SBT Ngữ Văn 7 Chân trời sáng tạo Bài 4: Quà tặng của thiên nhiên

1.1 K

Toptailieu biên soạn và giới thiệu giải sách bài tập Ngữ Văn 7 Bài 4: Quà tặng của thiên nhiên sách Chân trời sáng tạo hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm các bài tập từ đó nâng cao kiến thức và biết cách vận dụng phương pháp giải vào các bài tập trong SBT Ngữ Văn 7 Bài 4.

Sách bài tập Ngữ Văn 7 Bài 4: Quà tặng của thiên nhiên

SBT Ngữ Văn 7 trang 59, 60, 61, 62, 63, 64 Đọc Tập 1

Câu 1 trang 59 SBT Ngữ Văn 7: Điền vào bảng sau những điểm giống và khác nhau của tản văn và tuỳ bút:

 

Tản văn

Tuỳ bút

Giống nhau (chất trữ tình, cái tôi, ngôn ngữ)

 

Khác nhau

   

Trả lời:

 

Tản văn

Tuỳ bút

Giống nhau (chất trữ tình, cái tôi, ngôn ngữ)

- Chất trữ tình trong tản văn, tùy bút là yếu tố được tạo từ vẻ đẹp của cảm xúc, suy nghĩ, vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật để tạo nên rung động thẩm mỹ cho người đọc.

- Cái tôi trong tùy bút, tản văn là yếu tố thể hiện cảm xúc, suy nghĩ riêng của tác giả qua văn bản. Thông thường, có thể nhận biết cái tôi ấy qua các từ nhân xưng ngôi thứ nhất.

- Ngôn ngữ tản văn, tùy bút thường tinh tế, sống động mang hơi thở đời sống, giàu hình ảnh và chất trữ tình.

Khác nhau

Là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc có cách thể hiện đa dạng (trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả,...), nhưng nhìn chung đều mang tính chất chấm phá, bộc lộ trực tiếp suy nghĩ, cảm xúc của người viết qua các hiện tượng đời sống thường nhật, giàu ý nghĩa xã hội.

Là một thể trong kí, dùng để ghi chép, miêu tả những hình ảnh, sự việc mà người viết quan sát, chứng kiến; đồng thời chú trọng thể hiện cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của tác giả trước các hiện tượng và vấn đề của đời sống.

Câu 2 trang 59 SBT Ngữ Văn 7: Khi đọc một văn bản tuỳ bút hoặc tản văn, em cần chú ý những gì về cách đọc?

Trả lời:

Khi đọc một văn bản tuỳ bút hoặc tản văn, cần chú ý về cách đọc như sau:

- Tìm hiểu chất trữ tình, cái tôi của nhà văn thể hiện qua văn bản.

- Tìm hiểu ngôn ngữ của văn bản.

- Xác định chủ đề mà văn bản muốn gửi đến người đọc.

- Tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình cảm, cảm xúc của người viết.

Câu 3 trang 59 SBT Ngữ Văn 7: Đọc văn bản sau và trả lời các cầu hỏi:

MỘT THỨC QUÀ CỦA LÚA NON: CỐM

Thạch Lam

Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng1 sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời.

Đợi đến lúc vừa nhất, mà chỉ riêng những người chuyên môn mới xác định được, người ta gặt mang về. Rồi đến một loạt cách chế biến, những cách thức làm truyền từ đời này sang đời khác, một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn, cái cô gái Vòng1’ làm ra thứ cốm dẻo và thơm ấy. Tất nhiên là nhiều nơi cũng biết cách thức làm cốm, nhưng không có đâu làm được hạt cốm dẻo, thơm và ngon được bằng ở làng Vòng, gần Hà Nội.

Tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba kì, và đến mùa cốm, các người của

Hà Nội 36 phố phường vẫn thường ngóng trông cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng...

Cốm là thức quả riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam2. Ai đã nghĩ đầu tiên dùng cốm để làm quà sêu Tết3. Không gì còn hợp hơn với sự vương vít của tơ hồng4, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi. Hồng cốm tốt đôi... Và không bao giờ có hai màu lại hoà hợp hơn được nữa: màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đó thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền. (Thật đáng tiếc khi chúng ta thấy những tục lệ tốt đẹp ấy mất dần, và những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bẩy hào nháng và thô kệch bắt chước người ngoài: những kẻ mới giàu vô học có biết đâu mà thưởng thức được những vẻ cao quy kín đáo và nhũn nhặn?)

Cốm không phải thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ây, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ. Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen. Khi các cô gái làng Vòng đỗ gánh, giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng lá cốm, sạch sẽ, và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào. Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay mân mê thức

quà thần tiên ấy, hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chíu6 mà vuốt ve. Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa. Sự thưởng thức của các bà sẽ được trang nhã và đẹp đẽ hơn, và cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều lắm.

1. Vừng (cũng viết “vầng”): từ chỉ đơn vị, dùng để gọi một cách trang trọng hay văn vẻ một vật thể có bề mặt được coi là rộng, hình tròn hoặc gần với hình tròn. Ví dụ: vầng dương, vầng trán.

1’ Vòng: làng Vòng thuộc xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Cầu Giấy. Làng Vòng từ lâu đã nổi tiếng về nghề làm cốm.

2 An Nam: tên gọi cũ của nước Việt Nam, dưới thời Bắc thuộc được dùng chính thức từ đời Đường và cũng còn dùng dưới thời thuộc Pháp.

3. Sêu Tết: chỉ việc nhà trai đưa lễ vật (thường là thức ăn) đến nhà gái trong dịp lễ, Tết, khi chưa cưới, trong xã hội cũ.

4 Tơ hồng: sợi chỉ đỏ biểu trưng cho tình duyên do trời định. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông Nguyệt Lão dùng sợi chỉ này buộc vào chân đôi nam nữ nào thì họ sẽ thành vợ chồng.

5 Hào nháng (cũng viết là “hào nhoáng”): có vẻ đẹp phô trương bề ngoài.

6 Chút chiu ( từ ít dùng): nâng niu, nhẹ nhàng

(In trong Hà Nội băm sáu phố phường, NXB Đời nay, 1943)

a. Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết Một thức quà của lúa non: cốm là một văn bản tuỳ bút?

b. Tác giả thể hiện tình cảm, cảm xúc thể nào đối với cốm? Tìm một số từ ngữ, hình ảnh đã góp phần thể hiện tình cảm, cảm xúc ấy của tác giả trong đoạn văn sau:

Khi các cô gái làng Vòng đỗ gánh, giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng lá cốm, sạch sẽ, và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào. Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay mân mê thức quà thần tiên ấy, hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chiu mà vuốt ve. Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thân Lúa.

c. Trong tuỳ bút, chất trữ tình thường được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, suy nghĩ, và vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật nhằm mang lại những rung động và sự thích thú cho người đọc. Tìm một số chi tiết thể hiện đặc điểm này trong văn bản Một thức quà của lúa non: cốm.

d. Xác định chủ đề của văn bản. Dựa vào đâu em xác định như vậy?

đ. Gần cuối văn bản, tác giả viết: “Thật đáng tiếc khi chúng ta thấy những tục lệ tốt đẹp ấy mất dần...”. Theo em, vì sao điều đó lại xảy ra trong cuộc sống của chúng ta? Làm thế nào để những nét đẹp văn hoá của dân tộc không bị mất đi?

Trả lời:

a. Một thức quà của lúa non: cốm là một tuỳ bút vì:

- Ghi lại những hình ảnh, sự việc mà người viết quan sát, chứng kiến về hương sắc, mùi vị của cốm làng Vòng, cách thưởng thức cốm một cách văn hoa.

- Thể hiện tình cảm trân trọng yêu quý của tác giả đối với cốm.

- Chất trữ tình: thấm đẫm trong từng đoạn văn, ví dụ trong đoạn đầu tiên tác giả vừa tả vẻ đẹp của đầm sen, của cánh đồng lúa, bông lúa non (màu sắc, mùi hương), vừa thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp đó, ví dụ như đoạn sau:

Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh động xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trữu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời.

- Cái tôi của Thạch Lam thể hiện trong văn bản là cái tôi tinh tế, trân trọng món quà của thiên nhiên và văn hoá ẩm thực của dân tộc, cách nhìn, cách nghĩ, cách xưng gọi mang nét riêng của tác giả, chẳng hạn như: “Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không”, “Hỡi các bà mua hàng!”; “Chúng ta có thể nói rằng trời sinh lá sen để bao bọc cốm, cũng như trời sinh cốm nằm ủ trong lá sen.”

Văn bản giúp HS cảm nhận được tâm hồn phong phú, sâu sắc, tinh tế của tác giả.

- Ngôn ngữ trong tuỳ bút này thể hiện đặc điểm thể loại: cách dùng từ ngữ giản dị nhưng sống động, giàu hình ảnh, đồng thời thấm đẫm cảm xúc của tác giả.

b. Văn bản thể hiện sự yêu quý, trân trọng của tác giả đối với cốm. Các từ ngữ, hình ảnh được gạch chân trong đoạn văn sau thể hiện tình cảm, cảm xúc ấy của tác giả:

Khi các cô gái làng Vòng đỗ gánh, giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng lá cốm, sạch sẽ, và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào. Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay mân mê thức quà thần tiên ấy, hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chiu mà vuốt ve. Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thân Lúa.

c. Một trong những đoạn miêu tả đậm chất trữ tình của văn bản là đoạn tác giả miêu tả quá trình hình thành bông lúa non: “Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”. Đoạn này sử dụng phương thức biểu đạt chủ yếu là miêu tả và biểu cảm, thể hiện cảm xúc chân thực của tác giả trước vẻ đẹp của tự nhiên. Cảm xúc của tác giả về cách thưởng thức cốm còn được bộc lộ trong đoạn sau: “Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ây, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ”. Cảm xúc, suy nghĩ của tác giả như đã hoà quyện với sự thanh khiết của tự nhiên, với nét đẹp mộc mạc mà nên thơ của đất trời, tạo cho người đọc ấn tượng khó quên.

d. Để xác định chủ đề, trước tiên, em cần đọc kĩ từng phần của văn bản và tóm tắt nội dung chính của từng phần.

Văn bản có thể chia làm 3 phần, nội dung chính của từng phần là:

- Phần 1 (tử đầu đến “hai đầu cong vút lên nhĩ chiếc thuyền rồng... `):

Hương thơm lúa non gợi nhớ đến cốm và nguồn gốc của cốm.

- Phần 2 (tiếp theo đến “vẻ cao quý kín đáo và nhũn nhặn”): Ngợi ca giá trị văn hoá của cốm.

- Phần 3 (còn lại): Bàn về cách thưởng thức cốm.

Chủ đề của văn bản: Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và văn hoá dân tộc qua hình ảnh cốm.

đ. Do con người dần trở nên sính ngoại, xa rời truyền thống (“những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bẩy hào nháng và thô kệch bắt chước người ngoài”), hoặc tự suy luận do tốc độ phát triển ngày càng nhanh, con người ngày càng sống vội nên những phong tục tinh tế, tốt đẹp bị mất dần v.v.

Câu 4 trang 62 SBT Ngữ Văn 7: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

BUỔI SÁNG MÙA XUÂN SƯƠNG CHƯA TAN

Đỗ Bích Thuý

Tôi đã từng nghĩ rằng, có viết bao nhiêu dòng, bao nhiêu trang cũng không

thể đủ, không thể thoả lòng về niềm yêu mến của tôi đối với cái cây ấy.

Lúc tôi mười, hay mười một gì đấy, tôi rất thích ngồi đan ở đầu hồi. Thích

Lắm. Ngày ấy, len hiếm, mẹ tôi thường dỡ những cái áo len cũ, rách, thủng ra, nhặt những đoạn len còn tốt, nối vào để đan lại. Áo, khăn, mũ. Những cái áo len đẹp mặt trước, còn mặt sau, bên trong, thì chi chít những cái mối nối đùn lên. Tôi xin mẹ những đoạn len thừa. Ngắn quá không bõ nối, thì mẹ cho tôi. Tôi tự vót một đôi kim đan. Vót từ một khúc vầu già. Bố tôi hay nói, nếu muốn vót tròn thì phải đẽo vuông. Tức là, muốn vót que đũa, hay que đan cũng vậy, thì phải chẻ miếng vầu cho nó vuông đã, vót dễ hơn, nhanh hơn. Vót xong, lấy chính cái phân sợi đã vót ấy, vo lại, nhét cây que đan vào trong, chuốt cho nó nhẫn thín, bóng loáng mới thôi. Xong một đôi que đan, nối được một đoạn len dài, tôi mang ra ngồi trước hiên nhà. Một đứa bé gái sửa soạn cho một buổi sáng mùa đông ngồi đan hẳn là phải tinh tươm lắm, tôi nghĩ thế. Mà tôi cũng chẳng biết đan gì, chỉ mong được một miếng chừng hai bàn tay, có pha mầu, có vài hoạ tiết, thế là vui lắm 1ôi.

Đầu hồi có một cây mận.

Ngồi đan, và ngắm cây mận. Lúc nào tôi cũng muốn làm hai việc này cùng với nhau.

Trời lạnh, gió từ trong khe núi thổi ra liên tục. Nhưng mà hôm ấy trời có nắng. Một ngày trời nắng hiếm hoi. Tôi ngồi ngay dưới tán cây. Cây mận rất già, da mốc meo, khô khốc. Bố tôi trồng nó xuống trong đúng cái ngày tôi chào đời. Gốc cây mận xù ra từng cục. Có một vét sẹo tròn tròn dưới gốc. Đây là chỗ mà tôi hay buộc con chó.

Nắng lên, xiên qua cành cây đầy lá non. Những cành mận gầy in bóng trên nền sân. Vừa Tết xong. Hoa mận cuối mùa vẫn cố nở những bông trắng thật là trắng. Nhiều cành đã ra quả. Quả non xanh như lá, phần bọc bên ngoài lại trắng như tuyết.

Tôi thích nhất là ngắm cây mận ở lúc mà nó vừa có hoa vừa có quả, những cái lá non xanh mướt như được quệt một lớp mỡ bằng chổi lông gà. Ấy là khi mùa xuân đến. Mùa xuân, cho dù năm nào cũng đến muộn, nhưng luôn luôn kịp để cây mận ra hoa, hoa rụng, còn lại những quả xanh non. Tôi có thể ngồi cả buổi ở hiên nhà, trong cái nắng vàng nhạt ấm áp, gió lạnh vẫn thổi băng qua trước mặt và đẩy tất cả mọi cái lá rụng về phía cuối sân. Mỗi khi một cánh hoa rơi xuống thì cây mận lại rùng mình một cái, như là nó bị đau. Thấy thương cây mận. Cây mận giống mẹ tôi, phải đổi vẻ đẹp của mình để lấy những đứa con. Lại nghĩ, liệu rồi mình có muốn giống cây mận kia không? Không biết. Lần nào ngồi dưới bóng của nó tôi cũng tự hỏi đi hỏi lại câu đó hàng trăm lần, trong mỗi buổi sáng không có sương mù che phủ, và cây mận tha hồ khoe vẻ đẹp của nó.

Tôi vẫn thế, luôn lẩn thẩn chơi một mình và rất thích những thứ mà tôi nghĩ rằng nó bị bỏ quên. Mấy bông hoa mận, một quả hồng cuối mùa mầu đỏ còn sót lại trên ngọn trong khi mọi cái lá thì đã rụng hết, một tổ chim có mấy con chim non...

Cây mận gầy thật là gầy. Những miếng vỏ già vỡ ra khiến thân cây đầy vết nứt, giống những vét nứt ở gót chân vào mùa đông. Bọn trẻ chúng tôi ở làng, chân đứa nào cũng nứt toác. Má cũng nứt. Nhưng gầy thì gầy, cây mận vẫn cho đầy quả.

Tôi ôm cái giỏ đựng đồ đan trước bụng, nhìn chằm chằm lên cây mận.

Nắng chiếu vào những hạt sương trong veo ở đầu cành làm cho nó sáng lấp lánh. Tôi đã nghĩ, mình cũng sẽ dính những hạt sương như thế lên chiếc áo len đầu tiên mà tôi đan được sau này. Chiếc áo của tôi sẽ chẳng giống ai. Có tìm khắp các chợ cũng không có chiếc thứ hai. Tôi sẽ đính cả những bông hoa bằng vải nhỏ tí trắng như hoa mận. Tôi sẽ là một bông hoa mận đang nở, trong một buổi sáng mùa xuân sương chưa tan...

Tôi đã lớn lên, từng tuổi một, bên hiên nhà và dưới gốc mận ấy. Cây mận ngày một già, những cành dài của nó trùm lên mái nhà. Sau những trận mưa to gió lớn, nó quật vỡ vài viên ngói. Tuổi thơ của tôi đã trôi đi, trôi đi, như một giấc mơ. Một giấc mơ không bao giờ cũ, nằm yên ở đó, và khi nào chạm đến thì thức dậy. Anh cả tôi lấy vợ, anh thứ tôi lấy vợ, những đứa cháu tập đi quanh gốc mận, và bố mẹ tôi cũng già đi bên gốc mận. Còn tôi, thì đi lấy chồng.

Cây mận ấy, già nua và cô đơn, im lìm lặng lẽ và khiêm nhường, tận hiến những gì có thể cho cả một gia đình, và cũng chứng kiến những biến động lớn nhất trong một gia đình. Khi tôi xa nhà, quay về, đi qua một khúc quanh, qua một cây cầu nhỏ, còn chưa nhìn thấy hai cánh cửa nhà màu xanh thì đã nhìn thấy ngọn cây mận. Nó vẫn đứng đó, vươn ngọn lên trên mái nhà, và đang vươn lên cao đề vẫy chào reo vui. Năm nào cây mận cũng ra hoa, ra quả. Càng già quả càng ít đi, nhưng càng ngon hơn. Giòn tan, ngọt lịm, và tôi luôn nhè hạt mận ra rồi vung tay vứt thật mạnh qua bờ rào. Ngoài đấy là rừng. Rừng đầy những sa nhân, sồi, dẻ, trám, giang, vầu... [...]

Tôi vứt hạt mận ra rừng, và luôn mơ mộng về một khu rừng đầy những cây mận, và cây nào cũng chi chít quả...

