TOP 10 mẫu Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương hay, ngắn gọn (Cánh diều 2024)

224

Toptailieu.vn xin giới thiệu TOP 10 mẫu Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương hay, ngắn gọn (Cánh diều 2024) giúp học sinh lớp 8 nắm được trọng tâm văn bản Vịnh khoa thi Hương từ đó học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:

TOP 10 mẫu Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương hay, ngắn gọn (Cánh diều 2024)

Video bài giảng Vịnh khoa thi Hương (Cánh diều)

Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương

Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương - mẫu 1

Theo lệ thường phong kiến cứ ba năm có một khoa thi Hương . Hình ảnh sĩ tử lôi thôi, vai đeo lọ với dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác. Quan trường ậm ọe, miệng thét loa, ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ. Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi, mặc dù đây là một kì thi Hương quan trọng của nhà nước. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho. Hình ảnh quan sứ là viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cái trị của tỉnh Nam Định được tiếp đón trọng thể. Mụ đầm, vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà. Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi. Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến. Tâm trạng thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Hai câu cuối như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.

Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương - mẫu 2

Ba năm có một khoa thi Hương. Hình ảnh sĩ tử lôi thôi, vai đeo lọ với dáng vẻ nhếch nhác. Quan trường ậm ọe, miệng thét loa, ra oai, nạt nộ. Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi. Hình ảnh quan sứ là viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cái trị của tỉnh Nam Định được tiếp đón trọng thể. Mụ đầm, vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà. Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi. Thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông.

Bố cục Vịnh khoa thi Hương (Cánh diều) CHÍNH XÁC NHẤT (ảnh 1)

Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương - mẫu 3

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương với khung cảnh trường thi được vẽ ra trước mắt. Sĩ tử đến thi lôi thôi vai đeo lọ, quan trường hậm họe miệng thét loa, lọng cắm rợp trời, mụ đầm xuất hiện. Tác giả thể hiện thái độ châm biếm, chế độ thi cử nước ta lúc đương thời.

Tóm tắt Vịnh khoa thi Hương - mẫu 4

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương được tác giả miêu tả chi tiết về khoa thi Hương. Đầu tiên là giới thiệu về kì thi, tiếp theo tác giả miêu tả cảnh tượng khi đi thi của sĩ tử của quan trường, những ông to bà lớn đến trường thi. Cuối cùng là thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi.

Bố cục Vịnh khoa thi Hương

- Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi

- Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi

- Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi

- Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi

Nội dung chính Vịnh khoa thi Hương

Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử - một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.

Tác giả tác phẩm Vịnh khoa thi Hương

I. Tác giả Trần Tế Xương (Tú Xương)

Tác giả tác phẩm Vịnh khoa thi Hương - Ngữ văn 8 (Cánh diều) (ảnh 1)

- Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường gọi là Tú Xương.

- Quê quán: làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).

- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:

+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).

+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).

+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.

- Ông có khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...

- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...

- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.

- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân – nửa phong kiến.

- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

II. Tìm hiểu tác phẩm Vịnh khoa thi Hương

1. Thể loại

- Bài thơ thuộc thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời

Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” còn có tên gọi khác “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, được sáng tác năm 1897.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.

4. Giá trị nội dung

Bài thơ vừa ghi lại cảnh nhập trường vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh, qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng.

5. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật đối, đảo ngữ, ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.

Đọc tác phẩm Vịnh khoa thi Hương

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm ọe quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Xem thêm các bài Tóm tắt tác phẩm Ngữ văn 8 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá