gian, … Bên cạnh đó, một số nét văn hoá truyền thống cũng đang bị mài mòn do ý thức kém và lòng tham lam của con người. Gần đây, báo chí cũng rất rầm rộ vụ hàng loạt tượng phật trong một ngôi chùa linh thiêng bị đánh cắp. Khi biết được thông tin, người dân đã không khỏi hoang mang và phẫn nộ, quyết tâm truy tìm để lên án, tố cáo những cá nhân, tập thể đã làm điều đó. Dù có một số trường hợp không có ý thức giữ gìn văn hoá dân tộc nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận được giá trị lâu bền của những nét đẹp văn hoá truyền thống. Chính những hoạt động đó khiến cho con người sống văn minh và yêu cái đẹp, yêu quê hương, dân tộc nhiều hơn.

Bài tập 2 trang 48 SBT Ngữ Văn 7: Lớp em tổ chức một cuộc thảo luận nhỏ bàn về vai trò kết nối tình thân của những món ăn truyền thống địa phương. Em hãy phát biểu suy nghĩ của mình về vấn đề đó.

Trả lời:

Ở bài tập này, chủ đề nói là vai trò kết nối tình thân của những món ăn truyền thống địa phương. Tương tự bài tập 1, em cần thực hiện các thao tác sau:

- Đọc lại phần hướng dẫn Nói và nghe trong SGK (tr. 123- 125); tìm kiếm những thông tin liên quan đến món ăn truyền thống ở địa phương em hoặc các địa phương khác.

- Lập dàn ý cho bài nói, chú ý các khía cạnh của vấn để như: tên của món ăn và tên của địa phương có món ăn đó; nguyên liệu và cách thức chế biến món ăn; những hoàn cảnh sử dụng món ăn; những người có thể tham gia làm món ăn; thông điệp mà món ăn gửi gắm; ...

- Luyện nói ở nhà hoặc trước nhóm bạn trong lớp.

* Bài nói mẫu tham khảo:

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.

Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..

Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp bốn góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.

Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.

Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Đánh giá

0

0 đánh giá