Năm tôi hai mươi tám tuổi, cây mận cũng hai mươi tám tuổi. Tôi rời nhà đi, cây mận vẫn đứng đó. Mười năm sau đó, bố mẹ tôi cũng rời đi. Cây mận không còn nữa. Nó đã quá già, nhưng không phải vì nó già, mà vì cái vị trí nó đứng khiến cho người chủ mới không thể dựng lên một ngôi nhà thật to. Người ta chặt bỏ nó đi.

Tôi muốn khóc lắm. Thật là thế. Tôi đã luôn tin rằng cây mận sẽ nhớ tôi biết bao, giống như tôi luôn nhớ nó. Một cái cây có linh hồn, mong manh, nhạy cảm, tinh tế, và trĩu nặng ân tình. Và vào mùa xuân này, như mấy chục mùa xuân đã trôi đi mất, tôi lại ngồi giữa phố xá và lặng yên nhớ về cái buổi sáng ngồi tỉ mẩn tập đan, và hoa mận thì lả tả rụng, như sương...

(Nguồn: https://nhandan.vn/thoinayxuan2019-huongxuanmautet/buoi-sang-mua-xuan-suong-chua-tan-348568/)

a. Hãy chỉ ra những đặc điểm của tản văn được thể hiện trong văn bản Buổi sáng mùa xuân sương chưa tan.

b. Chủ đề văn bản này là gì?

c. Hãy viết một đoạn văn thể hiện suy nghĩ của em về tình cảm đặc biệt giữa tác giả với cây mận.

Trả lời:

a. Buổi sáng mùa xuân sương chưa tan là một tản văn vì:

- Văn bản miêu tả cây mận đồng thời thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó của tác giả với cây mận.

- Bộc lộ trực tiếp suy nghĩ, cảm xúc của người viết đối với cây mận đã gắn bó nhiều năm với cả gia đình và trở thành kí ức không thể nào quên. Từ dòng đầu tiên của văn bản, tác giả đã bộc lộ cảm xúc với cây mận: “Tôi đã từng nghĩ rằng, có viết bao nhiêu dòng, bao nhiêu trang cũng không thể đủ, không thể thoả lòng về niềm yêu mến của tôi đối với cái cây ấy”.

- Chất trữ tình: cảm xúc, suy nghĩ của tác giả hoà quyện với vẻ đẹp tươi mát của cây mận, ví dụ mỗi khi miêu tả cây mận, tác giả đều thể hiện tình cảm tha thiết đan xen với lời tả: “Tôi có thể ngồi cả buổi ở hiên nhà, trong cái nắng vàng nhạt ấm áp, gió lạnh vẫn thổi băng qua trước mặt và đẩy tất cả mọi cái lá rụng về phía cuối sân. Mỗi khi một cánh hoa rơi xuống thì cây mận lại rùng mình một cái, như là nó bị đau. Thấy thương cây mận.” hoặc qua phép so sánh tinh tế: “Cây mận giống mẹ tôi, phải đổi vẻ đẹp của mình để lấy những đứa con.

- Cái tôi của Đỗ Bích Thuý thể hiện trong văn bản là cái tôi dịu đàng, trong trẻo, đầy nữ tính giàu cảm xúc; cách nhìn, cách nghĩ, cách xưng gọi mang nét riêng của tâm hồn tác giả, chẳng hạn như cách tự vấn: “Lại nghĩ, liệu rồi mình có muốn giống cây mận kia không? Không biết. `, hay như cách tác giả đối thoại với cây mận như với một con người thực sự chứ không phải một vật vô tri: “Tôi muốn khóc lắm. Thật là thế. Tôi đã luôn tin rằng cây mận sẽ nhớ tôi biết bao, giống như tôi luôn nhớ nó. Một cái cây có linh hồn, mong manh, nhạy cảm, tinh tế, và trĩu nặng ân tình”.

- Ngôn ngữ trong tản văn này thể hiện đặc điểm thể loại: tinh tế, sống động, mang hơi thở đời sống, giàu hình ảnh và chất trữ tỉnh.

b. Chủ đề văn bản được xác định dựa vào việc nắm đối tượng và vấn đề chính mà văn bản muốn biểu đạt.

Văn bản có thể chia làm 3 phần với các nội dung chính như sau:

- Phần 1 (từ đầu đến “Ngồi đan, và ngắm cây mận. Lúc nào tôi cũng muốn làm hai việc này cùng với nhau”). Giới thiệu khung cảnh êm đềm thời thơ âu, và sự gắn bó với cây mận suốt thời thơ âu.

- Phần 2 (tiếp theo đến “Người ta chặt bỏ nó đi”): Thời niên thiếu và trưởng thành của tác giả bên cây mận, cho đến khi cả gia đình rời đi và cây mận bị chặt bỏ.

