Toptailieu.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục Ngữ văn 11 Kết nối tri thức gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục
Đề bài: Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục
Dàn ý Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục
1. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm Truyền kì mạn lục và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
2. Thân bài
a. Giới thiệu về thể loại truyền kì và nội dung của tác phẩm
- Truyền kì: Văn xuôi tự sự, phản ánh hiện thực qua những yếu tố hoang đường, thể hiện quan niệm của tác giả
- Nội dung tác phẩm:
+ Kể về Ngô Tử Văn và hành động đốt đền của tên tướng bại trận phương bắc họ Thôi đang tác quái, gây hại cho dân.
+ Hắn đe dọa và kiện chàng ở Minh ty. Chàng được Thổ thần chỉ cách nên đã vạch trần được tội ác của tên tướng giặc khiến hắn phải chịu trừng phạt.
+ Sau này nhờ tiến cử của Thổ thần, chàng được nhận chức phán sự ở đền Tản Viên.
=> Khẳng định niềm tin về công lý, sự chính trực của con người sẽ được đền đáp.
b. Giới thiệu về nhân vật Ngô Tử Văn
- Họ tên: Tên Soạn, họ Ngô
- Quê: Huyện Yên Dũng, đất Lang Giang.
- Tính cách: khẳng khái, nóng nảy, là người cương phương, thấy gian tà không chịu được.
=> Cách giới thiệu nhân vật trực tiếp, ngắn gọn, súc tích, gây được sự chú ý cho người đọc.
=> Giọng điệu có phần hướng tới sự ngợi ca, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động sau này của nhân vật.
c. Cuộc đấu tranh nơi trần gian của Ngô Tử Văn
- Hành động châm lửa đốt đền:
+ Nguyên nhân: Do tức giận sự hoành hành, hống hách của tên tướng giặc bại trận họ Thôi, làm hại tới dân chúng "Tử Văn rất …đốt đền".
+ Diễn biến:
Tử Văn "tắm gội chay sạch, khấn trời" => Đây là hành động được chuẩn bị kỹ càng, có chủ đích, cẩn trọng, không phải bộc phát.
"châm lửa đốt đền" => Hành động quyết liệt, công khai, vô cùng dũng cảm "vung tay không cần gì cả".
=> Hành động đốt đền thể hiện sự khẳng khái, cương phương của Ngô Tử Văn, bộc lộ ý chí, ý thức dân tộc mạnh mẽ, bằng việc diệt trừ tên tướng giặc bại trận làm loạn nhân gian.
- Cuộc gặp gỡ với tên tướng Bách hộ họ Thôi:
+ Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn "thấy trong mình khó chịu …sốt rét"
+ Trong cơn mê man, chàng thấy một người "khôi ngô dõng dạc, …cư sĩ" - nói năng đe dọa, bắt chàng "dựng lại đền như cũ" => Lời nói mang sự đe dọa, mắng mỏ "Biết điều … tai vạ", "Phong Đô … sẽ biết" => một kẻ xảo trá, tham lam, ranh ma, độc ác.
+ Đối lập với tên tướng, Ngô Tử Văn "mặc kệ … tự nhiên", thái độ ung dung, ngạo nghễ, tự tin vào việc làm của mình.
- Cuộc gặp với Thổ thần:
+ Hoàn cảnh: Thổ thần đến sau khi tên tướng "phất áo bỏ đi" là "một ông già …vái chào" => Dáng bộ giản dị, thái độ khiêm nhường, cung kính, coi trọng, bày tỏ sự cảm ơn với Tử Văn.
+ Thổ thần kể lại mọi việc cho Tử Văn nghe: Bị tên tướng đánh đuổi, phải nương nhờ đền Tản Viên => cho chàng thấy rõ sự xảo trá, tác quái của tên tướng giặc.
+ Tử Văn trách Thổ thần nhu nhược, thế nhưng Thổ thần tuy là thần tiên nhưng phải cam chịu, chấp nhận, không dám đấu tranh vì "những đền miếu gần quanh … bênh nó cả".
=> Nguyễn Dữ phê phán tầng lớp quan lại yếu đuối, nhu nhược không dám đấu tranh cho lẽ phải và lớp quan lại tham lam.
+ Sau đó, Thổ thần bày cách cho Tử Văn tâu kiện với Diêm vương và cách đối phó với tên tướng giặc.
=> Câu chuyện phát triển hết sức logic, cho thấy những người làm việc chính nghĩa thì luôn có thần linh giúp sức.
d. Cuộc đấu tranh giành công lý ở Minh ty
- Ngô Tử Văn phải đương đầu với thử thách:
+ Bị quỷ sứ bắt đi trong đêm, qua con sông với côn cầu "ước hơn ngàn thước …thấu xương", "hai bên … nanh ác", tội chàng bị khép vào là tội nặng, không được giảm án => toàn những sự việc kinh hãi, đòi hỏi lòng can đảm của Tử Văn.
+ Chàng không hề nao núng, kêu to "Ngô Soạn này … oan uổng" => được vời vào điện đối chất.
+ Tại điện, tên tướng giặc khép nép, tỏ vẻ đáng thương, kêu oan - Tử Văn bị Diêm vương trách mắng, luận tội "hỗn láo", trách mắng chàng ngoan cố, bướng bỉnh.
+ Thế nhưng, thái độ của Ngô Tử Văn: vẫn điềm nhiên, không hề kinh hãi mà một mực cứng cỏi kêu oan, tự tin trước những lời luận tội của Diêm Vương và lời giảo biện của tên tướng giặc.
- Chàng vạch trần tội ác của tên tướng họ Thôi:
+ Tử Văn y lời Thổ thần mà tấu bẩm với Diêm Vương, còn khẳng định cứng cỏi "xin đem giấy …nói càn" => khiến tên tướng giặc hoảng sợ mà xin giảm án cho chàng => cho thấy sự xảo trá, gian ác của hắn.
+ Chàng không chịu bỏ cuộc, nhờ Diêm vương sai người đến đền Tản Viên => Sự việc đúng y lời Tử Văn nói.
=> Cuối cùng, sự thật được chứng thực, Tử Văn thắng kiện, Diêm Vương trách cứ các phán quan làm việc không chí công vô tư, còn tên tướng giặc bị "lồng sắt chụp vào đầu … Cửu u"
=> Cuộc đấu tranh dưới minh ty cho thấy khí phách cũng sự can đảm, thông minh của Ngô Tử Văn trước cuộc đối đầu với tên tướng xảo trá
=> Cho thấy ước mơ về sự công lý công bằng của người dân trong xã hội xưa.
e. Ngô Tử Văn nhận chức phán sự đền Tản Viên
- Hoàn cảnh: Thổ thần tới cảm tạ Ngô Tử Văn đã giúp đỡ mình, đồng thời ông đã xin Đức Thánh Tản cho chàng giữ chân Phán sự tại đền Tản Viên và khuyên chàng nên nhận lời ngay "không nên trùng trình" =>chàng nhận lời "thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất".
- Đây là phần thưởng to lớn dành cho Ngô Tử Văn vì hành động trượng nghĩa, ý chí gan dạ, khẳng khái của mình.
- Hành động diệt trừ tên tướng giặc còn là hành động diệt trừ tận gốc cái ác "mộ của người tướng …như cám vậy", lấy lại danh dự cho Thổ thần, minh oan cho hành động "đốt đền" của chàng.
- Đây còn là niềm ước vọng của nhân dân về một vị quan thanh liêm, chính trực, ước mơ về công bằng công lý.
- Sự gặp gỡ với người cũ và lời truyền "nhà quan Phán sự" =>niềm tin khẳng định một vị quan tốt sẽ được muôn dân yêu kính.
f. Ý nghĩa và bài học:
- Ý nghĩa:
+ Thể hiện niềm tin của nhân dân vào công bằng công lý giữa xã hội.
+ Phản ánh sự giả tạo, xáo trá của một bộ phận con người trong xã hội đương thời cùng những oan trái, bất công không thể tỏ bày.
+ Phản ánh sự tham lam, lộng quyền, nhận hối lộ của đám quan lại trong xã hội xưa.
+ Phê phán sự hèn nhát, nhu nhược, không dám đấu tranh đòi quyền lợi, bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và đa số người dân đương thời.
+ Ca ngợi sự dũng cảm, chính trực, khẳng khái của những người dân bình thường trong xã hội phong kiến.
- Bài học:
+ Cần dũng cảm, kiên cường, đứng lên đấu tranh cho lẽ phải, công lý.
+ Niềm tin về cuộc sống ở hiền thì sẽ gặp lành, niềm tin vào công lý và lẽ phải.
g. Đặc sắc nghệ thuật:
- Kết hợp giữa yếu tố lý kì, kì ảo với tự sự, mượn sự kì ảo để nói về hiện thực và ước vọng của con người => mang tính thời đại.
- Cốt truyện li kì, cuốn hút người đọc, mang tính logic cao, có cao trào
- Tình tiết lôi cuốn, giọng văn tự nhiên, chân thành, giản dị
3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa và nội dung mà tác giả muốn gửi gắm.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 1
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một tác phẩm được trích ra trong số 20 tập truyện của “Truyền kỳ mạn lục”, truyện xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách dũng cảm, kiên cường, được coi là hình ảnh đại diện cho chính nghĩa luôn đứng ra đấu tranh chống lại các thế lực gian tà, bảo vệ cuộc sống ấm no yên bình cho nhân dân, khẳng định niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu ngay nhân vật chính của truyện, một cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn giống như lời kể gây sự chú ý, tò mò và hứng thú cho người đọc “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang...là một người cương trực”. Với tính cách của Tử Văn, thấy việc gian tà thì chướng mắt không chịu được nên khi biết rằng tướng giặc họ Thôi tử trận gần đền bao năm làm yêu làm quái nhũng nhiễu dân gian, Tử Văn đã quyết định đi đốt đền mặc cho kết quả ra sao. Trước khi đốt đền Tử Văn tắm rửa sạch sẽ, thắp hương vái lạy thể hiện sự chân thành, chứng minh sự trong sạch và ý muốn bảo vệ sự yên bình cho nhân dân, mong muốn hành động chính nghĩa của mình được trời đất chứng giám. Hành động đốt đền của Tử Văn đã cho thấy anh là một người cương trực, dũng cảm.
Tuy nhiên sau khi đốt đền Tử Văn đã bị hồn ma tên tướng giặc họ Thôi đòi xây lại đền, hắn làm cho Tử Văn cảm thấy khó chịu “đầu lảo đảo và bụng run run, nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”, dù bị hồn ma tướng giặc đe dọa sẽ gặp tai vạ và phải gặp Diêm Vương nhưng Tử Văn không hề tỏ ra sợ hãi mà ngược lại vẫn ngất ngưởng tự nhiên, mặc kệ những lời đe dọa. Đến khi Thổ Công bị hại hiện lên gặp Tử Văn anh mới ngỡ ra hồn ma tên tướng giặc là kẻ đã cướp đền của Thổ Công đất Việt, Thổ Công đã kể lại sự tình mình bị cướp đền cùng căn dặn những việc Tử Văn cần làm nếu muốn diệt trừ hung thần và giải trình với Diêm Vương. Ban đầu Tử Văn rất kinh ngạc, hỏi Thổ Công “Hắn có thực là tên hung thần, có thể gieo vạ cho tôi không?”, nhưng rồi với bản lĩnh của kẻ sĩ, Tử Văn đã chấp nhận nghe theo lời Thổ Công, đi xuống gặp Diêm Vương đòi lại công bằng cho Thổ thần đất Việt.
Khi Ngô Tử Văn bị bắt xuống Minh Ti, quang cảnh nơi đây lạnh lẽo, rùng rợn, đáng sợ với nhiều hình ảnh kỳ ảo như “cầu dài ước hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, Tử Văn không sợ hãi mà vẫn gan dạ lớn tiếng kêu oan. Cuộc xét xử tội của Tử Văn dưới âm phủ diễn ra rất căng thẳng, ban đầu hồn ma tên tướng giặc tố cáo Tử Văn đốt đền, Diêm Vương trách mắng ngay nhưng Tử Văn đáp lại bằng giọng cứng cỏi, lên tiếng vạch mặt bản chất xấu xa của tên tướng giặc. Sau đó tướng giặc họ Thôi sợ bị bại lộ nên đạo đức giả xin giảm tội cho Tử Văn “Xin đại vương khoan dung tha cho hắn… nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”, ngược lại Tử Văn càng kiên quyết, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên chứng thực, Diêm Vương chấp thuận quả nhiên sự thật đúng như Tử Văn nói, kết quả Tử Văn được xử thắng kiện. Tử Văn đã đấu tranh đến cùng cho lẽ phải, không hề run sợ ở chốn ma quỷ, Tử Văn thắng kiện đã chứng minh một quy luật tất yếu, chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.
Để đền ơn nghĩa với Tử Văn, Thổ Công đã tiến cử anh giữ chức phán sự ở đền Tản Viên, Tử Văn là người chính trực, gan dạ dũng cảm và lòng tin vào công lý nên anh xứng đáng nhận chức phán sự. Lời bình ở cuối truyện như một lời nhắn nhủ, nhắc nhở của tác giả khiến chúng ta phải thừa nhận và suy nghĩ, thứ nhất là thừa nhận hiện thực xã hội đương thời thối nát đầy rẫy những áp bức bất công, biểu hiện tiêu cực nơi âm ti phản chiếu chính hiện thực xã hội tham ô, hối lộ; thứ hai điều chúng ta phải suy nghĩ đó là “cứng quá thì gãy” hay chỉ sợ “ta không cứng cỏi được”, đừng vì sợ gãy mà không dám cứng cỏi, chỉ khi ta dám đấu tranh đến cùng mới giành được phần thắng, mới diệt trừ được tận gốc cái ác, lấy lại công lý, chính nghĩa.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” với cốt truyện đầy kịch tính, các yếu tố kỳ ảo xen kẽ tạo nên một sự hấp dẫn riêng với người đọc. Truyện không chỉ củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà mà còn khuyên răn con người ta đứng trước cái xấu cái ác phải “cứng cỏi” đấu tranh đến cùng, không nên run sợ, trốn tránh, thờ ơ mà phải quyết tâm diệt trừ tận gốc gian tà.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 2
Trong kho tàng truyện đặc sắc của dân tộc ta, không hiếm những tác phẩm có nội dung với những yếu tố ly kỳ, biến ảo để vừa tăng thêm tính hấp dẫn cho câu chuyện vừa biểu thị ước mơ về công lý, công bằng của người dân. Trong số đó, tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục" của tác giả Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm khá tiêu biểu có mang yếu tố thần kì này. Các tác phẩm trong "Truyền kì mạn luc" đều được ghi nhặt từ các câu chuyện lưu truyền trong dân gian và được Nguyễn Dữ thêm vào đó tính hiện thực của xã hội đương thời cùng tấm lòng nhân đạo của mình, ước mơ công lý của người dân lương thiện. Trong đó phải kể tới tác phẩm "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" – một câu chuyện mà khi nhắc tới người ta luôn phải tấm tắc ngợi khen.
Truyền kì là áng văn xuôi tự sự thời trung đại, kể những câu chuyện phản ánh hiện thực thông qua những yếu tố hoang đường, nơi mà thần, quỷ, người giao hòa tương giao với nhau. Và ẩn sau mỗi yếu tố li kì ấy là tấm lòng của tác giả, quan niệm, niềm tin, ước mơ, khát vọng của họ trước cuộc đời. "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" kể về chàng trai tên Ngô Tử Văn và hành động đốt đền của tên tướng bại trận phương Bắc họ Thôi đang tác quái trong dân gian, gây họa cho dân lành. Sau hành động liều lĩnh ấy, Tử Văn bị hắn đe dọa và kiện ở Minh ti. Sau này, nhờ Thổ công mách bảo, Tử Văn đã vạch trần tên tướng giặc và tội ác của hắn. Tên tướng bị trừng phạt còn Tử Văn lại trở về dương gian. Cuối cùng, nhờ sự tiến cử của Thổ thần, Tử Văn được nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên, dưới trướng của Đức Thánh Tản rồi "không bệnh mà mất". Qua câu chuyện, Nguyễn Dữ muốn phản ánh niềm tin muôn đời của người dân lao động về công lý, về việc "ở hiền gặp lành, ác giả ác báo" và về sự chính trực, công minh, dám đứng lên bảo vệ lẽ phải của con người sẽ được đền đáp.
Ngô Tử Văn – nhân vật chính của tác phẩm là người ở huyện Yên Dũng, đất Lang Giang, tên là Soạn, họ Ngô. Ngay từ khi vào tác phẩm, Ngô Tử Văn đã được tác giả giới thiệu là một người khẳng khái, cương trực, nóng nảy, "thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương". Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn, súc tích của tác giả vừa là sự khẳng định gây chú ý cho người đọc, lại vừa thể hiện sự ngợi khen, ngợi ca trước tính cách, phẩm chất của Ngô Tử Văn, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động có phần ngang ngược của chàng sau này. Gần nhà Ngô Tử Văn có ngôi đền thờ Thổ thần, vậy mà tên Bách hộ họ Thôi phương Bắc, tử trận ở gần đó dám chiếm đền rồi "làm yêu làm quái trong dân gian", lộng hành, hống hách, làm hại tới dân chúng, khiến cho Tử Văn hết sức tức giận.
Thánh thần vốn là những điều thiêng liêng trong tâm linh của người Việt từ xưa, vậy nên chẳng có ai dám mạo phạm vào đền đài, miếu mạo, chùa chiền. Vậy nên, đền bị tên tướng giặc chiếm nhưng chẳng ai dám đứng lên mà phản kháng, chỉ biết sống trong sợ hãi, "dốc hết của cải" để cúng cầu. Trong khi tất cả mọi người đều lo sợ, cầu cúng đến "gia sản khánh kiệt", "lắc đầu lè lưỡi" thì Tử Văn lại khác, chàng lại "tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền". Hành động của chàng dường như đã được tính toán, chuẩn bị với mục đích rất rõ ràng. Chàng rất cẩn trọng, tắm rửa "khấn trời" rồi mới đốt khiến cho người đọc cảm nhận được hành động đó của Tử Văn không phải là hành động bộc phát tức thời. Ngay cả lúc đốt đền, Tử Văn cũng rất quyết liệt, không hề do dự một phân mà công khai, vô cùng dũng cảm. Sau khi châm lửa đốt đền xong, trong khi "mọi người lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn" còn chàng thì lại "vung tay không cần gì cả". Hành động đó thể hiện sự khẳng khái trong tính cách của chàng như đã nêu ở đầu câu chuyện, vừa ngạo nghễ, vừa dũng cảm, thể hiện sự "cương phương" của một con người chính trực một lòng muốn tiêu diệt cái ác mang lại bình yên cho người dân, bộc lộ ý chí, ý thức dân tộc vô cùng mạnh mẽ khi dang tay bảo vệ ngôi đền của dân tộc mình mà diệt trừ hồn ma tên tướng giặc bại trận đang làm loạn nhân gian.
Những tưởng đốt xong là hết, nhưng không, "đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét". Trong cơn mơ màng, chàng gặp một người "khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ". Kẻ giống cư sĩ kia, tưởng rằng nói năng phải kính trên nhường dưới, biết trước biết sau thế nhưng lời nói lại chẳng giống như vẻ bề ngoài, hắn nói năng với đầy lời mắng mỏ, đe dọa, đòi Tử Văn phải trả lại đền "biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ", "Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết". Hồn ma tên tướng giặc kia ngoại hình thì sáng lạn, nói lời đầy đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ ranh ma, xảo quyệt, tham lam, độc ác, xảo trá. Hắn theo chân Mộc Thạnh sang cướp nước ta, làm điều ác bá, chết đi lại gây họa, cướp đền, tác quái trong dân chúng, đe dọa kẻ sĩ trong dân gian, còn dọa nạt sẽ bắt kiện chàng. Nhưng đối lập với thái độ đe dọa, tức giận của tên tướng bại trận, Tử Văn lại "mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên", thái độ vừa bình thản, vừa ung dung, ngạo nghễ. Bởi chàng tin việc làm của mình là chính nghĩa, là hành động mang tới lợi ích cho muôn dân, đúng như lời dạy trong kinh sách.
Thế rồi, tên tướng giặc "phất áo bỏ đi", Tử Văn vẫn mê man trên giường thì chiều tối "lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh di vài đến trước thềm, vái chào". Khác với tên tướng giặc quần là áo lượt, Thổ thần đến gặp Tử Văn chỉ với "áo vải mũ đen", giản dị, thanh bạch. Không chỉ vậy, lời nói, cử chỉ còn nhẹ nhàng, đúng với tư chất của một vị thần cai quản cả một vùng. Tuy là Thổ thần, thế nhưng đến gặp Tử Văn, ông vẫn cung kính, "vái chào" rồi thưa chuyện cảm ơn, hết sức coi trọng Tử Văn.
Thổ thần khi gặp Tử Văn đã kể cho chàng nghe hết thảy những việc làm của tên tướng họ Thôi "tranh chiếm miếu đền, giả mạo tên tuổi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả", nhờ vậy mà chàng càng thêm hiểu rõ về sự xảo trá, gian manh và độc ác của hắn. Không chỉ vậy, Thổ thần còn lo lắng cho Tử Văn, dặn chàng phải cẩn trọng bởi tên tướng giặc đã kiện chàng ở Minh ty. Vậy là chàng đã hiểu hết mọi chuyện, chàng trách Thổ thần đã quá nhu nhược, sao lại để hắn lộng hành, hống hách đến như vậy? Nhưng Thổ thần tuy là thần tiên, thấu hiểu đạo nghĩa, hiểu rõ mọi chuyện, căm hận kẻ cướp đền của mình nhưng vẫn phải cam chịu số phận, chấp nhận bị đánh đuổi khỏi đền của mình, không dám đứng lên đấu tranh "kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế" bởi chẳng có ai làm chứng "những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực nó cả". Ở đây phải chăng Nguyễn Dữ đã đưa vào trong câu chuyện hoang đường của mình hình ảnh hiện thực trong xã hội phong kiến đương thời thối nát khi mà dân lành phải chịu hà hiếp bởi những tên quan sai độc ác, gian trá, những vị quan hiền lành, lương thiện thì bị hãm hại, không dám đấu tranh, những kẻ làm quan khác thì tham lam, ích kỉ, tham tiền đút lót mà không màng tới nỗi khổ của người dân?
Biết trước sự việc Tử Văn phải đi về chốn Minh ty là điều không tránh khỏi, Thổ thần đã bày cách để kẻ sĩ chính nghĩa như chàng "khỏi phải chết một cách oan uổng". Câu chuyện được Nguyễn Dữ phát triển vô cùng logic, đúng với niềm tin của con người rằng kẻ làm việc chính nghĩa, thuận theo ý muôn dân thì bao giờ cũng được thần tiên giúp sức. Đúng như lời Thổ công dự đoán, đến chừng nửa đêm, Tử Văn bị hai tên quỷ sứ bắt xuống Minh ty, khép chàng vào "tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm". Minh ty dưới địa ngục là một nơi đáng sợ tới ghê rợn, ai bước xuống cũng không khỏi khiếp hoảng khi "gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương", "hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác". Thế nhưng, Tử Văn đâu phải người thường, đến đền chàng còn dám đốt, vậy nên những nơi như thế chẳng làm chàng khiếp sợ mà còn khiến chàng cứng cỏi hơn bội phần. Chàng không hề nao núng mà kêu to, bày tỏ sự oan uổng của mình để được vời vào điện mà đối chất với tên tướng giặc và Diêm vương.
Đến trước Minh ty, chàng đã thấy tên tướng giặc đội mũ trụ đang kêu cầu trước sân. Hắn buộc tội Tử Văn, cho rằng chàng "bướng bỉnh gân guốc", không chịu phục. Tên tướng giặc khép nép, tỏ ra là một kẻ bị hại đáng thương, một mực kêu oan với Diêm vương, bằng những lời lẽ xàm tấu của mình, Diêm vương đã bị hắn phỉnh lừa mà trách tội Tử Văn rằng "Kẻ kia là cư sĩ, trung thuần khích liệt, có công với tiền triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền để đền công khó nhọc. Mày là kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo…?" Lời trách tội của Diêm vương đanh thép là thế, thế nhưng, Tử Văn – người biết được sự thật thì điềm nhiên, chẳng hề kinh hãi, chàng một mực kêu oan, "tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã nói, lời rất cương chính, không chịu chùn nhụt chút nào".
Tên tướng giặc nghe vậy, buộc tội chàng "mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tặc", cuộc cãi vã diễn ra ngay trước mắt của Diêm vương. Thế nhưng, chính sự điềm tĩnh, tự tin, cứng cỏi của Tử Văn đã làm cho Diêm vương sinh nghi về thực hư câu chuyện, thấy vậy, Tử Văn liền quả quyết rằng: "nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có thực như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn". Lời nói đanh như thép của Tử Văn đã chạm đến nỗi sợ hãi của tên tướng họ Thôi, hắn bèn giả giọng nhân nghĩa, bề trên, mà nói đỡ cho Tử Văn "gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm, Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ trừng giới. Xin đại vương khoan tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Bất tất đòi hỏi dây dưa và thẳng tay trị tội, sợ có hại cho cái đức hiếu sinh". Hắn vờ vịt xin giảm án cho Tử Văn chẳng qua không muốn để Diêm vương biết được thân phận thực sự của hắn. Cứ tưởng hắn có lòng tốt, thương người, nhưng thực chất, hắn chỉ muốn bao biện, bênh vực cho chính bản thân mình mà thôi. Thế nhưng, chính thái độ mâu thuẫn của hắn và sự cứng cỏi của Tử Văn đã khiến Diêm vương nghi ngờ, cho người tra xét tường tận. Cuối cùng, mọi sự đều "nhất nhất đúng với lời Tử Văn". Thấy vậy Diêm vương vô cùng giận dữ, trách mắng các phán quan làm việc không giữ được sự chí công vô tư, làm ra sự "dối trá càn bậy". Còn tên tướng giặc, Ngài cho người "lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u". Vậy là chàng Ngô Tử Văn đã thắng kiện và được đưa trở lại dương gian.
Đúng như nhân dân ta vẫn tin "ở hiền thì gặp lành", chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà, đó là ước mơ muôn đời của nhân dân ta. Câu chuyện khép lại với cái kết vô cùng thỏa mãn, Tử Văn được sống lại, đền được xây mới, Thổ thần được trở về, còn mộ tên tướng giặc bị "bật tung lên, hài cốt tan tành như cát". Đây như là lời răn dạy cho những kẻ làm việc ác ở đời, sống gây tội ác thì đến chết cũng sẽ bị trừng phạt. Cuộc tranh đấu dưới Minh ty quả là vô cùng gay cấn, thế nhưng, Ngô Tử Văn đã bộc lộ được khí phách của một kẻ sĩ, với sự can đảm, cứng cỏi và thông minh của mình đã buộc tên tướng giặc xảo trá phải nhận hình phạt thích đáng cho tội lỗi của mình. Bằng những chi tiết li kỳ, huyền ảo, Nguyễn Dữ đã lồng vào trong câu chuyện ước mơ ngàn đời của người dân ta là có được công lý công bằng giữa xã hội.
Câu chuyện khép lại khi Thổ thần trở lại cảm ơn Tử Văn vì sự giúp đỡ của chàng. Để trả ơn chàng, ông đã xin với Đức Thánh Tản cho chàng được nhận chức phán sự tại đền. Tử Văn đã vui vẻ nhận lời rồi "thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất". Đây là một món quà, một phần thưởng to lớn cho hành động trượng nghĩa của chàng, cho sự khẳng khái, cương trực, gan dạ, thông minh của chàng văn sĩ họ Ngô. Những xung đột được khép lại bằng hình ảnh năm Giáp Ngọ, người quen của Tử Văn có việc ra ngoài cửa tây buổi sớm, trong sương mù, thấy xe ngựa ầm ầm đi tới, lại nghe tiếng quát tránh đường cho xe quan Phán sự, "người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn".
Hình ảnh kết thúc câu chuyện càng khiến cho dư âm của câu chuyện âm vang mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là lời truyền đời rằng kẻ tốt, làm việc thiện sẽ được báo đáp, vinh danh, còn kẻ xấu, tất sẽ phải chịu sự trừng phạt thích đáng. Hành động của Tử Văn biểu hiện cho sự diệt trừ cái ác đến tận gốc, lấy lại danh dự cho Thổ thần, phơi bày nguyên nhân khiến cho chàng có hành động đốt đền ngang ngược. Lời truyền đời rằng "nhà quan Phán sự" là niềm tin về một vị quan thanh liêm, chính trực, được muôn dân yêu kính.
Sau câu chuyện, chúng ta rút ra được những ý nghĩa và bài học mà tác giả Nguyễn Dữ muốn gửi gắm thông qua Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Về phần ý nghĩa, ông muốn phản ánh cái xã hội phong kiến đương thời đang rơi vào thối nát, phản ánh sự giả tạo, xảo trá của một bộ phận con người trong xã hội cùng với những nỗi oan trái, bất công không thể tỏ bày. Ông còn đề cập tới nạn tham quan, lộng quyền, nhận hối lộ, làm việc không chí công vô tư của đám quan lại đương thời cũng như phê phán sự hèn nhát, nhu nhược, không dám đứng lên đòi lại quyền lợi, bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và đa số người dân. Ông cũng ca ngợi sự dũng cảm, chính trực, ngay thẳng của những người dân bình thường trong xã hội.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên dạy chúng ta bài học về lòng cương trực, dũng cảm, sự gan dạ khi đứng lên đấu tranh bảo vệ công lý về lẽ phải. Làm được điều đó, chúng ta chắc chắn sẽ có được sự đền đáp xứng đáng. Ngoài ra, câu chuyện còn là niềm tin vào lẽ phải, công lý công bằng ở đời, niềm tin vào sự "ở hiền gặp lành". Tác phẩm viết ra nhằm đề cao tính cương trực, nghĩa khí của kẻ sĩ trong xã hội, đây là tư tưởng chủ đề xuyên suốt tác phẩm. Qua đó mà ta thấy được hệ tư tưởng mới mẻ, tích cực và tiến bộ mà Nguyễn Dữ mang đến qua câu chuyện về chức phán sự bằng việc kết hợp yếu tố kì ảo vào một cốt truyện hấp dẫn, mượn sự kì ảo đó để nói lên hiện thực và khát vọng của con người, đây là điểm đột phá mang tính thời đại mà Nguyễn Dữ đã làm được trong tác phẩm của mình. Câu chuyện với cốt truyện ly kì, đủ để hấp dẫn người đọc với những cao trào, logic cực kì hợp lý, kèm với đó là lời văn giản dị, không hề trau chuốt, mang tới sự tự nhiên, gần gũi với người đọc.
Qua câu chuyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ muốn ca ngợi tinh thần khẳng khái, cương trực, biết đứng lên bảo vệ lẽ phải Ngô Tử Văn. Chàng mặc dù chỉ là một kẻ học trò nghèo, một người bình thường trong xã hội bấy giờ nhưng lại dám đứng lên chống lại cái ác và chiến thắng. Qua đó, Nguyễn Dữ muốn khẳng định lại lần nữa niềm tin của ông vào công lý trong xã hội, và niềm tin ấy sẽ còn giá trị đến tận mai sau.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 3
"Truyền kì mạn lục" là tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Dữ trong nền văn học Việt Nam mà cụ thể hơn là văn học thời kì trung đại.Tác phẩm này ra đời vào khoảng thời gian nửa đầu thế kỉ XVI, bao gồm 20 truyện được viết bằng chữ Hán.Một trong những truyện tiêu biểu của "Truyền kì mạn lục" là "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên".
Truyền kì là "một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao".Đó cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc bao thế hệ.Ẩn đằng sau những chi tiết hoang đường ấy là những vấn đề then chốt của hiện thực, những quan niệm, tư tưởng và thái độ của tác giả."Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" kể về việc kẻ sĩ Ngô Tử Văn đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận làm yêu làm quái, gây hại cho dân lành.Hắn đe dọa và kiện Tử Văn ở Minh ti. Được Thổ công mách bảo cách đối phó với tên hung thần ấy nên khi bị giải đi xuống âm phủ Ngô Tử Văn đã vạch trần những tội ác mà hồn viên Bách hộ gây ra. Kẻ ác bị trừng phạt, Ngô Tử Văn được sống lại.Nhờ sự tiến cử của Thổ công mà chàng được nhận một chức phán sự ở đền Tản Viên.Sau đó, Tử Văn "thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất".
Nhân vật Ngô Tử Văn được Nguyễn Dữ giới thiệu một cách trực tiếp bằng những lời văn ngắn gọn: "Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực".Đó cũng là những lời văn thể hiện thái độ ngợi khen về tính cách, phẩm chất con người Ngô Tử Văn của tác giả.Tức giận vì không thể chịu được sự gian tà nên chàng đã đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận "làm yêu làm quái trong dân gian".Trước khi thực hiện hành động này, Tử Văn đã "tắm gội sạch sẽ, khấn trời" rồi châm lửa đốt. Trong khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ thay cho chàng thì chàng "vẫn vung tay không cần gì cả", không mảy may suy nghĩ đến hậu quả khôn lường. Hành động đốt đền của Tử Văn đã thể hiện sự quyết liệt, dũng cảm, ngay thẳng, chính trực của một kẻ sĩ trong xã hội.Chàng tiêu diệt cái ác vì muốn mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Ngỡ tưởng chỉ cần đốt đền là mọi việc xong xuôi nhưng Ngô Tử Văn "thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét". Chàng thấy hồn ma tướng giặc đến đòi lại đền và nói những lời đe dọa: "Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ".Trước những lời đe dọa ấy, Tử Văn không chút run sợ, "ngồi ngất ngưởng tự nhiên" bởi đấu tranh cho cái thiện chưa bao giờ là việc làm sai trái. Hồn ma viên Bách hộ họ Thôi có ngoại hình cao lớn, khôi ngô, trên đầu đội mũ trụ, nói những lời đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ hung ác, gian xảo. Khi sống, hắn theo Mộc Thạnh sang "lấn cướp" nước ta, đến khi chết đi trở thành hồn ma thì hắn lại chiếm đền của Thổ công làm nơi trú ngụ cho mình. Những lời đạo lí giả dối không thể che giấu đi bản chất xảo trá, bạo tàn của hắn.Ngô Tử Văn tin rằng hành động của mình là đúng, là việc chính nghĩa nên làm để bảo vệ cuộc sống của nhân dân nước Việt.
Nhờ có cuộc gặp gỡ với Thổ công mà Tử Văn thấy rõ được những hành động "hung yêu tác quái", quấy rầy hạ dân của hồn ma tướng giặc. Thổ công bày cách giúp Tử Văn "khỏi phải chết một cách oan uổng" khi bị hồn ma kiện ở dưới chốn Minh ti.Chàng bị hai tên quỷ sứ bắt xuống dưới âm phủ. Đó là một không gian đáng sợ đến mức ghê rợn: "gió tanh sông xám, hơi lạnh thấu xương", "mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác",...Cảnh tượng ấy không làm cho Tử Văn khiếp sợ, chàng rất cứng cỏi, "không chịu nhún nhường" trước những lời buộc tội của hồn ma tướng giặc. Cuộc cãi cọ của Tử Văn và hồn ma tướng giặc mãi chưa phân phải trái nên Tử Văn đã xin Diêm Vương "đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi" để xác nhận sự thật, phân xử cho công bằng. Thấy vậy, người đội mũ trụ đã có những lời nói đỡ cho Tử Văn: "Gã kia một kẻ học trò,thật là ngu bướng,quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa.Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh".Thoạt đầu người đọc ngỡ tưởng đó là lòng tốt của hồn ma tướng giặc nhưng thực chất đó chỉ là cách mà hắn tự bao biện, bênh vực cho chính mình.
Sau khi Diêm Vương sai người đi chứng thực, sự thật được làm sáng tỏ, tướng giặc bị "lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng", bỏ vào ngục Cửu U. Ngôi mộ của tên tướng giặc "tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy". Đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ làm điều phi ghĩa, gian tà. Tử Văn về nhà mới biết mình đã chết được hai ngày, một tháng sau đó, chàng nhận chức phán sự ở đền Tản Viên do Thổ công tiến cử rồi "không bệnh mà mất".
"Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi các chi tiết kì ảo, có sự đan xen các câu chuyện về con người, ma quỷ, chuyện trần gian, địa ngục, chuyện chết đi và sống lại của Ngô Tử Văn,...Chi tiết Diêm Vương xử kiện ở dưới âm phủ đã thể hiện niềm tin của con người vào công lí xã hội. Nếu trên cõi trần gian cái ác có thể hoành hành, không bị trừng trị thì xuống dưới âm phủ mọi tội ác đều bị trừng trị thích đáng. Chi tiết này đã đẩy xung đột truyện lên cao trào để Ngô Tử Văn có cơ hội bộc lộ sự cương trực và bản lĩnh của mình. Đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dục ý thức sống và hành động của con người, con người hãy sống hướng thiện, làm theo lẽ phải bởi "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo".
"Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ đã ngợi ca sự cương trực, khảng khái và bản lĩnh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải của Ngô Tử Văn. Chàng là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức của nước ta lúc bấy giờ dũng cảm đấu tranh với cái ác. Bên cạnh đó, truyện cũng thể hiện niềm tin tưởng của tác giả Nguyễn Dữ vào công lí và chính nghĩa trong xã hội. Đó là lí do mà "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 4
Nguyễn Dữ là một nhà Nho sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha đỗ Tiến sĩ vào đời vua Lê Thánh Tông. Bản thân Nguyễn Dữ cũng đã đi thi và ra làm quan nhưng chỉ được gần một năm thì lui về ở ẩn. Ông để lại cho đời một tác phẩm nổi tiếng là Truyền kỳ mạn lục, nội dung ghi chép lại những giai thoại, huyền thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ thời Lý cho tới thời Lê sơ. Đằng sau các yếu tố hoang đường kì ảo chính là hiện thực của xã hội phong kiến với đầy rẫy các tệ nạn mà tác giả muốn phơi bày và lên án. Tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, trong đó có Chức phán sự đền Tản Viên là nổi bật hơn cả.
Bối cảnh của truyện là thời kỳ giặc Minh sang chiếm đóng nước ta, nhưng tác giả viết lại chuyện này vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, khi chế độ phong kiến đang suy thoái và đầy mâu thuẫn. Nội chiến Lê - Mạc bắt đầu xảy ra, do vậy mà các thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện cũng phần nào phản ánh các thế lực cường quyền phong kiến chia bè kết phái, hãm hại dân lành.
Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của một trí thức nước Việt tên là Ngô Tử Văn, qua đó thể hiện niềm tin vào công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà, đồng thời lên án lũ giặc xâm lược dù đã chết vẫn không ngừng gây tội ác trên đất nước ta.
Tóm tắt Chuyện chức phán sự đền Tản Viên như sau:
Ngô Tử Văn - một Nho sĩ trong vùng đã châm lửa đốt đền của một tên hung thần lúc sống vốn là tướng giặc xâm lược, để trừ hại cho dân. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi giả làm cư sĩ đến đòi Tử Văn dựng trả lại ngôi đền và dọa sẽ kiện chàng tới Diêm Vương. Thổ Công báo mộng cho Tử Văn biết sự thật về tung tích và tội ác của hắn, đồng thời chỉ dẫn mọi cách đối phó. Ngô Tử Văn bị quỷ sứ bắt xuống Âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã dũng cảm tố cáo tội ác của tên hung thần cướp đền với đầy đủ chứng cứ. Cuối cùng, công lý được thực hiện, kẻ ác gian bị trừng trị. Thổ Công được dân chúng xây lại cho ngôi đền mới. Tử Văn sống lại và được Thổ Công tiến cử giữ Chức phán sự đền Tản Viên.
Vốn là một trí thức thấm nhuần đạo lý Thánh hiền, Ngô Tử Văn không thể làm ngơ trước sự việc ngang trái xảy ra trước mắt: Ngôi đền thờ Thổ Công của làng vốn linh thiêng, bỗng nhiên bị hồn ma tên tướng giặc phương Bắc họ Thôi bại trận cướp lấy. Hồn ma ấy tác oai tác quái khiến dân chúng trong vùng khốn khổ. Tử Văn vô cùng tức giận. Một hôm chàng tắm gội sạch sẽ, khấn Trời rồi châm lửa đốt đền. Sự kiện này cho Thấy Tử Văn tin vào hành động chính nghĩa của mình, lấy lòng trong sạch cùng thái độ chân thành mong được Trời ủng hộ. Như vậy hành động đốt đền của Tử Văn xuất phát từ mục đích tốt đẹp. "Lúc ấy, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn nhưng chàng vẫn vung tay, không cần gì cả". Bởi Tử Văn nghĩ hành động của mình là hợp đạo Trời, hợp lòng người nên rất kiên quyết, không mảy may kinh hãi. Chàng đốt đền khiến cho hồn ma tên tướng giặc không còn chỗ trú ngụ để mà hoành hành, nhũng nhiễu.
Hành động của chàng là hành động tiêu diệt kẻ gian tà, trừ họa cho dân chúng nên xứng đáng với khí tiết cứng cỏi của một bậc chính nhân quân tử. Hành động đó mang kịch tính cao độ ngay từ đầu nên nhân vật Tử Văn có sức cuốn hút rất mạnh!
Điều đặc biệt là kẻ ác kia không phải là một con người bằng xương bằng thịt mà là một hồn ma vô ảnh, vô hình. Nhưng rất đáng sợ vì nó thuộc về thế giới thần linh, chỗ dựa của giai cấp phong kiến từ xưa đến nay.
Khi bị quỷ sứ giải xuống Âm phủ, trước mặt Diêm vương, Ngô Tử văn tỏ ra vô cùng thông minh và cứng cỏi. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi áp đảo chàng bằng dáng vẻ uy nghi, bằng giọng điệu vừa tỏ vẻ ta đây là bậc trí thức đầy hiểu biết, vừa đe dọa: "Nhà ngươi đã theo nghiệp Nho, đọc sách vở của Thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn hủy tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ!"
Ngô Tử Văn vẫn giữ khí phách cứng cỏi, vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Hồn ma tên tướng giặc tiếp tục đe dọa ở mức độ gay gắt hơn: "Phong đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết!" Có nghĩa là hắn sẽ bắt Tử Văn phải chết và sẽ kiện chàng về tội đốt đền.
Tưởng chừng hồn ma tên tướng giặc hoàn toàn giành thế chủ động và hắn đã dồn được Tử Văn vào thế bị động, thua cuộc. Thực ra đây là chỗ tác giả cố ý để cho cái ác hoành hành, cái thiện tạm thời bị lấn lướt, vì thế mà câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn.
Tuy nhiên, bộ mặt thật của hồn ma tên tướng giặc đã bị Thổ Công báo mộng cho Tử Văn biết: "Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược. Thượng Đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu! Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay."
Như thế là Tử Văn đã có được nhân chứng quan trọng cũng chính là nạn nhân của kẻ cướp đền, mạo danh. Chàng trách Thổ Công nhu nhược, không dám kiện hắn trước Diêm Vương và Thượng Đế, mà lại chấp nhận từ bỏ chức vị, đi lánh nạn ở nơi khác. Lời trách như động đúng vào nỗi khổ tâm của Thổ công: "Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên trên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi."
Quả là tài tình! Nguyễn Dữ đã mượn chuyện hoang đường của thế giới thần thánh, ma quỷ để phơi bày thực trạng xã hội phong kiến thối nát đương thời. Bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ngang nhiên vơ vét, đục khoét, ăn hối lộ, bao che kẻ ác, dung túng cho kẻ xấu lộng hành, gây ra bao nỗi oan ức, khổ sở cho dân lành. Tuy thế vẫn có những người dũng cảm như Tử Văn dám chống lại chúng...
Trước mặt Diêm Vương, hồn ma tên tướng giặc phủ phục, quỳ lạy kêu cầu. Không hiểu hắn nói gì mà Diêm Vương một mực bênh vực hắn và kết tội Tử Văn: "Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?"
Thì ra hắn đã mạo danh Thổ công "vốn làm tới chức Ngự sử đại phu đời vua Lý Nam Đế, vì chết về việc Cần vương mà được phong ở đây giúp dân đô vật đã hơn một nghìn năm nay."
Diêm Vương kết tội Tử Văn càng lúc càng gay gắt mà không cho chàng được thanh minh. Phần thắng xem ra đã nghiêng hẳn về phía hồn ma tên tướng giặc gian trá kia. Nhưng Tử Văn không dễ gì bị khuất phục. Lúc bị quỷ sứ lôi đi, chàng la lớn: "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng!" Sau đó chàng tung đòn tấn công lên tiếp. Chàng tố cáo trước Diêm Vương lai lịch đen tối, giả mạo của hắn theo đúng lời Thổ công đã báo mộng, lại còn cứng cỏi khẳng định rằng Diêm Vương muốn biết rõ xin cứ cho người đến đền Tản Viên để xác minh hư thực.
Kẻ gian tà thấy Tử Văn nắm được chỗ yếu của mình nên không cãi mà ranh mãnh biến ngay thái độ cứng cỏi của Tử Văn thành vô lễ: "Ấy là trước Vương phủ mà hắn còn ghê gớm đến như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa?"
Lời qua tiếng lại gay gắt giữa hai bên khiến Diêm Vương sinh nghi. Tử Văn vẫn khăng khăng: "Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế tôi xin chịu thêm cái tội nói càn!"
Biết không thể uy hiếp được Tử Văn, hồn ma tên tướng giặc tỏ vẻ lo sợ nhưng vẫn cố giữ giọng điệu đạo đức giả của kẻ bề trên: "Gã kia là học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy cũng đủ răn đe rồi. Xin Đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh."
Nhưng Diêm Vương đã nhanh chóng nhận ra ai đúng ai sai, liền quát lớn: "Cứ như lời hắn (tức Tử Văn) thì nhà ngươi đáng tội chết. Điều luật trị tội lừa dối đã sẵn sàng đó. Cớ sao nhà ngươi dám làm sự lập lờ nhận tội như vậy?" Rồi lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Mọi chuyện đều đúng như lời Tử Văn đã khai. Diêm Vương giận dữ trách mắng các phán quan không giữ được chí công vô tư, để cho điều dối trá càn bậy xảy ra. Sau đó truyền lệnh "lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng" kẻ lừa đảo gian ác rồi sai bỏ vào ngục Cửu U tức là ngục tối chín tầng ở Âm phủ, nơi giam giữ và trừng phạt những kẻ lúc còn sống gây nhiều tội ác.
Cuối cùng thì Tử Văn đã chiến thắng, công lý chính nghĩa đã chiến thắng! Công lý của nhân dân nghìn đời là vậy! Kết thúc câu chuyện rất có hậu: "Tử Văn sống lại, Thổ công được dân làng xây cho ngôi đền mới. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy". Thật đáng đời cho kẻ xâm lược đã chết rồi mà vẫn không thôi gây tội ác!
Lời bình ở cuối truyện cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa về khí tiết của kẻ sĩ chân chính: "Than ôi! Người ta thường nói:
"Cứng quá thì gãy". Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của Trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn là một chàng áo vải mà dám đốt đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ty, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi."
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 5
Người xưa từng răn dạy rằng "cây ngay không sợ chết đứng", "ở hiền thì gặp lành". Những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng vô cùng phong phú, Nguyễn Dữ đã viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Sự xuất hiện của Truyền kì mạn lục cùng với các tập truyện truyền kì khác như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)… đã mang đến cho văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam một bước phát triển mới, rất đáng tự hào. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể chuyện Ngô Tử Văn đốt đền, qua đó thể hiện những nội dung tư tưởng sâu sắc.
Sự xen lẫn các yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo đã mang đến cho truyện một sức hấp dẫn riêng. Ngô Tử Văn là nhân vật chính của tác phẩm, được tác giả giới thiệu theo cách kể chuyện quen thuộc của văn học trung đại, bao gồm tên tuổi, quê quán và tính cách. Tử Văn là người khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là một người cương phương. Tính tình cương trực của Tử Văn đã nổi tiếng cả vùng Bắc, và chính tính cách là mấu chốt của câu chuyện. Tử Văn đã dám làm việc mà mọi người đều kính sợ, không ai dám làm, đó là đốt đền. Theo quan niệm của dân gian, đốt đền là một chuyện động trời, là động đến thần thánh. Tử Văn cũng biết điều đó nhưng chàng không sợ. Hành động của Tử Văn xuất phát từ tính cách "vốn ghét sự gian tà". Chàng đốt đền bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã "hưng yêu tác quái", đã làm hại dân lành. Hành động này của Tử Văn khẳng định tính tình ngay thẳng và quyết tâm trừ gian tà của chàng. Để trừ gian tà, chàng đã dám làm việc động trời như vậy. Hành động của chàng không phải là hành động ngang ngược của một kẻ vô đạo. Tử Văn là người đọc sách thánh hiền nên chàng hiểu rõ việc mình làm, Tử Văn "tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền". Những hành động tiếp theo của Tử Văn đều chứng tỏ chàng là một người ngay thẳng, không chịu khuất phục tà gian. Trước những lời đe dọa của hồn ma tên tướng giặc, Tử Văn "vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên", trước không khí đáng sợ ở âm phủ, trước lời mắng chửi và đe dọa của Diêm vương, Tử Văn vẫn bình tĩnh khẳng định "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian". Tính tình cương trực đã giúp Tử Văn chiến thắng kẻ ác, chàng đã vạch trần được tội ác của hồn ma lưu vong, đã lấy lại được ngôi đền cho Thổ thần, và trở thành một viên quan phán sự ở Minh ti.
Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách. Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để dọa nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu. Sự nham hiểm của kẻ xâm lược, bản chất của kẻ cướp nước còn được thể hiện rõ hơn ở hành động và lời buộc tội Tử Văn trước Diêm Vương. Khi có nguy cơ bị vạch mặt thì hắn giở trò lấp liếm. Nếu như Tử Văn là đại diện của chính nghĩa, của lẽ phải, của tinh thần quật cường không chịu khuất phục trước uy quyền dù chàng chỉ là một hàn sĩ áo vải thì viên tướng giặc họ Thôi là điểm hội tụ bản chất xấu xa của kẻ xâm lược. Mặc dù truyện được viết từ thế kỉ XVI, khi văn xuôi tự sự Việt Nam chưa có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhân vật của truyện đã được xây dựng với những nét tính cách nhất quán và trở thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những loại người khác nhau. Qua hai nhân vật này tác giả đã thể hiện tư tưởng yêu nước sâu sắc: ca ngợi tinh thần yêu chính nghĩa của con người Việt Nam, vạch trần và phê phán bản chất xấu xa của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân khi về cõi âm vẫn xảo trá đê tiện.
Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kì là ẩn đằng sau những yếu tố kì ảo hoang đường, những yếu tố phi hiện thực là cái nhìn, quan điểm, thái độ của nhà văn về hiện thực. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tuy chủ yếu nói về chuyện thần thánh ma quỷ đầy vẻ hoang đường nhưng lại thể hiện những nội dung hiện thực rất rõ ràng. Nội dung hiện thực được thể hiện ở lai lịch của nhân vật, bối cảnh thời gian và không gian của câu chuyện. Chính những yếu tố này làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện, khiến cho câu chuyện đáng tin hơn. Ngô Tử Văn có tên tuổi, quê quán rõ ràng. Thời gian, tình tiết câu chuyện cũng rất cụ thể, "Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan…" đã trông thấy Tử Văn ngồi trên xe quan phán sự và "đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là "nhà quan phán sự"". Lai lịch của viên Thổ quan và tên tướng giặc họ Thôi cũng gắn với những yếu tố thực của lịch sử. Thổ công là người "làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây…", còn tên tướng giặc họ Thôi là "viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc", là viên bộ tướng của Mộc Thạnh…
Sử dụng xen kẽ các yếu tố hiện thực và các yếu tố hư cấu một cách tự nhiên với giọng kể khách quan đã tạo nên sức hấp dẫn rất riêng của truyện truyền kì, đồng thời làm toát lên giá trị hiện thực của tác phẩm.
Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm không mấy sáng sủa của hiện thực Việt Nam. Nhà Lê suy tàn, chính quyền rơi vào tay nhà Mạc nhưng cũng chẳng được bao lâu, nội chiến liên miên, xã hội xảy ra rất nhiều vấn đề. Và bóng dáng của xã hội ấy đã được thể hiện trong một số lời đối thoại của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa viên Thổ công với Tử Văn: "sao ngài không kiện… lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?". Thế kỉ XVI, đã có rất nhiều người có tài, có nhân cách, bất lực trước hiện thực mà chọn cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, trong đó có Nguyễn Dữ. Câu trả lời của viên Thổ quan không phải không có yếu tố hiện thực. "Trần sao âm vậy", cõi âm trong tác phẩm là cõi dương thời ấy: "Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả…". Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã phê phán được thói đời, những kẻ có chức, có quyền cấu kết với nhau để hại dân lành, người hiền. Lời nói của Diêm Vương cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa vạch trần sự dối trá của những kẻ cầm cân nảy mực, vừa thể hiện thái độ đối với giặc xâm lược: "Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao xiết được!". Những chi tiết nhỏ tưởng như vô tình đan cài vào câu chuyện nhưng lại chứa đựng giá trị hiện thực rất quan trọng. Đó chính là sự khéo léo và công phu của người kể chuyện. Sức hấp dẫn của câu chuyện còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy kịch tính. Những tình tiết của truyện được dẫn dắt khéo léo và tạo nên nhiều bất ngờ thú vị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, phát triển tình tiết… đều thể hiện một trình độ kể chuyện rất hiện đại, khéo léo, vượt xa trình độ văn xuôi trung đại.
Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công lí, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự ngự ở đền Tản Viên. Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể chuyện muốn khẳng định rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực. Đó cũng là ước muốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt trái của xã hội.
Giá trị của Truyền kì mạn lục là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi những giá trị đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thị Thiết, như Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm cách tốt đẹp của mình. Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống "ở hiền gặp lành".
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 6
Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Ông đã viết tập truyện chữ Hán nổi tiếng trong cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục - một tác phẩm được đánh giá là "thiên cổ kỳ bút". Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm.
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Lục là sách, mạn là ghi chép tản mạn, truyền kì là chuyện lạ kì lưu truyền trong dân gian. Truyền kì mạn lục là sách ghi chép lại những câu chuyện lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần. Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại. Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong số đó có tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể về Ngô Tử Văn - người vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Mọi người vẫn thường khen Văn là người cương trực. Ở làng Tử Văn sống trước có một ngôi đền linh ứng nhưng giờ đã thành ngôi đền có hồn của tên giặc xâm lược tử trận gần đó làm yêu quái trong dân gian. Trước sự việc ngôi đền bị uế tạp và yêu quái có thể làm hại dân, “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Sự khẳng khái, nóng nảy của Tử Văn đã dẫn đến một hành động dũng cảm vì dân trừ hại. Sự tức giận của Tử Văn không phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi người dân đang bị yêu quái quấy nhiễu. Vì thế mà việc làm của Tử Văn là đáng ca ngợi.
Sau khi đốt ngôi đền, Tử Văn ốm nặng rồi “thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành vế phía đông”. Lúc ở chốn âm cung, do chỉ nghe bên nguyên, Diêm Vương - vị quan tòa xử kiện - người cầm cán cân công lí – cũng đã có lúc tỏ ra mơ hồ. Khi đứng trước công đường Ngô Tử Văn càng tỏ ra mình là người có khí phách. Chàng không chỉ khẳng định: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian” mà còn dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà với lời lẽ “rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Từng bước, từng bước Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, cuối cùng đã hoàn toàn đánh gục tên tướng giặc.
Sau khi được minh oan ở minh ti, Tử Văn trở về nhà chưa được 1 tháng thì Thổ công đến bảo Tử Văn nên nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên. Thổ công nói: “người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau” và khuyên Văn nên nhận. Thế là Văn vui vẻ nhận lời. Việc được nhận chức ở đền Tản Viên đã nói lên thắng lợi của chàng trong cuộc đấu tranh với tên hung thần xảo quyệt. Sự thắng lợi này đã khẳng định chàng là người tốt, chính nghĩa, dám đấu tranh để thực hiện công lí. Con người của chính nghĩa đã được đứng ra để thực hiện công lý là một thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, tác giả đã vạch trần bộ mặt gian tà của không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Ngòi bút của Nguyễn Dữ không chỉ lên án một số quan lại mà còn tố cáo mạnh mẽ hiện thực “rễ ác mọc lan, khó lòng lay động” mà bênh vực cho kẻ gian tà. Trong câu nói buột miệng của Tử Văn “Sao mà nhiều thần quá vậy?” cũng cho ta thấy một hiện thực của xã hội phong kiến lúc bấy giờ: xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực, lợi dụng địa vị, quyền thế làm điều bất chính. Kết thúc có hậu của câu chuyện thể hiện đúng truyền thống nhân đạo của dân ta: chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Nguyễn Dữ đã kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. Câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cùng với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương. Nhưng chuyện lại có vẻ như rất thực bởi cách dẫn người khác, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc. Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. Yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Câu chuyện đề cao nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho tầng lớp trí thức nước Việt giàu tinh thần dân tộc, chuộng chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Truyện còn thể hiện niềm tin công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 7
Người xưa có câu: “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì sẽ gặp lành”. Thật đúng vậy, những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ gặp được những điều tốt đẹp, gặp dữ hóa lành. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn khẳng khái, cương nghị trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, qua đó thể hiện nhiều tư tưởng sâu sắc.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện hay, truyện tiêu biểu của Truyền kì mạn lục – một tác phẩm nối tiếng và để đời của Nguyễn Dữ. Cũng giống như những truyện khác trong “Truyền kì mạn lục”, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng chứa đựng nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo. Hồn ma tên tướng giặc ngoại xâm tử trận tác oai tác quái, làm hại dân lành. Khi bị Tử Văn đốt đền thì hắn hiện lên báo mộng, dọa dẫm và đòi đi kiện Diêm Vương. Tử Văn ốm rồi chết, xuống địa phủ chầu Diêm Vương. Quang cảnh thế giới âm phủ là một thế giới kì ảo và cảnh Diêm Vương vừa thật vừa không thật. Được Diêm Vương xử án xong, Ngô Tử Văn trở về dương thế, hai ngày sau lại mất, hồn đi nhận chức phán sự đền Tản Viên.
Bên cạnh những yếu tố hiện thực, những yếu tố hoang đường đã góp phần làm cho câu chuyện trở nên đặc sắc và hấp dẫn. Chính vì thế mà mặc dù biết là hư cấu nhưng người đọc vẫn không thể ngừng theo dõi diễn biến của câu chuyện được. Qua việc sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo, Nguyễn Dữ cũng nhằm thể hiện một ý tưởng nghệ thuật của mình, đó là: thế giới cõi âm cũng chính là sự phản chiếu bóng dáng cuộc đời thực. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vì thế đã trở thành một bức tranh hiện thực về một xã hội đen tối, ở đó những kẻ đại diện cho công lý lại chính là những kẻ bất lương, vô nhân đạo nhất. Truyện cũng còn ca ngợi con người dám đấu tranh đến cùng cho chính nghĩa qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn.
Tử Văn được giới thiệu là người “khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương”. Chính tính cách này của Tử Văn đã dẫn tới hành động đốt đền khi thấy bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã “làm yêu làm quái trong dân gian”, bao phen làm hại dân lành.
Hành động đốt đền đã khơi dậy một cuộc chiến quyết liệt giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc, mà thực chất đó chính là cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, giữa cái thiện và cái ác, giữa công bằng dân chủ và áp bức bất công. Hành động của Ngô Tử Văn cũng khẳng định tính tình cương trực, quyết đoán của chàng. Để trừ hại cho dân, chàng đã dám đốt đền – việc mà xưa nay chưa ai dám làm vì động chạm đến thần linh. Nhưng Tử Văn là người đọc sách thánh hiền, chàng hiểu rõ việc mình làm, cho nên trước khi đốt đền “tắm gội chay sạch, khấn trời” rồi mới “châm lửa đốt đền”.
Sự khẳng khái, cương trực của Tử Văn còn thể hiện qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Khi sống hắn là kẻ xâm lược nước ta, đến khi bỏ mạng ở nước Nam thì lại tranh miếu Thổ địa, vậy mà còn láo xược dám đến mắng mỏ, đe dọa Tử Văn. Trước sự ngang ngược trắng trợn của hồn ma tướng giặc, chàng không hề khiếp sợ mà vẫn “ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Điều đó càng chứng tỏ một khí phách cứng cỏi, một niềm tin vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Vì cảm kích hành động chính nghĩa của chàng mà Thổ thần đã đến dặn dò chàng, đồng thời nhận lời giúp đỡ nếu Tử Văn cần đến người làm chứng.
Bản lĩnh kiên định, chính nghĩa của Tử Văn được thể hiện rõ nhất trong khi chàng lôi xuống âm phủ và hầu kiện với Diêm Vương. Bị lũ quỷ sai nha lôi xuống địa phủ, đi qua những cảnh âm tào rùng rợn, nào quỷ dạ xoa, nào qua sông “gió tanh sóng xám”, hơi lạnh đến thấu xương nhưng Tử Văn không hề run sợ, không vì thế mà trở nên chùn nhụt, khúm núm. Ngay cả khi bị quy kết “tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”, Tử Văn không tâm phục, một mực kêu oan, đòi phải xét xử minh bạch. Khi đối diện với Diêm Vương uy quyền và trước những lèo lá tráo trợn của hồn ma tướng giặc, Tử Văn cũng không hề nao núng, ngược lại còn đanh thép vạch trần những tội ác của tên tướng giặc với những bằng chứng mà hắn không thể nào chối cãi. Vì sự chính nghĩa, chàng đã hết lòng đấu tranh và cuối cùng cũng đã chiến thắng được tên giặc hung ác, trả lại chức vị cho Thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân. Không những thế, vì có nhân cách cao đẹp mà Tử Văn còn được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn công lí.
Ngược lại với sự cương trực, ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, giảo hoạt của viên Bách hộ họ Thôi. Vốn là một tên tướng giặc bại trận bỏ thân nơi đất khách, hắn trở thành một hồn ma lưu vong, không người cúng tế. Nhưng ngay cả khi chết đi rồi thì bản chất xâm lược của hắn vẫn không hề mất đi. Hắn cướp ngôi đền của Thổ thần, tác oai tác quái làm hại dân lành nếu không cúng tế cho hắn. Khi bị Tử Văn đốt đền, hắn còn trịnh thượng đến dọa nạt, dùng lời lẽ đạo Nho kẻ sĩ để buộc tội. Thấy Tử Văn không hề run sợ, hắn có tìm đến tận Diêm Vương để nhờ trừng trị. Đây đích xác là một kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Khi có nguy cơ bị bại lộ thì hắn lấp liếm, ra vẻ từ bi độ lượng nhưng nhờ có Diêm Vương phán xét, kẻ gian trá như hắn đã bị trừng trị thích đáng. Nếu như Tử Văn là một hàn sĩ áo vải đại diện cho chính nghĩa và tinh thần đấu tranh vì lẽ phải thì hồn ma tên tướng giặc chính là đại diện cho kẻ xâm lược gian ác, xảo quyệt. Xây dựng hai nhân vật này, tác giả đã thể hiện tinh thần chính nghĩa của con người Việt Nam, đồng thời vạch trần và tố cáo bản chất xấu xa, bất lương của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân thì về cõi tào địa phủ cũng vẫn xảo trá, đê tiện.
Qua cuộc đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ chính nghĩa, trừ hại cho dân, hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong người đọc. Đó là một con người khẳng khái, chính trực, bản lĩnh vững vàng để bảo vệ công lý, chống lại cái xấu cái ác. Qua đây, tác giả cũng thể hiện niềm tin về sự chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh với cái xấu, cái ác đến cùng. Truyện cũng ngầm phản ánh xã hội thực tại với đầy rẫy những bất công, những quan tham thì nhận của đút, cái ác thì hoành hành, công lý thì bị che mắt. Tất cả những ý nghĩa nhân đạo, nhân văn này đã góp phần làm nên đặc sắc cũng như thành công cho tác phẩm.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 8
Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên là 1 trong những chuyện hay, tiêu biểu của Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện đã phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẻ sĩ, đồng thời phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả, mà nhân vật chính là Ngô Tử Văn một con người tính tình khẳng khái, trung trực.
Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận của nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chức phán sự ở đền Tản viên chỉ chọn 1 thời điểm có ý nghĩa nổi bật để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn, mở màn là sự xuất hiện của ngô Từ Văn với hành động châm lửa đốt đền thiêng. Hành động đó chính là ngòi nổ cho 1 cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lời đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chứng không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút,tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 9
Nguyễn Dữ là một nho sĩ thời Lê Sơ ông nổi tiếng với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” ngoài ra ông còn có rất nhiều tác phẩm hay tiêu biểu khác, những sáng tác của ông đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà.
Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng giống như bao nhiêu chuyện khác của “Truyền kỳ mạn lục” đều mang yếu tố huyền bí, hư ảo. Chính điều đó tạo ra sự hấp dẫn của chuyện và làm cho câu chuyện trở nên có tính lôgic.
Khi phân tích tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên người đọc thường quan tâm tới yếu tố kỳ ảo, huyền bí. Bởi câu chuyện mang nhiều yếu tố được tạo ra do trí tưởng tượng của con người là chủ yếu.
Câu chuyện xoay quanh một tên tướng giặc bị chết sau khi chết hắn biến thành con ma tác oai tác quái trong nhân gian. Sau khi đốt đền thờ hắn hiện lên và dọa dẫm Tử Văn. Rồi sau khi thần thổ công tới gặp nhân vật Tử Văn anh ta liền lăn ra ốm một thời gian sau thì chết. Sau khi chết hồn Tử Văn bị đưa tới âm phủ và tại đây hồn Tử Văn đã gặp được Diêm Vương. Sau khi chết được hai ngày thì phần xác của Tử Văn lại tự dưng sống lại nhưng do hồn anh đã bị giải xuống Diêm Vương nên anh sống mà bị mất hồn. Còn phần hồn sau khi được Diêm Vương phán xử đã được nhận chức “Phán sự đền Tản Viên”.
Chính yếu tố hoang đường, thần bí xen kẽ với những yếu tố hiện thực tạo thành chuyện vô cùng hấp dẫn người đọc, nhiều tình tiết kỳ thú, đan xen đã tạo nên cốt cách riêng của thể truyền kỳ. Cũng chính nhờ yếu tố hoang tưởng, hư cấu làm cho nhà văn có thể thoải mái phát huy tính tưởng tượng cũng như đòi hỏi sự công bằng mà trong đời sống hiện thực không làm được. Thông qua câu chuyện ta có thể thấy được thái độ quan điểm sống của nhà văn trong thời kỳ mà Nguyễn Dữ sống.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ tập trung vào cuộc đối đầu giữa một bên là anh chàng có tên Ngô Tử Văn vốn là người vô cùng thẳng tính, bộc trực, nóng nảy nên khi thấy điều gì gian ác, là không thể chịu được. Với một bên là hồn ma của một tên tướng giặc bị bại trận và giết chết nhưng do tâm tính của hắn quá tà ác nên sau khi chết hắn hóa thành yêu tinh, yêu quái nhũng nhiễu dân lành và quấy phá Ngô Tử Văn . Thực chất đây chính là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa phe chính nghĩa và phe tà ác.
Thể hiện quan niệm sống, tư tưởng nhân văn của tác giả Nguyễn Dữ là người luôn hướng tới điều thiện và mong muốn cho cái thiện sẽ thắng cái ác trong xã hội hiện thực.
Trong câu chuyện nhân vật của Ngô Tử Văn vô cùng đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu cái ác nhưng anh ta không hề nao núng. Trong hoàn cảnh nào anh ta cũng thể hiện niềm tin, tính khẳng khái của mình. Ngô Tử Văn là đại diện cho những người trí thức, trung thực, khẳng khái, luôn một lòng muốn xã hội được công bằng, giải quyết những oan khuất cho con người trong giai đoạn mà ông sống.
Trong những câu văn của mình Nguyễn Dữ đã dành nhiều sự ưu ái cho nhân vật Ngô Tử Văn điều này thể hiện quan niệm sống, sự đồng tình mạnh mẽ của ông trong cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác. Ông tin cái thiện luôn chiến thắng cái ác, sự chiến thắng của nhân vật Ngô Tử Văn thể hiện niềm tin của tác giả Nguyễn Dữ.
Đồng thời thể hiện khát vọng giành công lý, công bằng cho nhân dân của một con người có học thức, có tấm lòng nhân hậu. Còn tên tướng giặc đại diện cho quân xâm lược, đại diện cho cái ác. Sau khi chết hắn còn tác quái nhưng vẫn bị cái tốt, bị Ngô Tử Văn tiêu diệt thể hiện chân lý không dung tha cho những kẻ bất lương, không có tính người. Đồng thời qua đây tác giả Nguyễn Dữ muốn tố cáo xã hội, kêu gọi con người đoàn kết chống lại cái xấu tạo một xã hội công bằng, chính nghĩa.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 10
Nguyễn Dữ sống khoảng thế kỉ XVI, ông là người học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan trong một thời gian ngắn rồi lui về ở ẩn. Và cũng bắt đầu từ đó ông sưu tầm truyện dân gian và sáng tác. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập Truyền kì mạn lục, ngoài Chuyện người con gái Nam Xương đã được tiếp xúc từ cấp học dưới, thì trong tập truyện ấy cũng không thể không nhắc đến Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Tác phẩm xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn tính tình cương trực đã đi đốt đền của tên giặc đất Bắc. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện đốt đền thành tiên của Ngô Tử Văn mà nó còn có giá trị khái quát những vấn đề xã hội nóng bỏng, có ý nghĩa cho đến tận ngày nay. Mở đầu tác phẩm ông giới thiệu nhân vật: “Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được”, để cho nhận xét trở nên khách quan, ông còn dẫn lời nhận xét của những người cùng thời: “… vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”. Qua đó giúp tạo nên ấn tượng sâu sắc về nhân vật.
Để làm sáng tỏ những đặc điểm tính cách trên, nhân vật Ngô Tử Văn trực tiếp xuất hiện qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Sự kiện đầu tiên chính là việc Ngô Tử Văn đốt đền tên tướng giặc họ Thôi. Hắn là tướng giặc đời Minh, khi giao chiến với quân ta đã chết ở gần miếu của vị thổ công nước Việt, hắn liền chiếm lấy đền thờ thổ công, tác oai tác quái trong nhân gian. Điều đó làm Ngô Tử Văn vô cùng tức giận, Tử Văn tắm rửa sạch sẽ và đốt đền của hắn. Đây là một hành động dũng cảm: trong khi tất cả mọi người ai cũng lắc đầu, lè lưỡi, can ngăn, lo cho tính mạng Tử Văn thì chàng là người trong cuộc lại “vung tay không cần gì cả”. Vì đây là việc nghĩa nên không thể không làm. Tử Văn tin tưởng vào hành động chính nghĩa của mình.
Sau khi đốt đền Ngô Tử Văn lên sơn sốt, người mê mệt, đây cũng chính là lúc Ngô Tử Văn gặp hồn ma tên tướng giặc giả danh làm cư sĩ tìm đến. Dù hồn ma sử dụng những lời hăm dọa: “biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”. Nhưng Ngô Tử Văn không hề sợ hãi, nao núng tinh thần. Thái độ ung dung, thản nhiên, coi thường lời buộc tội và đe dọa của hồn ma cho thấy Tử Văn không phải là bất cần, liều lĩnh mà là thái độ tự tin của người nắm trong tay sức mạnh của chính nghĩa. Câu hỏi trước vị thổ thần “Liệu hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?” không phải là biểu hiện của sự hoang mang, sợ hãi mà là sự mưu trí, muốn biết rõ về kẻ thù để liệu kế đối phó mà giành chiến thắng.
Ngô Tử Văn nhất quyết không dựng lại đền cho hồn ma tướng giặc nên bị quỷ sứ đến bắt đi trong đêm, khi bị giải đi Tử Văn kêu oan để đòi được xử công bằng. Diêm Vương tưởng Tử Văn có tội đã dùng uy lực của kẻ bề trên để quát mắng, đe dọa, buộc tội Tử Văn. Trước Diêm Vương, Tử Văn vẫn rất cứng cỏi tâu trình, kể lại đầu đuôi sự việc, lời nói không chịu nhún nhường chút nào. Trước những lời lẽ đanh thép, lí lẽ đầy thuyết phục của Tử Văn, Diêm Vương đã cho người đi xem xét và Tử Văn đã lấy lại được công bằng. Qua đây cho thấy sự hiên ngang, dũng cảm, khát vọng đẹp đẽ muốn thực thi công lí của Tử Văn. Và Tử Văn đã được đền bù xứng đáng, được Thổ thần tiến cử giữ chức phán sự đền Tản Viên. Qua chi tiết này, Nguyễn Dữ muốn khẳng định triết lí "Ở hiền gặp lành" của nhân dân ta.
Đằng sau nhân vật Ngô Tử Văn, ta còn thấy Nguyễn Dữ dựng lên bức tranh hiện thực xã hội với thái độ phê phán sâu sắc của tác giả. Tác phẩm mượn bối cảnh của xã hội thế kỉ XV nhưng thực chất tác giả muốn phơi bày hiện thực xã hội mà ông đang sống – đầu thế kỉ XVI với đầy những bất công ngang trái: tên hung thần đã cướp đền miếu, giả mạo tên họ của vị Thổ thần nước Việt, hắn được hưởng tất cả quyền lợi của vị Thổ thần, nhưng tác yêu tác quái trong dân gian, đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn khổ. Người lương thiện: vị Thổ thần làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lý Nam Đế, chết vì việc cần vương, giúp dân đã hơn nghìn năm nay, nhưng bị đánh đuổi nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm. Tử Văn chính vì cương trực thẳng thắn, thấy sự tà gian không thể để yên nên đã bị đẩy xuống âm phủ “Tội sao ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”. Thánh thần ăn của đút để bênh vực cho kẻ ác: Đền miếu đều tham của đút, bênh vực cho hung thần nên dẫu Thổ công có đi kiện cũng sẽ thua. Dưới âm ti Diêm Vương và các phán quan đại diện cho công lí bị lấp tai, che mắt, bị tên tướng giặc lừa phỉnh, thiếu chút nữa đã xử oan cho người chính trực.
Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo hồn ma tên tướng giặc bại trận: tham lam, quỷ quyệt, hung ác: Khi sống, là tướng giặc cướp nước, khi chết, hồn ma vất vưởng ở nước Nam vẫn không từ bỏ giã tâm xâm lược, đã chiếm đền miếu, giả danh lương thần nước Việt. Khi Tử Văn châm lửa đốt đền đã tìm đến, dùng nguyên lí đạo nho để kết tội, dùng oai linh thánh thần để hăm dọa. Tác phẩm sử dụng yếu tố thần kì tăng cường sức hấp dẫn cho tác phẩm. Cốt truyện giàu kịch tính được sắp xếp hợp lí. Nghệ thuật kể chuyện đạt đến một trình độ mới. Qua đó khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
Với tác phẩm này Nguyễn Dữ đã lên tiếng, khẳng định, đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn – một trí thức nước Việt. Đồng thời thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa nhất định thắng gian tà và triết lí "Ở hiền gặp lành" của dân tộc ta.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 11
Chuyện chức phán sự ở đền Tàn Viên là 1 trong những chuyện hay, tiêu biểu của Truyền kỳ mạn lục. Câu chuyện đã phê phán hiện thực xã hội và đề cao phẩm chất kẽ sĩ, đồng thơi phản ánh khá rõ tinh thần dân tộc của tác giả, mà nhân vật chính là Ngô Tử Văn một con người tính tình khảng kháng, trung trực.
Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận của nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chúc phán sự ở đền Tản viên chỉ chọn 1 thời điểm có ý nghĩa nổi bật để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn, mở màn là sự xuất hiện của ngô Từ Văn với hành động châm lửa đốt đền thiêng. Hành độn đó chính là ngòi nổ cho 1 cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lới đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.
Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuất, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác. Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút, tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 12
Nguyễn Dữ là một nhà Nho sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha đỗ Tiến sĩ vào thời vua Lê Thánh Tông. Bản thân Nguyễn Dữ cũng đã đi thi và ra làm quan nhưng chỉ được gần một năm thì lui về ở ẩn. Ông đã để lại cho đời tác phẩm nổi tiếng là Truyền kì mạn lục, nội dung ghi chép lại những giai thoại, huyền thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ thời Lí cho đến thời Lê sơ. Đằng sau các yếu tố hoang đường, kì ảo chính là hiện thực của xã hội phong kiến với đầy rẫy các tệ nạn mà tác giả muốn phơi bày và lên án. Tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, trong đó có Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là nổi bật hơn cả.
Bối cảnh của Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là thời kì giặc Minh đang chiếm đóng nước ta, nhưng tác giả viết lại chuyện này vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI, khi chế độ phong kiến đang suy thoái và đầy mâu thuẫn. Nội chiến Lê - Mạc bắt đầu xảy ra, do vậy mà các thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện cũng phần nào phản ánh các thế lực cường quyền phong kiến chia bè kết phái, hãm hại dân lành.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của Ngô Tử Văn, một trí thức nước Việt; thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà, đồng thời lên án lũ giặc xâm lược dù đã chết vẫn không thôi gây tội ác.
Ngô Tử Văn - một Nho sĩ trong vùng - đã châm lửa đốt đền của một tên hung thần vốn là tướng giặc xâm lược để trừ hại cho dân. Hồn ma tên tướng giặc họ Thôi giả làm cư sĩ đến đòi Tử Văn dựng trả ngôi đền và doạ sẽ kiện tới Diêm Vương. Thổ Công báo mộng cho Tử Văn biết sự thật về tung tích và tội ác của hắn, đồng thời chỉ dẫn cách đối phó. Ngô Tử Văn bị quỷ sứ bắt xuống âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã dũng cảm tố cáo tội ác của tên hung thần cướp đền với đầy đủ chứng cớ. Cuối cùng, công lí được thực hiện, kẻ ác bị trừng trị. Thổ công được dân chúng xây cho ngôi đền mới. Tử Văn sống lại và được Thổ công tiến cử Chức phán sự đền Tản Viên.
Nhân vật Tử Văn được tác giả giới thiệu theo phương pháp truyền thống trong văn học cổ, bao gồm tên tuổi, quê quán, tính tình: Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực.
