Soạn bài “Và tôi vẫn muốn mẹ...” trang 41 (Kết nối tri thức)

209

Với soạn bài “Và tôi vẫn muốn mẹ...” trang 41 Ngữ văn 11 Kết nối tri thức sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó học tốt Văn 11.

Soạn bài “Và tôi vẫn muốn mẹ...” trang 41 (Kết nối tri thức)

Trước khi đọc

Câu 1 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)

Trả lời:

Câu chuyện Hãy chăm sóc mẹ kể về một người mẹ đi lạc đường và những người con mang theo dòng ký ức về mẹ trên con đường đi tìm người mẹ ấy."Khi cô con gái soạn tin nội dung để đăng bài tìm mẹ sau một tuần mẹ mất tích. Cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938 bố cô nói rằng mẹ sinh năm 1936 mặc dù trên các giấy tờ ghi là 1938 nhưng thật ra mẹ sinh năm 1936. Đây là lần đầu tiên cô biết điều này, bố cô bảo ngày xưa tất cả mọi người đều làm như thế, có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa đầy năm đã chết. Chính vì vậy khi một đứa bé được sinh ra bố mẹ sẽ nuôi con mình vài ba năm rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36 nhưng anh trai lại bảo phải ghi năm sinh 1938 như trên đúng giấy tờ. Cô thầm nghĩ không biết có cần phải ghi chính xác đến thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ rơi chứ không phải là khai báo với cơ qua chức năng. Nhưng cô cũng sửa số 36 thành 38. Cô cũng tự hỏi ngay cả ngày sinh của mẹ không biết có phải là ngày 24 tháng 7 không...." Đọc xong cuốn sách này bạn sẽ nhận ra cha mẹ đã hy sinh cho chúng ta nhiều như thế nào. Và ta đã ỷ lại tình thương đó, quên mất là cha mẹ cũng cần chúng ta được quan tâm. Khi mà người mẹ mất tích, những đứa con chợt nhận thấy sự hiện hữu của mẹ là vô cùng quan trọng đói với cuộc sống của mình. Và họ đã tự trách bản thân mình, ân hận vì sự vô tâm của mình. Và ngay cả chồng bà bấy lâu cũng đã vô tình đứng ngoài cuộc sống bà, rồi ông cũng đau khổ trách móc bản thân khi sự vệc xảy ra... Sẽ không phí thời gian để đọc đến trang cuối cùng. Câu chuyện phản ánh xã hội Hàn Quốc hàng chục năm về trước nhưng lại chính là không ít câu chuyện đúng với xã hội Việt Nam hiện tại. Đừng để trang sách còn gấp lại dở dang vì những trang cuối cùng mới thực sự cảm động nhất. Đây là cuốn sách văn học hay về cha mẹ mà bạn nên đọc qua.

Câu 2 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?

Trả lời:

- Đó là các thương binh, các bệnh nhân chất độc màu da cam…

- Một nỗi đau về tinh thần, đó là những dư chấn của cuộc chiến, những ám ảnh về chết chóc bom đạn, nỗi đau khi mất đi người thân, gia đình bị ly tán…

- Ô trường bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi những chất thải hóa học dùng để chế tạo bom mìn, các chất độc hóa học giải xuống mặt đất không chỉ gây hại cho con người mà còn phá hủy những cánh rừng, động vật tự nhiên mất đi môi trường sống.

- Phá hủy vô số những công trình xây dựng vĩ đại của nhân loại

- Nguy cơ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng,...

* Đọc văn bản

1. Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.

Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm 41 và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk). 

Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo. 

2. Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.

Đó là những chiếc máy bay lạ, cảnh chết chóc. 

3. Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?

Bị quân đội Đức chiêm mất thành phố và mọi người phải đến Mô-đô-vi-a (Mordovia).

4. Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.

Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến. 

Có con ngựa Mai-ca (Maika) già và rất dịu dàng nhưng bị giết; hai con mèo đói nữa. 

5. Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.

Những đứa trẻ òa khóc, gào khóc không nguôi.

6. Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.

Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom, sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìm tôi. Khi tôi đã 51 tuổi và tôi vẫn muốn khao khát muốn gặp lại mẹ.