- Phần 3 (còn lại): Tình cảm sâu sắc của tác giả dành cho cây mận.

Chủ đề của văn bản: Qua hình ảnh cây mận, tác giả thể hiện những suy tư, cảm xúc về dòng chảy của thời gian và ý nghĩa của cây đối với con người.

c. Khi viết một đoạn văn thể hiện suy nghĩ của em về tình cảm đặc biệt giữa tác giả và cây mận, trước hết em hãy gạch đầu dòng những suy nghĩ của mình, chọn lọc suy nghĩ mà em cho là hợp lí nhất. Em cũng có thể trả lời các câu hỏi dưới đây để có thể xác định được suy nghĩ của mình:

- Em đồng ý hay không đồng ý với cách thể hiện tình cảm đặc biệt của tác giả đối với cây mận?

- Tình cảm đặc biệt ấy, theo em, có phải là điều thường thấy trong cuộc sống không?

- Em có hiểu hoặc đồng cảm được với tình cảm ấy không? Nếu có, phải chăng em cũng từng có tình cảm tương tự với một cái cây, một bông hoa, một khung cảnh, hay một đồ vật? Nếu không, em hãy viết ra và giải thích lí do.

- Tình cảm ấy liệu có giúp em nhìn nhận việc đối xử với cỏ cây, hoa lá, thiên nhiên,... theo một cách khác?

Đoạn văn thể hiện suy nghĩ của em không cân dài, nhưng cần rõ ràng, mạch lạc, lí giải được vấn đề một cách hợp lí, thuyết phục.

SBT Ngữ Văn 7 trang 64, 65, 66, 67 Tiếng Việt Tập 1

Câu 1 trang 64 SBT Ngữ Văn 7: Nối các từ ngữ có ý nghĩa giống nhau ở 2 cột.

A

 

B

1. quả quất

 

a. trái cây

2. đọi

 

b. quả dứa

3. tất

 

c. bát

4. trái thơm

 

d. vớ

5. hoa quả

 

đ. trái tắc

Trả lời:

Các em nối như sau: 1đ; 2c; 3d; 4b; 5a.

Câu 2 trang 65 SBT Ngữ Văn 7: Xác định từ ngữ địa phương theo vùng miền bằng cách đánh dấu chéo (X) vào bảng sau:

Từ ngữ

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

đìa

     

rày

     

bên ni, bên tê

     

chộ

     

vưỡn

     

giả vờ

     

Trả lời:

Từ ngữ

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

đìa

   

x

rày

   

x

bên ni, bên tê

 

x

 

chộ

 

x

 

vưỡn

x

   

giả vờ

x

   

Câu 3 trang 65 SBT Ngữ Văn 7: Tìm các từ ngữ địa phương trong đoạn văn sau và giải thích nghĩa của chúng:

Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa, sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hứng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau,... Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng.

(Nguyễn Ngọc Tư, Mùa phơi sân trước)

Trả lời:

* Các từ ngữ địa phương được gạch chân:

Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa, sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hứng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau,... Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng.

* Nghĩa của các từ:

- Hồi (từ địa phương miền Nam): lúc, khi.

- Con nít (từ ngữ địa phương miền Nam): trẻ con.

- Cặm: (từ địa phương miền Nam): dựng.

- Trái (từ địa phương miền Nam): quả.

- Mau (từ địa phương miền Nam): nhanh.

Câu 4 trang 66 SBT Ngữ Văn 7: Chỉ ra đặc điểm của văn bản mạch lạc trong đoạn trích dưới đây:

Đã có lúc ngồi nhìn người hàng cốm xẻ từng mẻ cốm sang chiếc lá sen to để gói lại cho khách hàng, tôi đã tẩn mẩn ngẫm nghĩ nhiều. Ờ mà thật vậy, sao cứ phải là lá sen mới gói được cốm? Mà sao cứ phải là rơm tươi của cây lúa mới đem buộc được gói cốm? Có một khi tôi đã thử tưởng tượng người ta dùng giấy bóng kính tốt đẹp đểgói cốm và dùng dây lụa để buộc gói cốm, nhưng mới thoáng nghĩ như thế, tôi đã thấy tất cả một sự lố lăng, tất cả một sự thô kệch, nói tóm lại là tất cả một sự... khó thương! Còn gì là cốm nữa! Làm vậy, cốm có còn là cốm đâu!

Cốm, một món quà trang nhã của Thần Nông đem từ những đồng quê bát ngát của tổ tiên ta lại cho ta, không thể khứng chịu được những cái gì phàm tục.

Vì thế, ăn miếng cốm cho ra miếng cốm, người ta cũng cần phải tỏ ra một chút gì thanh lịch, cao quý; phải biết tiếc từng hạt rơi, hạt vãi, và nhất là phải ăn từng chút một, lấy ngón tay nhón lấy từng chút một, chứ không được phũ phàng.