Cũng vì thế mà Tử Văn không thể làm ngơ trước sự việc xảy ra ngay trước mắt: Ngôi miếu thờ Thổ công của lăng vốn linh thiêng bỗng nhiên bị hồn của một tên tướng giặc phương Bắc bại trận cướp lấy. Hồn ma ấy tác oai tác quái làm cho dân chúng trong vùng khốn khổ. Tử Văn vô cùng tức giận. Một hôm chàng tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Sự kiện này cho thấy Tử Văn tin vào hành động chính nghĩa của mình, lấy lòng trong sạch cùng thái độ chân thành mong được trời ủng hộ. Như vậy hành động đốt đền của Tử Văn xuất phát từ một mục đích tốt đẹp. Lúc ấy, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn nhưng chàng vẫn vung tay, không cần gì cả. Bởi Tử Văn nghĩ rằng hành động của mình là hợp đạo trời, được lòng người nên rất cương quyết, tự tin, không mảy may kinh hãi. Chàng đốt đền khiến cho hồn ma tên tướng giặc không còn chỗ trú ẩn để hoành hành, nhũng nhiễu. Hành động của chàng là hành động tiêu diệt kẻ gian tà, trừ hoạ cho dân nên xứng đáng với tính cách cứng cỏi của một bậc chính nhân quân tử. Hành động đó đã mang kịch tính cao độ ngay từ đầu nên câu chuyện về Tử Văn có sức cuốn hút rất mạnh.
Điều đặc biệt là kẻ ác kia không phải là một con người bằng xương bằng thịt mà lại là một hồn ma vô ảnh, vô hình nhưng rất đáng sợ bởi vì nó thuộc về thế giới thần linh, chỗ dựa của giai cấp thống trị từ xưa tới nay.
Sau đó, tác giả kể về cuộc đối mặt lần thứ nhất giữa Tử Văn và hồn ma tên tưởng giặc họ Thôi: Đốt đền xong, chàng về nhà, thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô cao lớn, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng và quần áo rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại ngôi đền như cũ...
Hồn ma tên tướng giặc uy hiếp Tử Văn bằng dáng vẻ uy nghi, bằng giọng điệu vừa tỏ ra là bậc trí thức đầy hiểu biết, vừa đe doạ : Nhà người đã theo nghiệp Nho, đọc sách vở của Thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn huỷ tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ huỷ đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.
Ngô Tử Văn khí phách cứng cỏi, vẫn ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Hồn ma tên tướng giặc tiếp tục đe doạ Tử Văn ở mức độ gay gắt hơn: Phong độ không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà người đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết. Có nghĩa là hắn sẽ bắt Tử Văn phải chết và sẽ kiện chàng về tội đốt đền trước Diêm Vương.
Ở đoạn này, sự tương phản giữa hai nhân vật chính - tà được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ và sinh động. Những chi tiết về ngoại hình của Tử Văn không được nhắc đến, còn hồn ma tên tướng giặc lại được tả cụ thể: khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ uy nghi, nói năng thì đâu ra đấy. Lí lẽ của hắn lấy từ sách vở thánh hiền và lấy cả từ cung cách nói năng của người trần gian. Trong khi đó, Tử Văn chỉ một mực điềm nhiên, không thèm đối đáp với hắn một câu. Tưởng chừng như hồn ma tên tướng giặc hoàn toàn giành thế chủ động và hắn đã dồn được Tử Văn vào thế của kẻ bị động, thua cuộc. Thực ra, đây là chỗ tác giả cố ý để cho cái ác hoành hành, cái thiện tạm thời bị lấn lướt, vì thế mà câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn.
Tuy nhiên, bộ mặt thật của hồn ma tên tướng giặc đã bị Thổ công báo mộng cho Tử Văn biết: Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược. Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu... Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay.
Như thế là Tử Văn đã có được nhân chứng quan trọng cũng chính là nạn nhân của kẻ cướp đền, mạo danh. Chàng trách Thổ công nhu nhược, không dám kiện hắn trước Diêm Vương và Thượng đế, mà lại chấp nhận từ bỏ chức vị, đi lánh nạn ở nơi khác. Lời Tử Văn như động đúng vào nỗi khổ tâm của Thổ công: Rễ ác mộc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở : Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Quả là tài tình! Nguyễn Dữ dã mượn chuyện hoang đường của thế giới thần thánh, ma quỷ để phơi bày thực trạng xã hội phong kiến thối nát đương thời. Bọn quan lại tham lam nhũng nhiễu ngang nhiên vơ vét, đục khoét, ăn hối lộ, dung túng, bao che cho kẻ ác, kẻ xấu lộng hành, gây ra bao nỗi oan trái, khổ sở cho dân lành. Tuy thế vẫn có những người dũng cảm như Tử Văn dám đương đầu chống lại chúng.
Thổ công mách nhỏ là hồn ma tên tướng giặc quyết chống chọi với chàng và đang kiện chàng dưới Minh ti (Âm phủ). Đồng thời chỉ rõ cho Tử Văn cách kết tội hắn: Hễ ở Minh ti có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối, thầy kêu xin tự giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.
Thái độ của Thổ công đối với kẻ cướp là thái độ căm giận nhưng sợ hãi và bất lực, khiến cho Tử Văn phần nào nao núng, nghi ngại: Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không? Vì cứ theo lời Thổ công thì hồn ma tên tướng giặc kia kết bè kết cánh để tác oai tác quái, còn chàng thì chỉ có một mình với tấm lòng trung thực, nghĩa khí mà thôi. Cái hiểm hoạ mà Thổ công vạch ra rất có thể sẽ xảy đến ngay trước mắt cho cả hai người.
Tình thế của Tử Văn ngày càng nguy hiểm. Hồn ma tên tướng giặc kiện chàng dưới Âm phủ thật. Hắn quyết bẻ gãy ý chí của chàng trước mặt Diêm Vương để giành phần thắng về mình. Xuống đến cõi âm, Tử Văn bị coi như kẻ tội đồ mà chưa cần xét xử gì cả: Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm. Chàng bị xua đuổi, buộc phải đi ra phía Bắc : Ở đó có một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn bước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác. Hai con quỷ dùng gông dài, thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh.
Đến trước điện Minh ti, chàng đã thấy hồn ma tên tướng giặc phủ phục quỳ lạy, kêu cầu. Không hiểu hắn nói gì mà Diêm Vương một mực bênh vực hắn và kết tội Tử Văn: Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?
Thì ra hắn đã mạo danh Thổ công. Thổ công vốn làm tới chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lê Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã hơn một nghìn năm nay.
Diêm Vương kết tội Tử Văn càng lúc càng gắt gao mà không cho chàng được thanh minh. Phần thắng xem ra đã nghiêng về phía tên kẻ cướp gian xảo và điêu trá kia. Nhưng chàng dễ gì bị khuất phục. Lúc bị quỷ sứ gông cổ lôi đi, chàng la lớn: Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.
Thấy Diêm Vương bênh vực hồn ma tên tướng giặc, Tử Văn với bản lĩnh cương trực, quyết không tha kẻ gian tà. Chàng tung đòn tấn công thứ nhất: tố cáo trước Diêm Vương lai lịch đen tối, giả mạo của hắn theo đúng lời Thổ công đã báo mộng cho chàng biết. Sau đó, chàng còn cứng cỏi khẳng định rằng Diêm Vương muốn biết rõ xin cứ cho người đến đền Tản Viên để xác minh hư thực.
Kẻ gian biết là Tử Văn đã nắm đúng chỗ yếu của hắn nên không cãi, nhưng lại ranh mãnh biến ngay thái độ cứng cỏi của chàng thành cái tội vô lễ: Ấy là trước Vương phủ mà hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa.
Lời qua tiếng lại gay gắt giữa hai bên khiến Diêm Vương sinh nghi. Tử Văn vẫn khăng khăng: Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn.
Biết không thể nào uy hiếp được Tử Văn, hồn ma tên tướng giặc tỏ vẻ lo sợ nhưng vẫn cố giữ giọng điệu của kẻ bề trên, sẵn sàng tha thứ cho đối phương: Gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh.
Nhưng Diêm Vương đã nhanh chóng nhận ra ai đúng, ai sai, liền quát lớn: Cứ như lời hắn (tức Tử Văn) thì nhà người đáng tội chết. Điều luật trị tội đã sẵn sàng đó. Cớ sao nhà ngươi dám làm sự lập lờ nhận tội như vậy? Rồi lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Mọi chuyện đều đúng như lời Tử Văn đã khai, Diêm Vương giận dữ trách mắng các phán quan không giữ được chí công vô tư, để cho điều dối trá càn bậy xảy ra. Sau đó truyền lệnh lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng kẻ lừa đảo, gian ác rồi sai bỏ vào ngục Cửu U tức là ngục tối chín tầng ở âm phủ, nơi giam giữ và trừng phạt những kẻ khi còn sống gây nhiều tội ác!
Cuối cùng thì Tử Văn đã thắng. Chính nghĩa thắng gian tà. Đó cũng là ước mơ công lí ngàn đời của nhân dân.
Kết thúc câu chuyện rất có hậu: Tử Văn sống lại, Thổ công được dân làng xây cho một ngôi đền mới. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy. Thật đáng đời cho kẻ xâm lược đã chết rồi mà vẫn không thôi gây tội ác.
Để đền ơn Tử Văn đã giúp mình trở về ngôi đền cũ, Thổ công tiến cử chàng vào chức phán sự (chức quan xử án) ở đền Tản Viên và đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng... Tử Văn vui vẻ nhận lời, bèn thu xếp việc nhà, rồi không bệnh mà mất. Những xung đột gay gắt đến đây cũng đã chấm dứt, nhưng tác giả muốn kéo dài câu chuyện bằng một đoạn vĩ thanh tốt đẹp: Năm Giáp Ngọ, có người thành Đông Quan, vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe tiếng quát:
- Người đi đường tránh xa, xe quan phán sự!
Người ấy ngẩng đầu trông thì thấy người ngồi trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà biến mất. Đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là nhà quan Phán sự.
Tử Văn đi nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên là để tiếp tục phát huy đức tính khẳng khái, cương nghị của mình và để không phụ lòng tri ân của Thổ công. Hình ảnh đẹp đẽ của Tử Văn ở cuối truyện làm tăng thêm ý nghĩa lãng mạn, khiến dư âm của truyện ngân vang mãi trong lòng người đọc. Người tốt được tôn vinh, kẻ xấu bị trừng trị. Người có tính cách cương trực như Tử Văn xứng đáng được trọng dụng. Tử Văn chết nhưng còn lưu tiếng tốt về sau.
Lời bình ở cuối truyện cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa về khí tiết của kẻ sĩ chân chính: Than ôi! Người ta thường nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm?
Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Nguyễn Dữ đã mượn lời bình trên để một lần nữa khẳng định cốt cách hiên ngang, tiết tháo trong sạch của những bậc chính nhân quân tử : Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không làm cho sa đoạ, nghèo khó không làm cho đổi thay, bạo lực cường quyền không thể khuất phục).
Lời bình đề cao tính cách cương trực, quyết đoán của Ngô Tử Văn ; đó cũng là bản lĩnh của kẻ sĩ ; đồng thời là tư tưởng chủ đề của truyện. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, chúng ta càng thấy rõ hơn ý nghĩa tích cực, tiến bộ trong quan niệm của Nguyễn Dữ.
Bên cạnh việc đan xen yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực trong từng chi tiết, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên còn hấp dẫn nhờ sự tổng hoà các phương diện nghệ thuật, từ phương pháp xây dựng tính cách nhân vật, cốt truyện đến bố cục, tình tiết... Cốt truyện giống như một vở kịch ngắn nhưng giàu kịch tính: có mở đầu, xung đột, phát triển, kết thúc. Diễn biến của kịch có thứ tự lớp lang, tính cách của các nhân vật được khắc hoạ nổi bật: Tử Văn cương trực, thẳng thắn ; hồn ma tên tướng giặc họ Thôi xảo quyệt, thâm hiểm. Việc khắc hoạ tính cách của từng nhân vật gắn liền với sự phát triển của cốt truyện, mức độ căng thẳng của kịch tính phù hợp và nhất quán với hai tuyến nhân vật chính nghĩa và phi nghĩa.
Trong truyện, các tình tiết được thể hiện hết sức công phu, giàu tính biểu tượng; đồng thời nhiều chi tiết quan trọng được đan cài rất tự nhiên nhưng hàm súc về mặt ý nghĩa. Chính vì vậy, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên vào loại tác phẩm hay nhất, có giá trị cao nhất trong Truyền kì mạn lục - áng “thiên cổ kì bút” trong văn chương nước ta thời trung đại.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 13
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện xuất sắc nhất trong tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Sự thành công của tác phẩm không chỉ đến ở nội dung phong phú, hấp dẫn, giá trị nhiều mặt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc.
Nét nghệ thuật đầu tiên của truyện chính là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và kì ảo. Để tạo ra tính chân thật cho tác phẩm tác giả đã giới thiệu nhân vật và sự việc cụ thể, ngay cả thời gian và địa điểm cũng đưa ra một cách chính xác: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang” “Năm giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm,….”. Những yếu tố hiện thực này sẽ khiến cho câu chuyện trở nên chân thực, tạo lòng tin nơi người đọc.
Nhưng để tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, tác giả đã có sự đan xen, kết hợp hết sức hài hòa với những yếu tố kì ảo. Theo bước chân của nhân vật chính Ngô Tử Văn người đọc được gặp hồn ma của tên Bách hộ họ Thôi để thấy được sự xảo trá của hắn, đe dọa hòng làm Ngô Tử Văn lung lay ý chí. Không chỉ vậy, người đọc còn được xuống cõi âm ti âm u, tăm tối, cây cầu dài hơn nghìn thước được bắc qua một con sông lớn mà “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”. Cả một thế giới ma quỷ mà ta thường chỉ biết đến qua tưởng tượng hiện ra trước mắt người đọc: “mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh, tóc đỏ, hình dáng nanh ác”; cung điện của Diêm Vương thăm thẳm với những bóng quỷ, hồn ma. Thế giới huyền ảo được miêu tả hết sức chi tiết, sinh động, làm ai nấy đọc cũng không khỏi rùng mình, sợ hãi. Hai yếu tố hiện thực và kì ảo đan cài với nhau trong đó yếu tố kì ảo là nghệ thuật giúp cho câu chuyện thêm phần sinh động, hấp dẫn. Đồng thời cũng phản ánh đúng tinh thần chung của Nguyễn Dữ trong cuốn Truyền kì mạn lục là lấy cái “gì” để nói cái “thực”.
Kết cấu của truyện cũng là một nét đặc sắc không thể không nhắc đến. Truyện có kết cấu li kì, nhiều chi tiết vô cùng hấp dẫn. Kết cấu tác phẩm như một màn xung đột kịch, có mở đầu, có thắt nút, cao trào và có kết thúc. Lớp lang các phần gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ, đỉnh điểm là sự kiện khi Diêm Vương phán xét tội lỗi của Tử Văn khi chỉ nghe câu chuyện từ một phía, nhưng ngay sau đó, tình thế căng thẳng đã được giải quyết, Tử Văn trình bày sự việc và được Diêm Vương cử người đi điều tra. Tên Bách hộ họ Thôi gian dối đã bị vạch trần bộ mặt gian xảo, độc ác và bị trừng trị thích đáng. Còn về phần Tử Văn cũng nhận được phần thưởng xứng đáng cho tính cách bộc trực, thẳng thắn ghét tà gian của mình. Kết thúc theo lối có hậu là kết thúc phố biến trong truyện truyền thống.
Tính cách các nhân vật cũng được chú trọng xây dựng, họ có tính cách vô cùng sinh động, mỗi nhân vật thường đại diện cho một kiểu người trong xã hội. Tử Văn mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ của một bậc quân tử: cương trực, thẳng thắn, không chấp nhận sự phi nghĩa hoành hành, dám làm dám chịu. Tính cách của Ngô Tử Văn tiêu biểu cho kiểu nhân vật chính nghĩa, hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người. Để làm nổi bật tính cách của nhân vật, Nguyễn Dữ đã lựa chọn tình huống hết sức tiêu biểu: Tử Văn đốt đền tên Bách hộ họ Thôi vì hắn nhũng nhiễu trong nhân gian, làm cuộc sống người dân cực khổ. Hành động này đối với những người khác là vô cùng liều lĩnh bởi vậy ai cũng lắc đầu sợ hãi, riêng Tử Văn “vẫn vung tay không cần gì cả” điều đó cho thấy thái độ dứt khoát và quả cảm của Ngô Tử Văn. Hành động của Tử Văn không phải là một sự liều lĩnh, bột phát mà đã có sự chuẩn bị từ trước, trước khi đốt đền Tử Văn đã “tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền”, Tử Văn ý thức được hành động của mình là chính nghĩa nên chàng không hề sợ hãi. Khi gặp tên tướng giặc, bị hồn ma hắn thị uy, dọa nạt, Tử Văn “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng, tự nhiên” không nao núng tinh thần. Đứng trước Diêm Vương, bị Diêm Vương quát mắng, Tử Văn vẫn vô cùng bản lĩnh, tự tin trình bày vấn đề “lời rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Toàn bộ ngôn ngữ, hành động thống nhất với nhau chặt chẽ để minh chứng cho nhận định ban đầu của Nguyễn Dữ khi giới thiệu về nhân vật: “Chàng vốn khẳng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”.
Ngoài ra, để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm còn phải kể đến ngôn ngữ nhân vật. Mặc dù ngôn ngữ trong tác phẩm không được xây dựng quá nhiều nhưng nó cũng đã phần nào giúp khắc họa tính cách nhân vật. Ví dụ như nhân vật Ngô Tử Văn cương trực thẳng thắn thì ngôn ngữ sẽ: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”. Ngô Tử Văn nói ngay sau khi bị bọn quỷ Dạ Xoa đến bắt đi, không gian vô cùng lạnh lẽo, sợ hãi, nếu là người bình thường có lẽ đã không đủ can đảm để nói bất cứ điều gì. Riêng Tử Văn vẫn bình tĩnh kêu oan, lời nói đó cho thấy sự bình tĩnh và tinh thần quyết đấu tranh cho lẽ phải của Tử Văn.
Các yếu tố nghệ thuật trên đã được Nguyễn Dữ kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm. Qua đây ta cũng có thể thấy được tài năng bậc thầy của Nguyễn Dữ trong nghệ thuật dựng truyện nói chung.
Nghị luận về tác phẩm Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 14
Văn học trung đại là một bộ phận không thể thiếu trong dòng chảy văn học Việt Nam. Với những nét đặc sắc riêng, văn học trung đại khắc họa xã hội Việt Nam xưa một cách rõ nét qua những bài thơ, những câu chuyện kể. Trong đó, Nguyễn Dữ là một tác giả tiêu biểu, được biết đến qua tác phẩm Truyền kì mạn lục. Trong số 20 câu chuyện trong tác phẩm này, sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc đến Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Lục là sách, mạn là ghi chép tản mạn, truyền kì là chuyện lạ kì lưu truyền trong dân gian. Truyền kì mạn lục là sách ghi chép lại những mẩu chuyện lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần.
Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại.
Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong số đó có tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là câu chuyện kể xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn - một người tri thức trong xã hội xưa. Mở đầu tác phẩm chính là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy khái quát của tác giả về nhân vật này. Theo lời giới thiệu của tác giả “Ngô Tử Văn tên thật là Soạn”, quê quán của Văn chính là ở “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Đồng thời, trong lời giới thiệu của mình, tác giả cũng đã cho người đọc thấy được tính cách của nhân vật, đó là một con người cương trực, “khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được”. Như vậy, có thể thấy, trong phần mở đầu của tác phẩm, tác giả đã giới thiệu rất ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng tên tuổi, quê quán và tính cách của nhân vật Ngô Tử Văn. Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn, súc tích của tác giả vừa là sự khẳng định gây chú ý cho người đọc, lại vừa thể hiện sự ngợi khen, ngợi ca trước tính cách, phẩm chất của Ngô Tử Văn, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động có phần ngang ngược của chàng sau này.
Trong phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả đã tập trung làm bật nổi tính cách của nhân vật và trước hơn hết thể hiện qua hành động đốt đền tà. Hành động đốt đền đã khẳng định rõ được những tính cách trên. Khi tên tướng giặc họ Thôi kia đánh bại Thổ công của ngôi đền và chiếm giữ ngôi đền, hắn đã đút lót những thần miếu bên cạnh, bịt miệng họ để hắn có thể tác oai, tác quái ở ngôi làng của Ngô Tử Văn, mọi người trong làng không dám chống cự họ đành để cho tên giặc kia hoành hành phá phách. Bởi vậy, Ngô Tử Văn quyết định đốt đền tên tướng giặc ấy.
Hành động đốt đền của chàng đã diễn ra thật trang trọng và đầy quyết liệt “chàng tắm gội, khẩn trời rồi châm lửa đốt đền”. Có thể thấy, hành động đốt đền của Ngô Tử Văn không phải là hành động mang tính chất tự phát mà đó là hành động làm theo lẽ phải, phù hợp với suy nghĩ, với thế giới tâm linh của người Việt. Ngọn lửa được Ngô Tử Văn châm lên để đốt đền chính là ngọn lửa lí tưởng cao đẹp của người trí thức, ngọn lửa của chính nghĩa, của lòng căm hờn và chính ngọn lửa ấy đã thiêu rụi, đã đốt cháy cái ác, cái xấu xa, thắp lên tinh thần đấu tranh để bảo vệ lẽ phải. Ngô Tử Văn đã đốt đền, diệt đi cái ác, cái xấu, làm hại đến nhân dân, đó là một hành động cương trực, nghĩa khí và qua đó cho thấy Ngô Tử Văn là người cương trực, yêu chính nghĩa.
Những tưởng đốt xong là hết, nhưng không, “đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Trong cơn mơ màng, chàng gặp một người “khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ”.
Kẻ giống cư sĩ kia, tưởng rằng nói năng phải kính trên nhường dưới, biết trước biết sau thế nhưng lời nói lại chẳng giống như vẻ bề ngoài, hắn nói năng với đầy lời mắng mỏ, đe dọa, đòi Tử Văn phải trả lại đền “biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ”, “Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết”. Hồn ma tên tướng giặc kia ngoại hình thì sáng lạn, nói lời đầy đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ ranh ma, xảo quyệt, tham lam, độc ác, xảo trá.
Trước lời đe dọa của hắn, Ngô Tử Văn vẫn “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Tác giả đã để cho nhân vật im lặng như một cách để nhân vật tự kiểm chứng lại hành động của mình nhưng đồng thời qua đó cũng để cho hồn ma tướng giặc tự diễn biến, thể hiện được bộ mặt, bản chất của chính mình. Khi gặp Thổ thần đất Việt, trái ngược hoàn toàn với lúc đối mặt với hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn nói năng linh hoạt và rất cởi mở. Ngô Tử Văn đã hỏi Thổ thần rất nhiều điều và chính trong cuộc trò chuyện ấy với Thổ thần, Thổ thần đã kể cho Ngô Tử Văn toàn bộ câu chuyện mình đã bị hại, sự xảo trá của hồn ma tướng giặc và đồng thời cũng chỉ cho Tử Văn cách để đối phó lại với hồn ma. Như vậy, có thể thấy, Ngô Tử Văn trong màn đối chất đã thể hiện được bản lĩnh, tinh thần chủ động, sự tự tin của mình.
Sau lần gặp gỡ với hồn ma và Thổ thần trong cơn sốt, về đêm, bệnh tình của Tử Văn ngày càng nặng thêm và rồi chàng bị hai con quỷ dẫn xuống âm phủ. Minh ty dưới địa ngục là một nơi đáng sợ tới ghê rợn, ai bước xuống cũng không khỏi khiếp hoảng khi “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, “hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác”. Thế nhưng, Tử Văn đâu phải người thường, đến đền chàng còn dám đốt, vậy nên những nơi như thế chẳng làm chàng khiếp sợ mà còn khiến chàng cứng cỏi hơn bội phần. Chàng không hề nao núng mà kêu to, bày tỏ sự oan uổng của mình để được vời vào điện mà đối chất với tên tướng giặc và Diêm vương. Ngô Tử Văn đã cương trực kêu oan “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”, đồng thời chàng cũng đã giữ thái độ bình tĩnh, tâu lại đầu đuôi câu chuyện như lời Thổ công đã căn dặn chàng. Có thể thấy, màn xử kiện đã diễn ra vô cùng gay go, quyết liệt, “hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái”. Đến cuối cùng, Ngô Tử Văn đã đưa ra bằng chứng “tư giấy ở đền Tản Viên” và chàng cũng cam kết nếu những lời mình nói không đúng với sự thật thì sẽ chịu thêm tội nói càn. Trước những lí lẽ, bằng chứng mà Ngô Tử Văn đã đưa ra, cuối cùng, phần thắng của buổi xử kiện đã thuộc về chàng.
Cuộc tranh đấu dưới Minh ty đã bộc lộ được khí phách của một kẻ sĩ, với sự can đảm, cứng cỏi và thông minh đã buộc tên tướng giặc xảo trá phải nhận hình phạt thích đáng cho tội lỗi của mình. Với những chi tiết li kì, huyền ảo, Nguyễn Dữ đã lồng vào câu chuyện mơ ước ngàn đời của nhân dân ta, đó là có được công bằng trong xã hội.
Câu chuyện khép lại khi Thổ thần trở lại cảm ơn Tử Văn vì sự giúp đỡ của chàng. Để trả ơn chàng, ông đã xin với Đức Thánh Tản cho chàng được nhận chức phán sự tại đền. Tử Văn đã vui vẻ nhận lời rồi “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”. Đây là một món quà, một phần thưởng to lớn cho hành động trượng nghĩa của chàng, cho sự khẳng khái, cương trực, gan dạ, thông minh của chàng văn sĩ họ Ngô.
Với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn cùng những chi tiết tưởng tượng kì ảo, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được Nguyễn Dữ viết nên nhằm đề cao tinh thần cương trực, yêu chính nghĩa, luôn sẵn sàng đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu của những người tri thức Việt Nam. Đồng thời, qua đó gửi gắm ước mơ, niềm tin vào công lý của nhân dân.
Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Vợ nhặt
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Chữ người tử tù
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Người cầm quyền khôi phục uy quyền
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Dưới bóng hoàng lan
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Một truyện đùa nho nh
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC VIETJACK
- Người đại diện: Nguyễn Thanh Tuyền
- Số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0108307822, ngày cấp: 04/06/2018, nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
2021 © All Rights Reserved.