Sau khi đọc

Nội dung chính: Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.

Câu 1 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.

Trả lời:

- Năm 1941 – tôi là một đứa bé 8 tuổi, sau khi từ biệt bố mẹ đi dự trại hè đội viên, gặp một trận bom của phát xít Đức, chứng kiến sự đổ máu, chết chóc. Tôi cũng như bao đứa trẻ khác phải rời trại hè, mang theo lương thực, thực phẩm về một vùng hậu phương xa xôi, không có bom đạn. ở  vùng đất mới, những đứa trẻ biết thế nào là thiếu thốn, đói khát, chẳng có gì để ăn, đến nỗi phải giết cả con ngựa già chuyên chở đồ đạc, thậm chí ăn cả chồi mầm, vỏ cây. Trên tất cả là nỗi nhớ mẹ, nhớ đến mức gào khóc không nguôi. Đến lớp ba tôi trốn trại được một gia đình ông già cưu mang. Trong lòng tôi chỉ có một nỗi ước ao, được đi tìm mẹ. Cứ thế mãi sau này, khi đã năm mơi mốt tuổi, tôi vẫn muốn có mẹ.

- Điểm nhấn quan trọng của câu chuyện là các sự kiện liên quan đến mẹ - điều đã được khái quát ở nhan đề của văn bản.

Câu 2 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2):  Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.

Trả lời:

Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. 

Câu 3 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?

Trả lời:

Những ngày đau thương, đói khát, hãi hùng và thiếu thốn tình mẹ của bao đứa trẻ trong chiến tranh khốc liệt – đó chính là nét đặc biệt của bức tranh cuộc sống được tái hiện trong văn bản. Bức tranh này được tạo nên bằng nhiều chi tiết, hình ảnh sống động:

- Máy bay đánh bom, tất cả sắc màu đều biến mất. Lần đầu tiên đứa bé biết đến từ chết chóc.

- Trên tàu, những đứa trẻ chứng kiến cảnh nhiều người lính bị thương, rên la vì đau đớn.

- Triền miên trong đói khát, người ta giết thịt cả con ngựa già thân thiết duy nhất, rồi phải ăn cây cỏ để sống qua ngày.

- Trong trại hè mồ côi, hàng chục đứa bé khóc rền gọi ba mẹ. Mỗi lần từ “mẹ” được ai vô tình nhắc tới, chúng lại “gào khóc không nguôi”.

- Đứa bé lớp ba trốn trại đi tìm mẹ, đói lả đến kiệt sức, may được ông già đem về nuôi...

Câu 4. (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.

Trả lời:

Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của  nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.

Câu 5 (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo bạn, những yếu tố nào có khả năng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?

Trả lời:

Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.

Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại. 

Kết nối đọc – viết

Bài tập (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: "Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ".

Đoạn văn tham khảo

Chiến tranh đã dần tước đi tất cả. Chiến tranh cũng đã khiến cho những đứa trẻ vỡ mộng một cách tàn nhẫn, khi chúng đau đớn nhận ra rằng trò chơi giả trận chẳng hề giống như những gì chúng vẫn luôn nghĩ đến. Chiến tranh cũng đã tác động sâu sắc đến nhận thức của những đứa trẻ, khiến cho chúng như “đã già đi”, không còn giữ được sự ngây thơ, hồn nhiên, mà nhìn cuộc đời bằng sự tiêu cực, trực diện với những chiều kích tăm tối của nó. Chỉ trong hai câu văn ngắn thế này, mà nỗi đau đằng đẵng suốt năm tháng gắn liền với khát vọng yêu thương tận cùng trái tim vang lên đầy day dứt: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.” (Lời của một người đã mất mẹ trong cuộc chiến). Hai câu thơ cho thấy niềm khao khát của một đứa trẻ đã mất mẹ trong thời chiến thật ám ảnh, day dứt biết bao! 

Xem thêm các bài soạn văn Ngữ văn 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Soạn bài Cà Mau quê xứ

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 51

Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội

Soạn bài Thảo luận, tranh luận về một vấn đề trong đời sống

Đánh giá

0

0 đánh giá