(Vũ Bằng, Cốm Vòng)

Trả lời:

Vũ Bằng đã triển khai vấn đề từ nhỏ (lá sen và rơm tươi gói cốm) đến lớn (món quà trang nhã mà tổ tiên truyền lại), từ cụ thể (cốm phải ra cốm) đến khái quát (sự thanh lịch, cao quý trong thưởng thức). Đây là một trình tự hợp lí của các ý, thể hiện qua trình tự hợp lí của câu, của đoạn.

Câu 5 trang 66 SBT Ngữ Văn 7: Tính mạch lạc đã được thể hiện trong đoạn trích dưới đây như thế nào?

Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi miết trên những giàn phơi. Hụt hơi, chới với. Có lần về nhà kêu má Tết này làm những món này này, những món mà mình nhìn thấy mang theo trên suốt chặng đường từ nhà ngoại về. Má cười, người ta có đâu có nghĩa là mình phải có.

Mình dại hơn cả tuổi mười ba, không hiểu câu đó mấy, nên vẫn muốn má bày thật nhiều thứ trên giàn phơi nhà mình, chớ không phải còm nhom chút dưa kiệu, dưa hành, chút chuối khô,... Nên Chạp sau mình vân nhắc, má lại nói ta đâu cần phải có cái mà người ta có.

Cũng may qua mỗi Chạp mỗi mùa phơi mình mỗi lớn, bài học của người của ta má không nhắc nữa, mình bỗng bâng quơ nhớ. Nhận ra trên giàn cũng phơi những thân phận người. Ngó qua khoảng sân đã rợp những cây mông gà, vạn thọ biết ai ăn Tết lớn ai chị đìu hiu, như ngó qua cái sào phơi quần áo biết nhà ai đông, nhà ai đơn chiếc, ai khả giả, ai nghèo. Nắng gió khiến mọi niềm vui, nỗi buồn bày ra như một cuộc diễu hành, không che giấu khách qua đường. Căn chòi của bà già chèo đò hay chở mình qua sông trồng mãi, cho đến ngày cuối Chạp bỗng trên đồng củi có phơi vài tàu lá chuối, biết tối nay trên sân nhỏ bà sẽ ngồi canh nồi bánh tét đến giao thừa. Mình bỗng nghe nhẹ nhõm khi nhìn theo bóng nhỏ đưa chiếc đò về bên kia sông.

Chật vật mấy, cuối Chạp cũng có cái đem phơi, đem nhuộm nắng, cũng có bụi bông vạn thọ, và bông trang, bông lồng đèn nở rực rỡ trên rào...

(Nguyễn Ngọc Tư, Mùa phơi sân trước)

Trả lời:

Tính mạch lạc đã được thể hiện trong đoạn trích qua sự kết nối ý tứ, cảm xúc giữa các đoạn, từ “Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi miết trên những giàn phơi” thể hiện sự theo đuổi giá trị vật chất cho đến “má lại nói ta đâu cần phải có cái mà người ta có” thể hiện sự nhắc nhở của người lớn, cho đến “Mình bỗng nghe nhẹ nhõm khi nhìn theo bóng nhỏ đưa chiếc đò về bên kia sông” thể hiện sự trưởng thành của cái tôi và cuối cùng kết lại bằng sự hài lòng với những điều giản đị trong cuộc sống: “Chật vật mấy, cuối Chạp cũng có cái đem phơi, đem nhuộm nắng, cũng có bụi bông vạn thọ, và bông trang, bông lồng đèn nở rực rỡ trên rào...".

Câu 6 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Liệt kê ít nhất 5 từ ngữ địa phương ở vùng miền em sống, sau đó tìm các từ ngữ đồng nghĩa ở các địa phương khác.

Trả lời:

STT

Từ ngữ địa phương ở vùng miền em sống

Từ ngữ đồng nghĩa ở địa phương khác

1

trái thơm

trái dứa

2

con heo

con lợn

3

mần

làm

4

đọi

bát

5

vào

SBT Ngữ Văn 7 trang 67 Viết Tập 1

Câu 1 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Trình bày những yêu câu của bài văn biểu cảm về con người, sự việc.

Trả lời:

- Bài văn biểu cảm về con người, sự việc là kiểu văn bản có mục đích trình bày cảm xúc của người viết về một đối tượng (có thể là con người, sự việc ... )

- Yêu cầu đối với kiểu bài:

+ Tình cảm trong bài văn phải chân thực, trong sáng.

+ Sử dụng ngôi thứ nhất để chia sẻ cảm xúc.

+ Kết hợp với miêu tả và tự sự nhằm hỗ trợ cho việc biểu lộ cảm xúc.

Bố cục bài viết gồm ba phần:

+ Mở bài: giới thiệu đối tượng biểu cảm, biểu đạt cảm xúc chung về đối tượng.

+ Thân bài: Biểu lộ cảm xúc, suy nghĩ cụ thể một cách sâu sắc về đối tượng. Đối với bài văn biểu cảm về con người, người viết cần biểu lộ cảm xúc, suy nghĩ về đặc điểm, tính cách, kỉ niệm gắn với người đó. Đối với bài văn biểu cảm về sự việc, người viết có thể biểu lộ cảm xúc theo trình tự diễn tiến của sự việc.

+ Kết bài: khẳng định lại tình cảm, cảm xúc về đối tượng; rút ra điều đáng nhớ đối với bản thân.

Câu 2 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Khi viết bài văn biểu cảm về con người, sự việc, làm thế nào để thể hiện tình cảm của người viết một cách chân thực, thuyết phục?

Trả lời:

Để thể hiện tình cảm một cách chân thực, thuyết phục bài văn biểu cảm về con người, sự việc, cần:

- Xác định đúng cảm xúc về đối tượng.

- Tình cảm được thể hiện phải chân thực, trong sáng.

- Kết hợp được miêu tả và tự sự nhằm hỗ trợ cho việc biểu lộ cảm xúc.

- Trỉnh bày các ý một cách rõ ràng, mạch lạc.

Câu 3 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Vẽ sơ đồ dàn ý cho đề bài sau:

Hãy viết một bài văn biểu cảm (độ dài khoảng 400 từ) về một người bạn hoặc về một kỉ niệm sâu sắc của em.

Trả lời:

Em có thể dùng mẫu sơ đồ dưới đây để lập dàn ý cho bài văn:

MỞ BÀI

- Giới thiệu cảm xúc của người viết về đối tượng (sự việc):

…………………………………………………………………………

- Cảm xúc đó được biểu hiện như thế nào/ gắn với sự việc, sự kiện gì

…………………………………………………………………………

THÂN BÀI

1. Trình bày:

- Cảm xúc về đối tượng, sự việc:...................

2. Lí giải cảm xúc:

- Kết hợp với yếu tố tự sự thứ nhất:..................................

- Kết hợp với yếu tố tự sự thứ hai:..............................

- Kết hợp với yếu tố miêu tả thứ nhất:.................................

- Kết hợp với yếu tố miêu tả thứ hai:..........................

KẾT BÀI

- Khẳng định lại cảm xúc:........................

- Rút ra điều đáng nhớ đối với bản thân:..............................

SBT Ngữ Văn 7 trang 67 Nói và Nghe Tập 1

Câu 1 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Dựa vào gợi ý trong bảng sau, em hãy trình bày những điều cần lưu ý khi nghe và tóm tắt ý chính do người khác trình bày:

Tâm thế tôi cần chuẩn bị là......................

Để không bỏ sót ý chính do người khác trình bày, tôi cần.........................

Để đảm bảo bài tóm tắt thể hiện chính xác, đầy đủ thông tin, tôi cần............

Để ghi được ngắn gọn các thông tin, tôi nên...............................

Tôi thể hiện các ý rõ ràng, mạch lạc bằng cách.........................

Trả lời:

Tâm thế tôi cần chuẩn bị là sự lắng nghe, tinh thần cầu thị.

Để không bỏ sót ý chính do người khác trình bày, tôi cần tập trung lắng nghe và ghi chép.

Để đảm bảo bài tóm tắt thể hiện chính xác, đầy đủ thông tin, tôi cần lắng nghe, ghi lại ngắn gọn nhưng không bỏ sót chỉ tiết quan trọng, ghi từ khoá.

Để ghi được ngắn gọn các thông tin, tôi nên tập viết nhanh, sử dụng hệ thống kí hiệu, viết tắt hoặc sơ đồ trình bày.

Tôi thể hiện các ý rõ ràng, mạch lạc bằng cách ghi các ý theo thứ tự hoặc vẽ sơ đồ nội dung tóm tắt.

Câu 2 trang 67 SBT Ngữ Văn 7: Tại sao khi tóm tắt ý chính do người khác trình bày, ta cần đọc lại và chỉnh sửa phần ghi chép?

Trả lời:

Việc đọc lại và chỉnh sửa phần ghi chép giúp ta đảm bảo nội dung ghi chép chính xác và đầy đủ ý chính. Thông qua quá trình đọc lại và xác nhận thông tin với những người nghe khác, ta có thể nhận ra những chỗ nghe chưa đúng hoặc những nội dung quan trọng còn thiếu sót, từ đó chỉnh sửa kịp thời.

Đánh giá

0

0 đánh giá